Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, chi nhánh Ba Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.74 KB, 116 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi, được thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức chuyên ngành,
nghiên cứu tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.
Nguyễn Thị Mùi.
Mọi thông tin và số liệu trong luận văn này là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Nguyễn Cao Luân


2

MỤC LỤC


3

TỪ NGỮ VIẾT TẮT
EXIM BANK
EXIM BANK – Ba Đình
ĐCTC
HĐV
KH
NHNN
NHTƯ
NHTM
TCKT
TCTD


TMCP

: Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam
: Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam
:
:
:
:
:
:
:
:
:

chi nhánh Ba Đình
Định chế tài chính
Huy động vốn
Khách hàng
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng thương mại
Tổ chức kinh tế
Tổ chức tín dụng
Thương mại cổ phần


4

DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ
Sơ đồ

Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức Eximbank Ba đình.......................................................50

Bảng
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Eximbank Ba Đình giai đoạn 2013-2015...53
Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ tín dụng tại Eximbank Ba Đình.........................................55
Bảng 2.3: Chất lượng tín dụng của EXIMBANK Ba Đình......................................56
Bảng 2.4: Thu dịch vụ thuần tại Eximbank Ba Đình...............................................57
Bảng 2.5: Kết quả kinh doanh qua tại Eximbank Ba Đình (2013-2015)..................58
Bảng 2.6 Tình hình hiệu quả huy động vốn của Eximbank Ba Đình giai đoạn........59
2013-2015................................................................................................................ 59
Bảng 2.7: Cơ cấu vốn huy động của Eximbank Ba Đình phân theo đối tượng huy
động......................................................................................................................... 60
Bảng 2.8: Cơ cấu vốn huy động của Eximbank – Ba Đình phân theo loại tiền.......62
Bảng 2.9: Cơ cấu vốn huy động của Eximbank Ba Đình phân theo kì hạn.............63
Bảng 2.10. Chi phí huy động vốn của Eximbank....................................................65
Bảng 2.11: Thu nhập từ hoạt động huy động vốn của..............................................66
EXIMBANK – Ba Đình..........................................................................................66
Bảng 2.12 Huy động và sử dụng vốn cho vay theo kỳ hạn......................................68
Bảng 2.13 Huy động và sử dụng vốn cho vay theo loại tiền....................................70
Bảng 2.14. Đánh giá của người hỏi về mức độ tin cậy của ngân hàng....................73
Bảng 2.15. Đánh giá của người hỏi về mức độ đáp ứng của ngân hàng..................75
Bảng 2.16. Đánh giá của người hỏi về năng lực phục vụ của ngân hàng.................76
Bảng 2.17. Đánh giá về mức độ đồng cảm của nhân viên NH.................................77
Bảng 2.18. Đánh giá của người hỏi về cơ sở vật chất của ngân hàng......................78


5

Biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng tín dụng các năm 2013-2015...........................................54

Biểu đồ 2.2: Tình hình cân đối giữa vốn huy động và dư nợ tín dụng.....................67
Biểu đồ 2.3: Tình hình sử dụng vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của
EXIMBANK – Ba Đình..........................................................................................69
Biểu đồ 2.4: Quan hệ giữa huy động và sử dụng vốn bằng nội tệ của.....................71
EXIMBANK – Ba Đình..........................................................................................71
Biểu đồ 2.5: Quan hệ giữa huy động và sử dụng vốn bằng ngoại tệ của
EXIMBANK – Ba Đình..........................................................................................72


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế thế giới là một xu hướng tất yếu và đang diễn ra mạnh mẽ ở
tất cả các quốc gia, cùng với đó là sự phát triển ngày càng đa dạng của các loại hình
sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực. Sức khỏe, sự phát triển của một nền
kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Nằm trong
guồng quay chung đó, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng một vai trò quan trọng
trong sự phát triển chung của đất nước. Theo báo cáo của Cục Quản lý đăng ký kinh
doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến tháng 12 năm 2016, cả nước có trên 400.000
doanh nghiệp đang hoạt động,riêng trong năm 2016 có trên 110.000 doanh nghiệp
đăng ký mới, trong đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 94% tổng số doanh
nghiệp. Hàng năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp khoảng 40% GDP và thu
hút 51% lực lượng lao động của cả nước. Mặc dù đông về số lượng nhưng thực tế
thời gian qua, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn nhiều hạn
chế. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn nên chưa được đầu tư đổi mới máy móc,
trang thiết bị và quy trình công nghệ một cách thích đáng. Một trong những trở ngại
của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là khả năng tiếp cận thu hút các nguồn vốn bên
ngoài gặp khó khăn, đặc biệt là đối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Nhận thức được điều này, trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại đã
chú trọng quan tâm hơn đến nhóm doanh nghiệp này, nhất là khi môi trường cạnh
tranh giữa các ngân hàng đang ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Với số lượng lớn và
nhu cầu về vốn cao để đầu tư cho sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa trở thành nhóm khách hàng mục tiêu của hầu hết các ngân hàng thương mại tại
nước ta hiện nay. Rõ ràng, một ngân hàng có thế mạnh trong việc huy động vốn thì
sẽ có nhiều thuận lợi trong việc phát triển dịch vụ, đẩy mạnh kinh doanh, mở rộng
thị trường vì vậy mỗi ngân hàng cần quan tâm thường xuyên đến công tác huy động
vốn, đáp ứng yêu cầu kinh doanh của bản thân ngân hàng và nhu cầu về vốn cho
nền kinh tế.


