Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.91 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG MỘNG TRI

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG MỘNG TRI

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các nội dung và
trích dẫn trong luận văn này là trung thực và chính xác. Những kết luận khoa học
của luận văn không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được
công bố.
Tác giả luận văn

Dương Mộng Tri


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC ......................................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặt trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................................................7
1.2. Các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ......................................................................255
1.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác với một số tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự ......................27
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 6 THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH ........................................................................................................ 33
2.1. Thực tiễn định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ...........................................................................................33

2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .....................................48
Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TẠI QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................................... 57
3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .................................................................57
3.2. Hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................699
3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe cho người khác trên địa bàn Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh ...711


3.4. Nâng cao năng lực của người áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong ngành Tòa án tại Quận 6 Thành
phố Hồ Chí Minh ....................................................................................................733
3.5. Các biện pháp khác ............................................................................................74
KẾT LUẬN............................................................................................................. 788
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS


Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

QĐHP

Quyết định hình phạt

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trường hợp dẫn đến chết người với tội giết người trong trường hợp
tội phạm hoàn thành ..................................................................................................29
Bảng 1.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tội giết người trong trường hợp phạm tội chưa đạt ..........................31
Bảng 2.1. Số liệu tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác tại Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017 ...35
Bảng 2.2. Số liệu về loại hình phạt, mức hình phạt, số bị cáo bị xét xử về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2013 đến
năm 2017 ...................................................................................................................49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội con người là vốn quý nhất, là một thực thể quyết định sự hình
thành và phát triển xã hội, vì lẽ đó con người luôn được xã hội bảo vệ, cụ thể là tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được xã hội ghi nhận và pháp
luật bảo vệ một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ. Nguyên tắc này đã được xã hội ghi
nhận trong các bản Hiến pháp qua các thời kỳ và một lần nữa nó được Hiến pháp
năm 2013 kế thừa và ghi nhận:“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [23, tr.6]. Nguyên tắc này cũng được
pháp luật bảo vệ và được quy định cụ thể trong BLHS năm 2015:“Bộ luật hình sự

có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng
bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật,
chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm” [21, tr.5].
Quận 6 TPHCM với vị trí địa lý nằm về phía tây nam thành phố, phía bắc
giáp với quận Tân Phú và Quận 11, Phía đông giáp với Quận 5, Phía nam giáp với
Quận 8, Phía tây giáp với quận Bình Tân. Là cửa ngõ giao thương và vận chuyển
hàng hóa với các tỉnh miền đông, miền tây nam bộ và các tỉnh thành khác trong cả
nước. Quận 6 có khu vực Chợ Lớn là nơi tập trung bán buôn và phân phối tất cả các
mặt hàng cho các chợ trong và ngoài thành phố, đặc biệt là chợ đầu mối Bình Tây là
một trong những trung tâm bán buôn lớn nhất của cả nước. Bên cạnh đó, Quận 6 có
nhiều nhà máy sản xuất, chế biến hàng tiêu dùng và đặc biệt là các cơ sở sản xuất
kinh doanh mang tính cá thể, hộ gia đình, tiểu thủ công nghiệp. Thế mạnh của Quận
6 là sản xuất, thương mại, trong đó chủ yếu là bán buôn và thực hiện trao đổi các
sản phẩm hàng hóa với tất các tỉnh thành trong cả nước. Trong những năm gần đây,
Chính quyền Quận 6 đã thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
1


hướng “Thương mại - Dịch vụ - Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp” qua đó tạo sự
chuyển biến rõ nét, tích cực trong phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Quận 6
có tổng diện tích là 7,19 km2, chiếm 0,35% tổng diện tích tự nhiên của toàn thành
phố. Dân số hiện nay của Quận 6 là khoảng hơn 260.000 người, bao gồm người
Kinh chiếm khoảng 73%, người Hoa chiếm khoảng 26% còn lại là người Chăm,
người Khơ - me, người Tày, người Nùng. Với những điều kiện tự nhiên và xã hội
thuận lợi đó đã tạo nền tảng thúc đẩy nền kinh tế Quận 6 phát triển rất nhanh chóng
và ổn định. Hiện nay dân số cơ học của Quận 6 tăng lên rất nhanh với phần đông là
dân nhập cư ở các tỉnh khác đến định cư, làm ăn và sinh sống, tạo nên mật độ dân
số cao, dân số trẻ và đa số là thành phần lao động phổ thông. Trong số đó vẫn còn