2

Với việc sử dụng nguồn dữ liệu sơ cấp và thứ cấp được thu thập thông qua
một số tài liệu như các số liệu do Phòng quản lý khách hàng (cá nhân và doanh
nghiệp), Phòng kế hoạch tổng hợp, Phòng quản lý rủi ro và các báo cáo tổng kết
năm của Ngân hàng thương mại Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam chi nhánh Ba
Đình cung cấp cùng mong muốn đóng góp một phần kiến thức nhỏ bé của mình vào
lĩnh vực huy động vốn trong kinh doanh ngân hàng, do đó tôi lựa chọn đề tài “Giải
pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất
Nhập Khẩu Việt Nam, chi nhánh Ba Đình”
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Luận án: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại
trên địa bàn Hà Nội trong tiến trình hội nhập quốc tế” – Tác giả: Đàm Hồng
Phương –Đại học kinh tế quốc dân (2010). Ở luận án này, tác giả nghiên cứu một
khía cạnh khác của “vốn” đó là “hiệu quả sử dụng vốn”, nghĩa là làm thế nào để
đồng vốn huy động được sử dụng một cách có hiệu quả nhất, đem lại tối đa hóa lợi
ích nhất.
Tác giả nghiên cứu chung nhất về “nâng cao hiệu quả sử dụng vốn” cho các

Ngân hàng thương mại, không đi riêng phân tích nghiên cứu tại một Ngân hàng cụ
thể nào. Phạm vi nghiên cứu tại địa bàn Hà Nội. Do vậy, có thể thấy được điểm
chung nhất từ các giải pháp đưa ra cho viêc sử dụng vốn có hiệu quả, từ đó có thể áp
dụng cho riêng mỗi ngân hàng thương mại tại mỗi địa điểm khác nhau trên địa bàn Hà
Nội. Tuy nhiên, mỗi Ngân hàng tại mỗi khu vực khác nhau thì sẽ có cách tiếp cận khác
nhau về đặc điểm dân cư, kinh tế và xã hội vì vậy sẽ có cách áp dụng riêng.
Luận văn:“Tăng cường huy động vốn dân cư tại ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung” – Tác giả: Trương Thị Thanh Huyền –
ĐH kinh tế quốc dân (2011). Ở luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu về huy động
vốn phạm vi hẹp trên khía cạnh huy động vốn dân cư và cũng chỉ dừng lại ở việc
đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường huy động vốn, tức là chú trọng đến “số
lượng” vốn huy động được, không nghiên cứu đến việc huy động vốn đó có mang
lại hiệu quả hay không.


3

Mặt khác, phạm vi nghiên cứu tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhanh
Quang Trung, một địa bàn khá phát triển thuộc trung tâm Thủ đô Hà Nội với nhiều
khu trung tâm thương mại, trung tâm văn hóa – xã hội và là nơi diễn ra nhiều sự
kiện chính trị - văn hóa – xã hội – thể thao quan trọng. Do vậy cách tiếp cận vấn đề
cũng mang đặc thù riêng.
Các giải pháp tác giả đưa ra khá toàn diện bao gồm nhóm giải pháp vĩ mô và
nhóm giải pháp vi mô; các giải pháp được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá
chung về thực trạng huy động vốn của BIDV chi nhánh Quang Trung. Đây là một
luận văn được viết khá tốt, các lý luận và thông tin, số liệu được trình bày một cách
logic và có sự gắn kết, bố cục rõ ràng, liền mạch, rất có giá trị tham khảo
Luận văn “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam” – Tác giả: Phan Thị Tố Như - ĐH kinh tế quốc dân (2011). Luận
văn này đã đề cập đến “hiệu quả huy động vốn” phạm vi tại Ngân hàng TMCP

Ngoại thương Việt Nam một cách khá toàn diện, chỉ rõ tiêu chí đánh giá và đưa
ra kinh nghiệm nâng cao hiệu quả huy động vốn trong lĩnh vực ngân hàng tài
chính nói chung và của TMCP Ngoại thương Việt Nam nói riêng. Tác giả đã
đánh giá thực trạng huy động vốn dựa trên phân tích các tiêu chí cụ thể, từ đó
đưa ra nhiều nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam. Tuy nhiên cũng giống như các đề tài
nghiên cứu ở trên, đề tài này vẫn chưa có sự đi sâu phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến huy động vốn của NHTM nói chung và của Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam nói riêng.
Luận văn “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam Chi nhánh Bắc Hà Nội” – Tác giả: Trương Nam Hải - ĐH kinh tế quốc dân
(2011). Cũng giống như những luận văn trên, ở luận văn này, tác giả cũng chỉ đề
cập đến số lượng vốn huy động, làm thế nào để huy động được vốn với số lượng lớn
nhất, không đề cập đến hiệu quả của việc huy động đó.
Phạm vi tại BIDV chi nhánh Bắc Hà Nội – chi nhánh nằm trên địa bàn đang
được chú trọng phát triển và mở rộng về dân cư, kinh tế và xá hội, có thể nói là địa
bàn khá mới mẻ và có nhiều tiềm năng phát triển.


4

Báo cáo tốt nghiệp “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Công Thương chi nhánh Hoàng Mai ” – Tác giả: Lương Nguyễn Ngọc Hải – Học
viện Tài chính (2013)
Đề tài này đã đề cập đến “hiệu quả huy động vốn” phạm vi tại Ngân hàng
Công Thương chi nhánh Hoàng Mai một cách khái quát, chỉ rõ tiêu chí đánh giá và
đưa ra kinh nghiệm nâng cao hiệu quả huy động vốn trong lĩnh vực ngân hàng tài
chính nói chung và Ngân hàng Công Thương nói riêng. Tác giả đã đánh giá thực
trạng huy động vốn dựa trên phân tích các tiêu chí cụ thể tuy nhiên số liệu cách khá
xa so với thực tế nằm 2007- 2009, từ đó đưa ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương.

Tạp chí, bài báo về vấn đề huy động vốn.
“Ngân hàng nhỏ khốn khổ vì huy động vốn” – Tuệ Minh ebank.vnexpress.net ngày 09/11/2011.
“Huy động vốn của ngân hàng sụt giảm” – Thời báo kinh tế Sài Gòn –
26/03/2012.
“Ngân hàng giảm lãi suất tiết kiệm” – Thanh Thanh Lan – Vnexpress.net ngày
24/2/2014
“Ngân hàng giảm lãi suất huy động” – Lệ Chị - Vnexpress.net ngày
26/09/2016
Những bài viết, bài báo trên nhìn chung chỉ đưa ra vấn đề tại một thời điểm và
đưa ra giải pháp nhằm giải quyết vấn đề tại thời điểm đó, không đưa ra vấn đề mang
tính xuyên suốt trong nhiều năm để từ đó đưa ra cái nhìn bao quát hơn cho vấn đề
“vốn” tại Ngân hàng thương mại.
Sau khi tham khảo một số công trình nghiên cứu ở trên, tôi đã lựa chọn phạm
vi nghiên cứu tại chi nhánh Ba Đình của ngân hàng Eximbank nhằm tránh sự trùng
lặp với các công trình nghiên cứu đã tiến hành trước đây.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Làm rõ những lý luận cơ bản về hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương
mại, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động huy động vốn của


5

TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam chi nhánh Ba Đình. Từ đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường huy động vốn góp phần nâng cao kết quả kinh doanh của
Ngân hàng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại
- Phạm vi nghiên cứu :
+ Phạm vi về thời gian: năm 2013 đến năm 2016