không ít người không có việc làm hoặc có việc nhưng không có tính ổn định, hiện
tượng tăng dân số cơ học cùng với sự không ổn định trong cuộc sống cũng như
trong công việc của người dân tại địa phương là nguyên nhân và là nguồn cho tội
phạm phát triển, đặc biệt là tội phạm về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con người.
Trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người thì tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
một trong những tội có xu hướng gia tăng về quy mô, tính chất và mức độ ngày
càng nghiêm trọng, dẫn đến tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp, gây nên
nhiều khó khăn cho công tác quản lý xã hội của các cơ quan nhà nước. BLHS năm
2015 đã ghi nhận và quy định rất cụ thể về tội danh này tại Điều 134. Tuy nhiên,
trong thực tế việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để xử lý đúng người,
đúng tội đối với loại tội phạm này vẫn còn nhiều vấn đề nhận thức khác nhau, nhiều
văn bản hướng dẫn để giải quyết vướng mắc về một số tình tiết vẫn chưa có sự
thống nhất, có nhiều trường hợp nhận định không đúng tội danh hoặc bỏ sót tội
phạm làm ảnh hưởng đến công tác điều tra, truy tố, xét xử. Cụ thể như một số hồ sơ
vụ án không thể đưa ra xét xử đúng thời hạn theo quy định vì phải chờ có kết quả
giám định tỷ lệ tổn thương; Điều kiện để vụ án được khởi tố là phải thực hiện theo
yêu cầu người bị hại, nên thường phát sinh nhiều vấn đề phức tạp như người phạm
2


tội cố tình thương lượng, mua chuộc hoặc thậm chí đe dọa làm cho người bị hại
không dám yêu cầu khởi tố hoặc không thể thực hiện giám định thương tật.
Do đó việc lựa chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 6
Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn nghiên cứu là rất cần thiết và hết sức cấp
bách nhằm bảo đảm thực hiện tốt trong việc áp dụng pháp luật hình sự và nhiệm vụ
đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo sự ổn định về trật tự an toàn xã hội và
phát triển kinh tế trên địa bàn Quận 6 TPHCM.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Theo khảo sát của tác giả, vấn đề về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu
và có rất nhiều công trình khoa học lớn, điển hình như: GS.TSKH. Lê Văn Cảm,
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), GS.TS. Võ Khánh Vinh,
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), ThS. Đinh Văn Quế, Bình
luận khoa học (phần các tội phạm), các tác giả khác như TS. Trần Văn Luyện,
PGS.TS. Phùng Thế Vắc, ThS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Mai Bộ, ThS.
Nguyễn Sỹ Đại, ThS. Phạm Thanh Bình cũng đã có những công trình bình luận
khoa học về phần các tội phạm trong BLHS. Bên cạnh đó còn có các bài luận văn
nghiên cứu về tội phạm này với góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm như tác
giả Võ Ngọc Đường, Lê Văn Quang, Đinh Hoài Thu, vấn đề này cũng được phản
ảnh nhiều với nhiều hình thức thông qua các bài viết được đăng trên các tạp chí, tập
san về pháp luật. Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm rõ
được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của tội danh này dưới nhiều khía cạnh và góc
độ khác nhau. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu về pháp luật hình sự vẫn chưa
có công trình nghiên cứu đặt trưng nào nghiên cứu về áp dụng pháp luật cũng như
đưa ra những hạn chế, bất cập về thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến
hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam
trong những năm gần đây trên địa bàn Quận 6 TPHCM.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận
và thực tiễn, về vấn đề áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong những năm gần đây trên địa
bàn Quận 6 TPHCM. Từ đó làm cơ sở để đưa ra các kiến nghị và giải pháp giúp

hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối
với loại tội phạm nói trên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung và các biện pháp trách nhiệm
hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác đồng thời phân biệt những đặt điểm khác nhau giữa tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội danh khác.
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về thực trạng trong việc áp dụng các quy
định pháp luật hình sự, đồng thời rút ra những kết quả đạt được, những bất cập, hạn
chế, nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam
trong những năm gần đây trên địa bàn Quận 6 TPHCM.
Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 6 TPHCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các vụ án hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và công tác phòng chống
tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn Quận 6 TPHCM từ năm 2013 đến năm 2017.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu về những vấn đề lý luận
chung và nghiên cứu tình hình thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự đối
4