+ Về nội dung: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hiệu quả huy động vốn tại
Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam chi nhánh Ba Đình
5.Phương pháp nghiên cứu đề tài
Dựa trên trên lý thuyết từ các giáo trình, sách, báo,….kết hợp với việc tham
khảo các nguồn dữ liệu từ khảo sát thực tế trực tiếp tại đơn vị:
+Thực hiện khảo sát trên phiếu điều tra trực tiếp gửi cho khách hàng đến gửi,
rút tiền cũng như các thủ tục thanh toán liên quan.
+Phát ra 150 phiếu điều tra, thu lại 124 phiếu hợp lệ xoay quanh các vấn đề
như: mức độ tin tưởng của khách hàng, mức độ phục vụ và cơ sở vật chất của
Ngân hàng
Quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp sau: Phương
pháp thống kê; Phương pháp phân tích, so sánh; Phương pháp tổng hợp, đánh giá
định lượng trên cơ sở thông tin sơ cấp thu thập được từ phiếu khảo sát điều tra thu
thập được để đạt được mục đích nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài


Từ những vấn đề về lý luận hiệu quả huy động vốn nói chung và thực tế áp

dụng tại Ngân hàng cụ thể.


Đánh giá, phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động huy động vốn tại

EXIMBANK chi nhánh Ba Đình.
Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng
TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam chi nhánh Ba Đình


6


7. Bố cục luận văn
Gồm 3 Chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về nguồn vốn và hiệu quả hoạt động huy động vốn
tại NHTM.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Xuất
Nhập Khẩu Việt Nam chi nhánh Ba Đình.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Xuất Nhập Khẩu Việt Nam chi nhánh Ba Đình.


7

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUỒN VỐN VÀ HIỆU QUẢ HUY
ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về vốn của Ngân hàng Thương mại (NHTM)
1.1.1. Khái niệm, vai trò nguồn vốn của NHTM
1.1.1.1 Khái niệm nguồn vốn của NHTM
Vốn là tiền đề của hoạt động kinh doanh trong toàn xã hội nói chung và của
mỗi doanh nghiệp nói riêng, mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận
hành và phát triển. Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với
các chức năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng
tạo tiền. Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách cóhiệu
quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng vốn hoạt
động nhất định.
Vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh
doanh mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Vậy, vốn của NHTM là gì?
Các nhà kinh tế đưa ra định nghĩa về vốn của NHTM như sau:
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hàng

thương mại tạo lập ra hoặc huy động được, dùng để đầu tư, cho vay, hoặc thực hiện
các hoạt động kinh doanh khác của mình.
Theo định nghĩa trên, vốn mà NHTM tạo lập được là một phần lợi nhuận hoặc
vốn góp của các cổ đông hàng năm, vốn huy động là một phần thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, được chủ sở hữu
của khoản vốn đó gửi vào ngân hàng để thực hiện nhiều mục đích khác nhau. Nói
cách khác, họ chuyển quyền sử dụng khoản vốn cho Ngân hàng để rồi nhận một
khoản thu nhập từ việc chuyển quyền sử dụng đó. Như vậy, NHTM đã thực hiện vai
trò tập trung và phân phối lại vốn cho nền kinh tế dưới hình thức tiền tệ, kết quả là
làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh phát triển. Nguồn vốn mà Ngân hàng tạo lập và huy động được đã
góp phần quan trọng trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của từng


8

doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đồng thời cũng chính
những hoạt động đó lại là yếu tố mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát
triển hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng.
1.1.1.2 Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, vì vậy vai trò của nguồn vốn đối với các
ngân hàng thương mại đầu tiên cũng sẽ quyết định đến quy mô, thế lực và khả năng
mở rộng quy mô của các ngân hàng. Từ góc độ kinh tế, có thể khái quát hóa các vai
trò của nguồn vốn này đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại dưới các
khía cạnh sau:
-Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành ngân hàng thương mại:
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được
thì phải có ba yếu tố: Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố
quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh.
Riêng đối với ngân hàng thương mại với đặc trưng là kinh doanh tiền tệ, vốn lại

càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn là
cơ sở căn bản nhất để ngân hàng thương mại tổ chức hoạt độnh kinh doanh, ngân
hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không có vốn. Như đã biết,
đặc trưng của hoạt động ngân hàng: Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính
mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Ngân hàng là
tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn
ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng
trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn lớn là
lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành pháp luật trước hết là luật ngân hàng trung
ương, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận lợi trong kinh doanh tiền tệ. Chính vì
thế, có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, là khâu
thiết yếu của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ
theo luật định thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn
trong suốt quá trình hoạt động của mình
-Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạch tranh của Ngân hàng:


9

Trong nền kinh tế thị trường đang hòa nhập cùng nền kinh tế thế giới, để tồn
tại và ngày càng phát triển đòi hỏi các ngân hàng phải giữ uy tín cũng như niềm tin
trên thị trường là điều tối quan trọng. Uy tín và niềm tin đó phải được thể hiện trước
hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Chúng ta
đã biết, đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn tiền gửi và đi vay, do vậy ngân hàng
phải trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu rút tiền. Với một ngân hàng có quy mô
vốn nhỏ, khi nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn, một mặt ngân hàng không
đáp ứng đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ, ngân hàng nếu cho vay tối đa
nguồn vốn huy động đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán. Trong khi
đó, với một ngânh hàng trường vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả năng thanh toán
đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, do đó sẽ tạo được uy

tín ngày càng cao.
-Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác
của Ngân hàng:
Vốn của Ngân hàng quyết định vấn đề mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, khoản mục
đầu tư, khối lượng cho vay nhỏ và kém đa dạng hơn. Do đó, khả năng thu hút vốn
của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư bị ảnh hưởng, thậm chí không đáp ứng
được nhu cầu vốn vay của doanh nhiệp. Điều đó khiến cho các Ngân hàng nhỏ sẽ
mất một số khách hàng và không tận dụng được toàn bộ các cơ hội kinh doanh.
Nếu là Ngân hàng lớn, nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp ứng được nhu cầu
về vốn, có điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị
trường tín dụng.
-Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của
ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là
điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian,
thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều


10

đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ
tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây
cũng là điều kiện để bổ xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng tổng hòa
các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để
kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng
các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua, mua bán nợ, kinh

doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ
góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân
hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
và của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng phải thường
xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả của vốn
là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của hoạt động kinh doanh
ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là
sự cần thiết trong quá trình hoạt động của NHTM ở tất cả các quốc gia.
1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn của NHTM
Nguồn vốn của NHTM phần lớn do thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong
sản suất kinh doanh được gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Ngân
hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển đến các
nhà đầu tư có nhu cầu về vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh qua đó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng và các hoạt động về nguồn vốn quyết
định trực tiếp đến sự tồn tại và phất triển của cấc Ngân hàng thương mại. Nguồn
vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với các hoạt động của các NHTM trong
việc thực hiện các chức năng của mình. Cơ cấu vốn nguồn vốn nói chung của
NHTM được hình thành từ các nguồn vốn chủ yếu:
- Vốn chủ sở hữu ( vốn tự có)
- Vốn huy động


11

- Vốn đi vay
- Vốn khác
Mỗi loại vốn đều có những tính chất, vai trò riêng trong tổng nguồn vốn của
NHTM và đều có tác động ít nhiều đến hoạt động kinh doanh của NHTM.
a. Vốn chủ sở hữu

Vốn tự có của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo
lập được thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng
lâu dài để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ
nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi
thành lập một ngân hàng.
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục đích khác
nhau như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu tư hay góp vốn
liên doanh… vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh toán khi Ngân hàng gặp
rủi ro. Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định năng lực và sự phát triển của
ngân hàng thương mại. Vốn tự có của Ngân hàng được hình thành căn cứ vào hình
thức tổ chức của ngân hàng thương mại là: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân
hàng thương mại cổ phần hay ngân hàng thương mại liên doanh…
Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm:
+ Vốn hình thành ban đầu:
Trước khi tiến hành kinh doanh, theo quy định của pháp luật, ngânhàng phải
có một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (hay vốn điều lệ).Tuỳ theo hình
thức sở hữu, do nhà nước cấp nếu là ngân hàng quốc doanh, docổ đông đóng góp
nếu là ngân hàng cổ phần, do các bên đóng góp nếu là ngân hàng liên doanh và của
cá nhân nếu là ngân hàng tư nhân.
Vốn hình thành ban đầu là vốn điều lệ của NHTM. Theo quyết định số
327/QĐ- NH5 ban hành ngày 04/10/1997 của Thống đốc NHTM Việt Nam thì:
“ Vốn pháp định của NHTM là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập Ngân
hàng ”, còn “Vốn điều lệ của NHTM là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi
vào điều lệ hoạt đông của Ngân hàng”. Vốn điều lệ của Ngân hàng phải luôn lớn


12

hơn hoặc bằng vốn pháp định và có thể đươc hình thành từ nhiều nguồn vốn khác
nhau tùy thuộc vào hình thức sở hữu.