với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa
bàn Quận 6 TPHCM trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài này là dựa trên phương
pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của học thuyết tư tưởng
triết học Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước về chính sách hình sự trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp tổng hợp gồm các phương pháp nghiên cứu truyền
thống của khoa học xã hội cũng như của khoa học pháp lý như phương pháp lịch sử,
phân tích, thống kê, so sánh, lấy ý kiến chuyên gia. Dựa trên các số liệu thực tiễn
trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự của cơ quan có thẩm
quyền đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn Quận 6 TPHCM.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn này có ý nghĩa quan trọng là làm rõ
những vấn đề về lý luận và đánh giá thực trạng áp dung pháp luật hình sự trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác. Đồng thời tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
nhằm đưa ra những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả, góp phần hoàn thiện lý luận
về tội phạm và về việc áp dụng pháp luật đối với tội danh đó.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thực tiễn là góp phần làm sáng
tỏ hơn nữa các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nâng cao hiệu quả về việc áp dụng pháp
luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 6 TPHCM, góp phần trong
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, luận văn này còn có thể sử dụng
5


làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức và có thể sử dụng cho

công việc tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung luận văn được sắp xếp ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần
danh mục tài liệu tham khảo, được chia thành ba chương chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật hình sự đối với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác tại Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặt trưng của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Khái niệm tội phạm luôn là vấn đề trung tâm của pháp luật hình sự. Trong
lịch sử khoa học pháp lý hình sự có nhiều quan điểm về khái niệm tội phạm, việc
đưa ra khái niệm này cho phép nhận biết hành vi nào là tội phạm, hành vi nào
không phải là tội phạm. Ở các nước Châu Âu, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý
hình sự chỉ quan tâm và nhấn mạnh đến tính hình thức của tội phạm, cụ thể họ cho
rằng “Tội phạm được hiểu là các hành vi do luật hình quy định” hoặc là “Tội phạm
là hành vi bị luật hình sự cấm hoặc là hành vi bị đạo luật hình sự trừng trị” (BLHS

Pháp năm 1810) hoặc là “Tội phạm là hành vi do luật hình sự cấm bằng nguy cơ xử
phạt” (BLHS Thụy Sĩ năm 1937) [35, tr.45], như vậy các yếu tố luật hình sự quy
định, luật hình sự cấm, luật hình sự trừng trị là đặc điểm đặc trưng của tội phạm.
Khái niệm tội phạm được các nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra với nhiều
quan điểm khác nhau, như có quan điểm định nghĩa về khái niệm “Tội phạm là sự
vi phạm trật tự các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ” [9, tr.105], song
cũng có quan điểm về khái niệm tội phạm là “hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi,
trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt” [8, tr.253]. Nhưng nhìn chung đều
xác định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; tội phạm được quy định trong
Bộ luật hình sự; tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự thực hiện; thực hiện hành vi phạm tội có lỗi vô ý hoặc cố ý; tội
phạm xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Trong BLHS năm 2015 đã kế thừa quan điểm về tội phạm của BLHS năm
1999 và đưa ra khái niệm “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
7


nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [21, tr.11]. Tuy nhiên có sự khác biệt là
trong BLHS năm 2015 đã xác định rõ vấn đề tội phạm là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà theo quy định của bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Quan điểm về tội
phạm mà BLHS năm 2015 quy định có thể xem là một khái niệm mang tính cơ bản
và tính thực tiễn, tập trung cao nhất thể hiện quan điểm của nhà nước về chính sách
hình sự, về tội phạm và là nền tảng của luật hình sự. Khái niệm này có các dấu hiệu
đặt trưng cơ bản giúp nhận định và phân biệt những hành vi nào là tội phạm với

những hành vi không phải là tội phạm, thể hiện qua tính nguy hiểm cho xã hội, tính
trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính chịu hình phạt của tội phạm.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy
định trong BLHS là một loại tội phạm cụ thể. Về khái niệm của loại tội phạm này
có rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu đưa ra, như là:“Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một
người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe” [19, tr.126]
hoặc cũng có quan điểm cho rằng:“Tội cố ý gây thương tích là hành vi cố ý làm cho
người khác bị thương, xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khoẻ của con người.
Hành vi cố ý gây thương tích bị coi là tội phạm, tội phạm đó được quy định tại Bộ
luật hình sự” [11, tr.44]. Nhìn chung, khái niệm về tội danh này được nhiều nhà
nghiên cứu nhìn nhận nhất đó là:“Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể của người
khác, gây thiệt hại cho sức khỏe dưới dạng thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong các trường hợp luật định” [34, tr.96], khái niệm này đã
thể hiện rõ những đặc điểm đặc trưng cơ bản của loại tội phạm này như sau:

8


Tính nguy hiểm cho xã hội: là đặc điểm cơ bản và quan trọng quyết định các
đặc điểm khác của tội phạm, là tiêu chí để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp
luật khác. đặc điểm đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là người phạm tội thực hiện hành vi trái pháp luật tác động đến
thân thể của nạn nhân làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ, những
hành vi như: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc... làm cho cơ thể nạn nhân bị
thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe với một tỉ lệ nhất định. Hình thức hành vi
của tội phạm này giống với hành vi của tội phạm giết người, nhưng có hậu quả và
tính chất mức độ nguy hiểm ít hơn, do đó chỉ làm cho nạn nhân bị tổn thương cơ thể
gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và không dẫn đến cái chết cho nạn nhân.

Tính trái pháp luật hình sự: Tính trái pháp luật hình sự của tội phạm nghĩa là
tội phạm về mặt hình thức phải được quy định trong BLHS. Tính trái pháp luật hình
sự có cơ sở pháp lý từ một quy định mang tính nguyên tắc, đó là “Chỉ người nào
phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì mới phải chịu hình
phạt” [21, tr.6]. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác được thể hiện là người phạm tội thực hiện những hành vi tác động đến
thân thể nạn nhân, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nạn nhân và
những hành vi này bị luật hình sự nghiêm cấm và được quy định trong BLHS.
Tính có lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của
mình và là hậu quả của hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc
vô ý, thể hiện sự phủ nhận các yêu cầu của xã hội. Người bị coi là có lỗi khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu hành vi đó là kết quả của sự lựa chọn và
quyết định của một người với một trình độ nhận thức nhất định đó là khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của mình. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được BLHS quy định đối với người thực hiện tội phạm
thường là thể hiện lỗi là cố ý, nói một cách khác là người phạm tội luôn biết được
việc mình làm và nhận thức rõ việc thực hiện hành vi tác động trái pháp luật đến
thân thể người khác sẽ gây ra thương tích hoặc tổn hại cho cơ thể nạn nhân và người
phạm tội mong muốn thực hiện hành vi đó. Ý định của người phạm tội là muốn gây
9


ra tổn thương cho nạn nhân hoặc gây ra hậu quả là nạn nhân sẽ bị thương tích và tổn
hại đến sức khỏe sau khi thực hiện hành vi. Hành vi này được thực hiện với hình
thức lỗi cố ý và là dấu hiệu đặc trưng của loại tội phạm này.
Tính chịu hình phạt: Là đặc điểm cơ bản của tội phạm vì không thể tách hình
phạt ra khỏi tội phạm, tội phạm là cơ sở để áp dụng hình phạt, đối với mọi hành vi
phạm tội thì bao giờ cũng qui định loại hình phạt và mức hình phạt đối với loại tội
phạm đó. Tuy nhiên có trường hợp người phạm tội không phải chịu hình phạt, đó là
trường hợp người phạm tội có tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình

phạt hoặc miễn chấp hành hình phạt. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, trong BLHS có quy định các mức hình phạt đối
với người phạm tội là: cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân.
Các đặc điểm đặc trưng trên là cơ sở để phân biệt tội phạm của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các hành vi vi phạm
pháp luật khác. Hiện nay, vấn đề về các dấu hiệu, đặc điểm của tội phạm vẫn còn
nhiều quan điểm chưa thống nhất về nhận thức, một số nhà nghiên cứu cho rằng
ngoài các dấu hiệu đặc điểm của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái
pháp luật hình sự, tính có lỗi, tính chịu hình phạt cũng còn có dấu hiệu đặc điểm
nữa là hành vi phạm tội phải do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
thực hiện được quy định trong BLHS.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
được BLHS quy định là một tội phạm cụ thể nhưng khi xem xét về khía cạnh thực
hiện hành vi phạm tội đã thể hiện rõ ràng có hai yếu tố xác định hành vi phạm tội
này đó là hành vi gây thương tích cho người khác và hành vi gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác. Hành vi gây thương tích cho người khác là hành vi của người
phạm tội thực hiện trái pháp luật tác động lên cơ thể người khác, gây ra cho cơ thể
họ những thương tích hoặc làm cho nạn nhân mất đi một hay nhiều bộ phận cơ thể
gây ra những tỷ lệ thương tích nhất định. Việc thực hiện hành vi tác động này của
người phạm tội có thể thực hiện trực tiếp bằng tay, chân hoặc sử dụng các công cụ
phương tiện hỗ trợ như: dao, súng, gậy, mã tấu… Hành vi gây tổn hại cho sức khỏe
10