+ Vốn chủ sở hữu bổ sung trong quá trình hoạt động:
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời gian
nhờ có nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay từ phát
hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... Đặc điểm của hình thức HĐV này là
không thường xuyên, song giúp cho NHTM có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào
lúc cần thiết.
+ Các quỹ:
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có một mục đích
riêng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi,
quĩ khen thưởng... Các quỹ này được hình thành từ thu nhập của ngân hàng, bao
gồm: Quỹ bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự phòng bù đắp rủi ro. Ngoài ra vốn chủ sở
hữu bổ sung là một bộ phận trong nguồn vốn tự có của NHTM, nó tồn tại dưới dạng
các quỹ chuyên dụng, các quỹ đặc biệt của Ngân hàng như: quỹ dự trữ bổ sung vốn
điều lệ, quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…
+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi thành cổ
phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Ngân hàng có thể
sử dụng vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như có thể đầu tư vào nhà cửa,
đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
b. Vốn huy động.
Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
thương mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn và có
trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Ngân hàng có thể
huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội... với nhiều hình thức khác
nhau. Vốn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của NHTM nhưng lại là
yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động của
NHTM được xem là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ


13


chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ
huy động vốn và được dùng làm vốn kinh doanh.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín
dụng, thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng
chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng
thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút.Vốn huy động đóng
vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành phần
kinh tế trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở rộng tín
dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh doanh, còn phải dự
trữ một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động gồm có: Vốn
tiền gửi và phát hành những giấy tờ có giá.
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều công cụ huy động vốn khác nhau nhưng chủ
yếu là công cụ:
- Tiền gửi tiết kiệm:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu này (gửi
tiền để sử dụng séc, sử dụng thẻ rút tiền hoặc để thực hiện dịch vụ chuyển tiền, dịch
vụ LC hay dịch vụ nhờ thu).
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi, gồm tiền gửi
thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý.
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá
nhân để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực hiện các nhu cầu chi
trả của doanh nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho phép. Các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu
cầu, với loại tiền gửi này lãi suất là rất nhỏ (huặc bằng 0)
Tiền gửi không kỳ hạn chỉ không ổn định với cá nhân còn đối với doanh

nghiệp rất ổn định.


14

Tài khoản tiền gửi thanh toán: Là tài khoản mà việc rút và nộp tiền được thực
hiện bằng séc hoặc chuyển khoản.
Tài khoản vãng lai: Là tài khoản lúc dư nợ, lúc dư có.
Tuy nhiên, ở Ngân hàng luôn có sự chênh lệch giữa xuất và nhập trên mỗi tài
khoản tiền gửi thanh toán, thường nhập lớn hơn xuất. Từ đó, tạo nên một khoản tiền
tạm thời nhàn rỗi và Ngân hàng có thể sử dụng một phần để kinh doanh.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là khoản tiền kí gửi với mục đích an toàn tài
sản, không phải để thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút ra để chi tiêu và Ngân
hàng phải thoả mãn yêu cầu của họ. Ngân hàng có thể sử dụng phần dư thừa nếu
đảm bảo được khả năng chi trả.
+Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và
Ngân hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng không được rút tiền
trước thời hạn. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và
tiền gửi tiết kiệm.Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy các NHTM luôn tìm cách đa dạng
hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được
dùng để thanh toán, thường có lãi xuất cao và thời hạn dài hơn.
+Tiền gửi tiết kiệm: Là một phần thu nhập của người lao động chưa sử dụng
đến, tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách
an toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại: tiết kiệm không kỳ hạn và tiết
kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào
nhưng không được dùng các phương tiện thanh toán để chi trả cho khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận của khách

hàng và Ngân hàng về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi của các ngân hàng khác là nguồn tiền của các ngân hàng thường mài
gửi vào nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ hay một số mục đích khác.


15

Đây là nguồn vốn chính để ngân hàng kinh doanh tiền tệ, nó là một trong
những nguồn vốn ổn định nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên tiền gửi có kỳ
hạn của doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn vì doanh nghiệp hoạt động có chu kỳ,
khi nào tạm thời thừa vốn thì mới gửi ngân hàng. Mặt khác: Lãi suất huy động nhỏ
hơn lãi suất vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Nếu lãi suất
cho vay lớn hơn lãi suất huy động: Ngân hàng có lãi:
Nếu tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế huy động thì mọi người gửi hết tiền vào ngân hàng và không kinh doanh nữa như
vậy ngân hàng không cho ai vay được điều này không thể xảy ra do đó không bao
giờ gửi vốn vào ngân hàng trung dài hạn vì mục đích họ hướng tới là tỷ suất lợi
nhuận bình quân của nền kinh tế.
- Các nguồn huy động khác:
Huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá: Trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu
ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi...
Phát hành giấy tờ có giá:
Bên cạch các phương thức trên, các Ngân hàng thương mại còn phát hành
chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và kỳ phiếu. Thực chất là việc huy động vốn bằng việc
phát hành các giấy tờ có giá.
+ Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có kỳ hạn nhỏ hơn 12
tháng
+ Chứng chỉ tiền gửi:
Các giấy tờ có giá được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích với

sự chấp thuận của ngân hàng thương mại, hình thức huy động vốn này các ngân
hàng thương mại phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi thông thường.
Qua trình bày trên, vốn huy động là nguồn vốn giữ vị trí quan trọng và chủ
yếu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn vốn (khoảng 80%). Các ngân hàng thương mại phải tôn trọng
về mức vốn huy động theo quy định của pháp luật.


16

c. Vốn vay.
Vốn đi vay: là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả
năng huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro thanh khoản
của các ngân hàng.
Ngân hàng trung ương cho vay nhằm mục đích để bảo vệ an toàn cho toàn hệ
thống ngân hàng và thực hiện chính sách tiền tệ.Vay từ ngân hàng thương mại khác
là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị
trường liên ngân hàng.
Với các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết quả dư gia tăng bất
ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng
khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Với các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ lại có nhu cầu vay mượn tức thời để
đảm bảo thanh khoản:
+ Vay qua đêm là hợp đồng vay mượn bất thành văn giữa hai ngân hàng chủ
yếu thông qua điện thoại và điện tín chỉ có thời hạn không quá một ngày
+ Vay kỳ hạn là hợp đồng vay mượn thành văn có thời hạn cụ thể (vài tuần,
vài tháng, hoặc vài năm). Thường các ngân hàng đi vay phải có giấy tờ có giá để
cầm cố đưa cho ngân hàng cho vay.
- Vay trên thị trường vốn: Các ngân hàng vay mượn bằng cách phát hành các
giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Các khoản vay trung và

dài hạn nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư
trung dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Ngân hàng nào
có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường
khó vay mượn trực tiếp họ phải thông qua các ngân hàng đại lý hoặc đựoc bảo lãnh
của các ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn được phụ thuộc vào trình độ
phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài
hạn của ngân hàng.
Khi NHTM vay vốn của NHTW gọi là hình thức chiết khấu, tái chiết khấu để
bù đắp thiếu hụt trong thanh toán, bổ sung vốn dự trữ… Ngân hàng Nhà nước điều


17

hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện
đảm bảo và kiểm soát nhất định .
d. Vốn khác.
Vốn khác là toàn bộ giá tị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông qua việc
cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư. Bao
gồm nguồn ủy thác, nguồn thanh toán và các nguồn khác
Nguồn ủy thác là nguồn vốn mà ngân hàng có được nhờ thực hiện tốt các dịch
vụ của khách hàng đặc biẹt là dịch vụ cho vay và dịch vụ thanh toán.
-Nguồn vốn này thường có chi phí rất thấp
-Tỷ trọng nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ và uy
tín của khách hàng.
Nguồn trong thanh toán: Nguồn này được hình thành từ các hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt như: Séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C
Những ngân hàng này là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ
tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
Nguồn khác: Là các khoản nợ như thuế chưa nộp, lương chưa trả vv.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại tạo được một

khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán, gồm: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài
khoản tiền gửi séc bảo chi… Các khoản tiền mặt tạm thời được trích khỏi tài khoản này
để nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được gọi là tiền nhàn rỗi.
Qua nghiệp vụ đại lý, các ngân hàng thương mại thu hút được một lương vốn
trong quá trình thu - chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng, nhận và
chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư…
Tóm lại, vốn huy động là loại vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của NHTM. Điều này hoàn toàn phù hợp về mặt cơ sở lý luận vì NHTM
luôn được xem là doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, lấy vốn đi vay để cho vay.
Vốn huy động là công cụ chính, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của các NHTM quyết định trực tiếp tới những nguồn lợi cũng như uy tín của
Ngân hàng