của người khác là hành vi của người phạm tội thực hiện trái pháp luật tác động lên
cơ thể người khác làm cho sức khỏe của họ bị yếu đi và gây tổn hại đến các chức
năng, bộ phận trong cơ thể con người không còn nguyên vẹn so với lúc ban đầu.
Hành vi tác động này người phạm tội có thể sử dụng bằng nhiều cách khác nhau và
dùng nhiều thủ đoạn khác nhau không để lại dấu vết như: bỏ thuốc độc vào thức ăn,
dùng hóa chất độc hại, dùng axit…

Bên cạnh đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác phải cần có yếu tố bắt buộc là phải có hậu quả xảy ra tức là trên cơ thể
nạn nhân bắt buộc phải có thương tích hoặc có tổn hại đến sức khỏe với tỷ lệ phần
trăm nhất định và phải được xác định bằng cách giám định pháp y của cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Do đó yếu tố có hậu quả xảy ra là yếu tố
cơ bản và là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Cấu thành tội phạm là mô hình pháp lý của một tội phạm được quy định
trong BLHS, nó là tổng hợp những dấu hiệu chung và phản ánh được tính chất đặc
trưng cho mỗi loại tội phạm cụ thể. Mỗi loại tội phạm đều có những dấu hiệu phản
ánh được bản chất nguy hiểm cho xã hội với những nét điển hình đặc trưng riêng.
Cấu thành tội phạm của mỗi loại tội phạm cụ thể luôn có cùng cấu trúc chung gồm
bốn yếu tố cấu thành: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể
của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Các yếu tố này phản ánh chính xác bản
chất của một tội phạm cụ thể, nó làm rõ đặc điểm pháp lý của tội phạm đó. Mỗi yếu
tố cấu thành của tội phạm đều có mặt quan trọng của nó và có ý nghĩa nhất định
trong việc xác định tội phạm, vì thế nếu thiếu một trong những yếu tố đó thì một
hành vi không thể bị coi là tội phạm. Các yếu tố này không tồn tại một cách độc lập
mà nó có sự liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một thể thống nhất giữa các yếu tố
khách quan và yếu tố chủ quan của tội phạm, giữa những biểu hiện bên trong và
biểu hiện bên ngoài của tội phạm, đồng thời nó phản ánh mức độ tính chất và mức
độ nguy hiểm cho mỗi loại của tội phạm.
11


Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được
BLHS quy định là một loại tội phạm cụ thể, do đó trong tội phạm này có đầy đủ các
yếu tố cấu thành đó là khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ
thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm.

1.1.2.1. Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Khách thể của tội phạm “là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại” [35, tr.64]. Bất kỳ quan hệ xã hội nào trong các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại đều được hợp thành ba bộ
phận: Chủ thể quan hệ xã hội là con người với tư cách là thực thể tự nhiên và thực
thể xã hội; Nội dung của quan hệ xã hội là các hoạt động bình thường khi tham gia
vào các quan hệ xã hội của các chủ thể thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
nhất định; Đối tượng vật chất của quan hệ xã hội là các sự vật hoặc các lợi ích vật
chất mà thông qua đó các quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại. Các bộ phận hợp
thành này chính là đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội
phạm“là một bộ phận của khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến
để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội là khách thể
được bảo vệ của luật hình sự” [35, tr.85]
Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác đó là các quyền được tôn trọng, được bảo vệ sức khỏe của con người và
được pháp luật bảo hộ. Đối tượng tác động của tội phạm này là thân thể và sức khỏe
của những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ, đó chính là những con người
đang sống, đang tồn tại trong thế giới hiện thực khách quan với tư cách vừa là một
thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội tồn tại trong xã hội
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
Mặt khách quan của tội phạm“là những thể hiện bên ngoài của tội phạm bao
gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như những biểu hiện bên ngoài khác luật
hình sự” [35, tr.64].
12


Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của người
phạm tội diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, với các dấu hiệu đặc
trưng là: Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; Hậu quả nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm; Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; Các điều kiện để thực hiện tội
phạm của người phạm tội như thời gian, phương tiện, địa điểm, công cụ phạm tội
hoàn cảnh phạm tội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi khách quan của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đó là các hành vi có khả năng
gây nên những thương tích và gây ra những tổn thương cho cơ thể dẫn đến làm tổn
hại cho sức khỏe của con người. Những hành vi này có thể là hành động hoặc là
không hành động, có thể được thực hiện những với công cụ, phương tiện phạm tội
khác nhau hoặc có thể thông qua một chủ thể khác nhằm đạt được mục đích mong
muốn. Hành vi khách quan của tội phạm này có các đặc điểm sau:
+ Hành vi khách quan của tội phạm này có tính nguy hiểm cho xã hội. Tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội này được thể hiện là những hành vi phải
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho người khác, đó là những hành vi như
đâm, chém, đánh, đập, cho uống thốc độc, hóa chất, tạt axit…Những hành vi này
khi tác động vào thân thể con người sẽ tạo ra những thương tích hoặc gây ra những
tổn thương cho một hoặc một số bộ phận trên cơ thể hoặc gây ra những tổn hại
trong cơ thể như làm suy yếu hoặc làm giảm hoặc mất đi hoàn toàn các chức năng
của một hay một số cơ quan nào đó trong cơ thể con người, làm ảnh hưởng đến khả
năng hoạt động trong lao động, sinh hoạt cũng như ảnh hưởng đến khả năng về
nhận thức trong suy nghĩ, học tập, sáng tạo của nạn nhân.
+ Hành vi khách quan của tội phạm này là hoạt động có ý thức và có ý chí.
Hành vi khách quan này được tội phạm kiểm soát bằng ý thức và điều khiển bằng ý
chí, đó là hành vi có chủ ý và là hành vi cố ý. Người phạm tội bằng ý chí và suy
nghĩ của mình nhất quyết thực hiện cho được mong muốn là gây ra những thương
13



tích hoặc gây ra ít nhiều tổn hại lên thân thể nạn nhân bằng mọi cách. Đó là hành vi
cố ý phạm tội của tội phạm.
+ Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi trái pháp luật hình sự.
Hành vi này của tội phạm được thể hiện qua việc người phạm tội đã thực hiện hành
vi tác động đến thân thể và xâm hại đến sức khỏe con người, đó là những hành vi bị
pháp luật hình sự ngăn cấm và được quy định trong BLHS. Hành vi khách quan của
tội phạm này còn được thể hiện thông qua dưới các hình thức là phạm tội dưới dạng
hành động và phạm tội dưới dạng không hành động. Đối với tội danh này thì phạm
tội dưới dạng hành động là hành vi của người phạm tội thực hiện những hành vi cố
ý như đánh, đá, chém, bắn…hậu quả thường mang lại thương tích và gây tổn hại
cho nạn nhân. Còn những hành vi phạm tội dưới dạng không hành động thường thể
hiện qua người phạm tội không thực hiện hành vi cố ý gây thương tích mà thực hiện
hành vi đe dọa, uy hiếp nhằm làm tê liệt ý chí nạn nhân và ép buộc nạn nhân tự gây
ra thương tích hoặc gây tổn hại cho bản thân mình.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm “là thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự” [35, tr.98]. Căn cứ
vào hành vi phạm tội của tội phạm tác động đến phần nào của quan hệ xã hội là
khách thể bảo vệ của luật hình sự sẽ tạo ra những loại thiệt hại khác nhau như:
Thiệt hại về vật chất “là sự biến đổi trạng thái bình thường của đối tượng vật chất
là tài sản”; Thiệt hại về thể chất là “là sự biến đổi trạng thái bình thường của thực
thể tự nhiên của con người, là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe do hành vi phạm tội
gây ra”; Thiệt hại về phi vật chất “là thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, tự do của
con người hoặc thiệt hại về an ninh chính trị, an toàn xã hội do hành vi phạm tội
gây ra” [35, tr.95].
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này là những thiệt hại do hành
vi phạm tội gây ra chủ yếu là sức khỏe của nạn nhân, bên cạnh đó cũng trường hợp
tội phạm thực hiện hành vi phạm tội gây thiệt hại không những về sức khỏe mà còn
thiệt hại về vật chất và tinh thần cho nạn nhân. Trong BLHS hiện hành có quy định
về mức độ thiệt hại để xác định hậu quả nguy hiểm cho xã hội và phải chịu trách