18

1.1.3Các hình thức huy động vốn của NHTM
Sau khi đã sử dụng hết lượng vốn tự có nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu
giao dịch, thanh toán của khách hàng thì các NHTM phải tiến hành huy động vốn từ
bên ngoài. Thông thường nguồn vốn huy động này chiếm một tỷ trọng tương đối
lớn trong kết cấu nguồn vốn của NHTM, nó rất cần thiết để đảm bảo cho NHTM có
thể hoạt động một cách bình thường. Mặt khác, Phương thức hoạt động chủ yếu của
NHTM là “đi vay để cho vay”, các NHTM thực hiện tối đa hóa các hình thức huy
động vốn phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế cũng như tiềm lực tài chính nhằm
không ngừng tăng quy mô huy động và mở rộng đầu tư kiếm lời. Hiện nay, quá
trình huy động vốn của NHTM chủ yếu dưới các hình thức sau:
1.1.3.1 Huy động từ nguồn tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi
một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để
giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của

các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Có các cách phân loại tiền gửi sau:
Thư nhất, căn cứ vào mục đích gửi tiền:
- Tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi
vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho
phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được ngân hàng
thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể
được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Lãi suất của khoản tiền này rất
thấp, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng
với mức phí thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân
được gửi vào ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo quy định. Tiền gửi tiết kiệm là
bộ phận thu nhập bằng tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức
tín dụng. Nó là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu dùng cá nhân. Khi
gửi tiền người gửi được giao một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận tiền gửi vào
ngân hàng. Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên


19

tổng số tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền
gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: Các tổ chức xã
hội hay các doanh nghiệp có nhiều khoản thu không phải thanh toán ngay nên ngân
hàng đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Loại tiền gửi này khách hàng không được
hưởng các dịch vụ như tiền gửi thanh toán nhưng lại được hưởng lãi suất cao hơn
tùy độ dài kỳ hạn. Nếu khách hàng cần tiền, họ có thể đến rút ra khi chưa đến hạn
và hưởng lãi suất không kỳ hạn.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích thanh toán hộ và một số
mục đích khác, NHTM thường gửi tiền tại các NHTM khác. Quy mô loại tiền gửi
này thường không lớn.

Thứ hai, căn cứ vào kỳ hạn gửi tiền:
Căn cứ vào kỳ hạn gửi tiền, tiền gửi được chia thành 02 loại là tiền gửi không
kì hạn và tiền gửi có kì hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó tức là
thời gian gửi tiền không xác định, khách hàng (cá nhân, tổ chức) có quyền rút tiền
ra bất cứ lúc nào vì đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là
khoản tiết kiệm để dành. Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về
tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như các khoản thanh toán trong tiêu dùng của cá nhân đồng thời hạn
chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Đăc thù bộ
phận vốn này không ổn định nên ngân hàng phải thường xuyên phải dự trữ lại với
số lượng rất lớn để đáp ứng yêu cầu đột xuất của khách hàng do đó ngân hàng
thường áp dụng lãi suất thấp cho loại tiền gửi này.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản
tiền gửi với thời gian xác định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người
gửi chỉ được rút tiền khi đến thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng, 9 tháng, 12 tháng hoặc trên 12 tháng. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh
tranh mà ngân hàng cho phép khách hàng rút trước kỳ hạn. Trong trường hợp này,
người gửi không được hưởng lãi như tiền gửi có kỳ hạn mà sẽ được áp dụng với lãi


20

suất không kỳ hạn nếu rút ra truớc khi đáo hạn. Đây là nguồn vốn rất ổn định vì
ngân hàng dự đoán trước thời điểm mà khách hàng sẽ rút tiền ra nên ngân hàng
thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của
khách hàng.
Thứ ba, Căn cứ vào loại tiền: Tiền gửi được chia thành tiền gửi bằng nội tệ và
tiền gửi bằng ngoại tệ.
- Tiền gửi bằng nội tệ: Đây là nguồn vốn chủ yếu trong các NHTM và giữ vai

trò quan trọng để duy trì các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Tiền gửi bằng ngoại tệ: bao gồm tiền gửi huy động bằng các loại ngoại tệ
như USD, EUR, …Các ngân hàng thu hút nguồn tiền gửi ngoại tệ nhằm phục vụ
cho hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ xuất khẩu, kinh doanh ngoại tệ trong nước.
Thứ tư , căn cứ theo đối tượng : Tiền gửi được chia thành tiền gửi của dân cư
và tiền gửi của các cá nhân, tổ chức xã hội
- Tiền gửi của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm
thời chưa sử dụng đến. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều
có thể gửi tiết kiệm với mục tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết
kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm,
các ngân hàng đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại
nhà bằng cách ở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng
và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn ...
- Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Các doanh nghiệp do
yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường gửi một khối
lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong thanh toán. NHTM là một
trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này thông qua việc mở tài khoản,
nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có
sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên ngân hàng
luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định, điều này lí giải vì sao ngân hàng huy động
được nhiều nguồn vốn nhất trong lĩnh vực này, có chi phí thấp và được sử dụng cho


×