14


nhiệm hình sự của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, đó là những mức độ thiệt hại về tổn thương cơ thể với tỷ lệ từ 11% trở lên, tuy
nhiên có một số trường hợp tỷ lệ tổn thương dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp sau đây vẫn bị xem là có hậu quả nguy hiểm cho xã hội và vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:
+ Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng
gây nguy hại cho nhiều người.
- Vũ khí là thiết bị, phương tiện được chế tạo có khả năng phá hủy các kết
cấu vật chất hoặc có khả năng gây sát thương cho tính mạng, sức khỏe con người,
bao gồm vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, súng săn…và các loại vũ
khí khác có tính năng và có tác dụng tương tự.
- Vật liệu nổ là các sản phẩm do con người chế tạo bằng cách vận dụng các
phản ứng hóa học nhanh, mạnh nhằm tạo ra các hiện tượng tỏa nhiệt, sinh khí, gây
ra tiếng nổ thông qua việc tác động tạo xung kích thích ban đầu, bao gồm các loại
bom, mìn, lựu đạn, thủy lôi, ngư lôi, hỏa pháo…
- Hung khí nguy hiểm bao gồm các loại dao, dao găm, kiếm, mác, đao, mã
tấu, cung tên, nỏ…Các công cụ, dụng cụ được con người chế tạo ra nhằm phục vụ
cho sinh hoạt và sản xuất trong cuộc sống như búa, gậy, cưa, đục, các loại dao…Vật
có sẵn trong tự nhiên như gạch, đá, gậy, cây gỗ…Hoặc vật do người phạm tội chế
tạo ra như côn sắt, thanh sắt được mài nhọn…Ngoài ra còn nhiều loại vật tương tự
được dùng làm hung khí nguy hiểm.
- Thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là sử dụng những
phương pháp, cách thức hoặc dùng những phương tiện, công cụ để thực hiện hành
vi phạm tội có khả năng gây ảnh hưởng và gây nguy hại cho nhiều người, như sử
dụng bom, mìn, bỏ thuốc độc vào nguồn nước, lái xe tông vào đám đông, đốt nhà
lúc có nhiều người trong nhà…Đây được quy định là tình tiết định khung tăng nặng
vì nó thể hiện sự độc ác, nham hiểm và gây nguy hại lớn cho xã hội của tội phạm.

+ Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm.

15


Đây là quy định hoàn toàn mới được đề cập trong BLHS năm 2015 do nhu
cầu thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà người phạm tội sử
dụng a-xít đối với nạn nhân. A-xít là hợp chất hóa học có tính hủy hoại rất cao, khi
được tiếp xúc trực tiếp với cơ thể con người chúng sẽ tàn phá và gây biến dạng thân
thể con người làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và hình dáng bên ngoài của nạn
nhân và có thể dẫn đến chết người. Do đó, trong quá trình dự thảo xây dựng BLHS
năm 2015 có rất nhiều ý kiến cho rằng hành vi sử dụng a-xít của tội phạm đối với
nạn nhân sẽ gây ra hậu quả tổn thương rất khốc liệt về thể chất cũng như ảnh hưởng
rất lớn về tinh thần cho nạn nhân, nên cần phải có biện pháp xử lý và trừng trị
nghiêm khắc đối với hành vi này, bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng cần phải
truy cứu TNHS về tội giết người đối với hành vi sử dụng a-xít đối với nạn nhân.
Nhưng cuối cùng BLHS cũng chỉ quy định về hành vi sử dụng a-xít của người
phạm tội đối với nạn nhân là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt đối với tội cố
ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, trong
trường hợp hành vi của người phạm tội là cố ý sử dụng a-xít đối với nạn nhân mà
gây ra hậu quả dẫn đến chết người thì phải xem xét hành vi này cấu thành tội giết
người chứ không thể xét xử là tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người.
Bên cạnh đó, BLHS cũng quy định “hoặc hóa chất nguy hiểm” đối với
những trường hợp người phạm tội không sử dụng a-xít mà lại sử dụng các loại hóa
chất khác có tính chất và mức độ nguy hiểm tương tự như a-xít nhằm gây tổn
thương cho nạn nhân. Việc xác định hóa chất nguy hiểm được căn cứ vào danh mục
ban hành kèm theo Thông tư số 07/2013/TT-BCT của Bộ Công Thương. Các cơ
quan tiến hành tố tụng cần dựa vào các danh mục theo quy định để làm căn cứ xác
định người phạm tội có dùng hóa chất nguy hiểm hay không và trường hợp cần thiết
thì cũng cần thông qua quy trình giám định đối với các loại hóa chất đó.

+ Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm
đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ
- Người dưới 16 tuổi được xác định là trẻ em căn cứ vào giấy khai sinh hoặc
căn cứ vào thực tế và theo quy định của pháp luật, đây là tình tiết định khung tăng
16


nặng được quy định trong BLHS nhằm trừng trị nghiêm minh người phạm tội đối
với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho trẻ em, bảo đảm cho
việc thực hiện các quy định về chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
- Phụ nữ biết là có thai được xác định thông qua các chứng cứ nhằm chứng
minh là người phụ nữ đó đang mang thai và được bị cáo và mọi người đều nhìn thấy
hoặc được bị cáo nghe hoặc được biết từ các nguồn thông tin khác nhau về người
phụ nữ đó. Trường hợp thực tế khó có thể nhận biết được người phụ nữ đó đang
mang thai hoặc giữa lời khai về vấn đề này của bị cáo và người bị hại có mâu thuẫn
với nhau thì phải dựa vào căn cứ kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc qua kết
quả giám định để xác định được người phụ nữ có thai hay không.
- Người già yếu là người được xác định từ 70 tuổi trở lên, luôn gặp khó khăn
trong việc sinh hoạt trong cuộc sống.
- Người đau ốm được xác định là người đang bị bệnh nặng, đang trong thời
gian được điều trị bệnh tại nhà, tại bệnh viện hoặc tại các cơ sở y tế khác.
- Người không có khả năng tự vệ được xác định là người mất khả năng hoặc
không đủ khả năng chống lại hành vi phạm tội như một người bình thường bao gồm
người bị khuyết tật bẩm sinh như bị mù, bị câm điếc, bị cụt tay, cụt chân, người bị
tâm thần nhẹ; người bị khiếm khuyết về thể chất như bại liệt, què quặc…người bị
hạn chế về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình và các tình tiết này
cũng được xem là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định trong BLHS.
+ Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng,
chữa bệnh cho mình
- Ông, bà được xác định gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người

đã sinh ra cha và mẹ của người phạm tội
- Cha, mẹ được xác định gồm cha ruột, mẹ ruột là người sinh ra người phạm
tội; cha nuôi, mẹ nuôi là người tuy không sinh ra người phạm tội nhưng đã có công
nuôi dưỡng và nhận người phạm tội làm con nuôi và việc này được cơ quan có thẩm
quyền công nhận
- Thầy giáo cô giáo của mình được xác định là những người đang làm công
tác giảng dạy, đào tạo tại các cơ quan tổ chức có chức năng giáo dục và đào tạo
17


được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc các tổ chức dạy nghề tư nhân
và những người này đã và đang trực tiếp giảng dạy và đào tạo cho người phạm tội.
- Người nuôi dưỡng cho mình được xác định là những người chăm sóc, quản
lý, giáo dục người phạm tội như vai trò cha mẹ của mình.
- Người chữa bệnh cho mình được xác định là những người đang trực tiếp
thăm, khám, chữa bệnh cho người phạm tội hoặc là những người đang chăm sóc về
y tế cho người phạm tội tại các cơ sở y tế hoặc tại các địa điểm khác.
+ Có tổ chức:“Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết
chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm” [21, tr.15], đây được xem là
tình tiết tăng nặng TNHS được quy định trong BLHS.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Đây là tình tiết mới đối với tội ý gây thương
tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định trong BLHS, trong
đó quy định cụ thể trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội khi đang có chức vụ,
quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để thực hiện hành vi phạm tội của
mình và đây cũng được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
+ Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang
chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
- Trong thời gian đang bị giữ là trường hợp người đang bị cơ quan điều tra

hoặc cơ quan chức năng có thẩm quyền bắt giữ nhưng chưa qua giai đoạn tạm giữ
hình sự mà có hành vi cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác thì bị coi là tội phạm nghiêm trọng hơn.
- Trong thời gian tạm giữ là trường hợp người đang bị tạm giữ trong các nhà
tạm giữ của cơ quan công an hoặc cơ quan điều tra theo lệnh tạm giữ của người có
thẩm quyền đã thực hiện hành vi cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong nhà tạm giữ.
- Trong thời gian tạm giam là trường hợp người đang bị tạm giam trong các
nhà tạm giam của cơ quan công an hoặc cơ quan điều tra theo lệnh tạm giam của
18


×