Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần Someco Sông Đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.55 KB, 125 trang )

1

NG
UY
ỄN
THỊ
HẢI

N
LUẬ
N

N
TH
ẠC

KIN
H
TẾ
LỚP
:
CH
20B
- KT

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------------------------

NGUYỄN THỊ HẢI VÂN


KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN SOMECO SÔNG ĐÀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


2

HÀ NỘI, NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------------------------

NGUYỄN THỊ HẢI VÂN

KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN SOMECO SÔNG ĐÀ

CHUYÊN NGÀNH

: KẾ TOÁN

MÃ SỐ

: 60 34 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS,TS. TRẦN THỊ HỒNG MAI


3

HÀ NỘI, NĂM 2016


4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, Ngày ...... tháng …….. năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hải Vân

LỜI CẢM ƠN


5
Luận văn là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết hợp
với kinh nghiệm trong quá trình công tác thực tiễn, sự nỗ lực cố gắng của bản thân.
Tôi chân thành cám ơn quý thầy, cô giáo Trường Đại học Thương Mại đã nhiệt
tình giúp đỡ, hỗ trợ cho tôi. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS,
TS. Trần Thị Hồng Mai người trực tiếp hướng dẫn khoa học và dày công giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Bên cạnh đó tôi cũng chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các cán bộ nhân viên

Công ty cổ phần Someco Sông Đà đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân luôn đứng bên cạnh
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng nhưng Luận văn không tránh khỏi những
khiếm khuyết, tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy, cô giáo, đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 15 tháng 08 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hải VânMỤC
LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4
5
6

TỪ ĐẦY ĐỦ
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm thất nghiệp
Công trình
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí sản xuất


TỪ VIẾT TẮT
BHXH
BHYT
BHTN
CT
CPQLDN
CPSX


6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí máy thi công
Chi phí sản xuất chung

Doanh nghiệp
Hạng mục công trình
Khối lượng xây lắp
Kinh phí công đoàn
Kế toán quản trị
Kế toán tài chính
Lợi nhuận
Máy thi công
Nguyên vật liệu trực tiếp
Nhân công trực tiếp
Sản xuất chung

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

CPNVLTT
CPNCTT
CPMTC
CPSXC
DN
HMCT
KLXL
KPCĐ
KTQT
KTTC
LN
MTC
NVLTT
NCTT
SXC



7


8
MỞ ĐẦU
1

Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là không
thể tránh khỏi. Đối với ngành xây dựng, sự cạnh tranh này càng khốc liệt hơn. Các
doanh nghiệp xây lắp trong nước hiện nay đa phần là các công ty nhà nước trước
đây, được nhà nước đầu tư nguồn vốn lớn, có thiết bị và đội ngũ người lao động
được đào tạo bài bản, giàu kinh nghiệm. Bên cạnh đó là sự gia nhập của các tập
đoàn xây dựng nước ngoài với tiềm lực mạnh về vốn, thiết bị, con người, công nghệ
hiện đại vượt trội. Yêu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp xây lắp là phải tìm ra thế
mạnh riêng có của mình và phát huy thế mạnh đó, định vị được vị trí và thương hiệu
doanh nghiệp trong ngành. Mục tiêu cuối cùng là chất lượng công trình cao – giá
thành thấp – lợi nhuân tối đa.
Quản trị chi phí giá thành luôn là vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng, nhất là khi chi phí xây lắp lớn, yêu
cầu nguồn vốn lớn, thực hiện trong thời gian dài dễ xảy ra thất thoát. Trong bất kỳ
hoàn cảnh nào thì vai trò nhà quản trị vô cùng quan trọng. Để thực hiện tốt các chức
năng quản trị, các nhà quản trị cần có sự trợ giúp đắc lực của các thông tin kế toán
quản trị nói chung và thông tin kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành nói
riêng.
Trong những năm qua, công tác kế toán tại Việt Nam và trong các doanh
nghiệp xây lắp đã không ngừng được cải tiến, hoàn thiện, tiếp cận các thông lệ
chuẩn mực quốc tế về kế toán, từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý trong tiến trình
hội nhập. Tuy nhiên, hệ thống kế toán của các doanh nghiệp nhìn chung mới chỉ đề

cập chủ yếu đến kế toán tài chính mặc dù hệ thống kế toán của các doanh nghiệp
vẫn có những biểu hiện nhất định về kế toán quản trị nhưng còn khá mờ nhạt. Có
thể nói kế toán quản trị vẫn đang còn là một vấn đề khá mới mẻ, kế toán quản trị
chưa được xem xét đúng vị trí, vai trò của nó trong quản trị doanh nghiệp .


9
Tại Công ty cổ phần Someco Sông Đà, kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm cũng chưa được quan tâm đúng mức, còn khá nhiều bất cập. Xuất
phát từ yêu cầu cấp thiết về lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi đã lựa chọn thực hiện
đề tài “ Kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp tại Công
ty cổ phần Someco Sông Đà” để nghiên cứu.
2

Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Kế toán quản trị nói chung cũng như Kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp. Đã có nhiều tác giả tại
Việt Nam nghiên cứu về vấn đề này. Cụ thể là:
Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Mai (2011) - Học Viện Tài
Chính, “Hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm tại
công ty cổ phần Prime Vĩnh Phúc”. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ
phần Prime Vĩnh Phúc gồm: Xây dựng trung tâm chi phí, hoàn thiện các nội dung tổ
chức kế toán quản trị chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm tại Công ty (Phân loại chi
phí, các định mức chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm,...). Tuy nhiên, Luận văn
chưa đưa ra giải pháp nhằm xây dựng mô hình kế toán quản trị cho Công ty.
Luận văn thạc sỹ kinh tế của tác giả Đỗ Quang Sơn (2012)- Đại học Thương
Mại, “Kế toán quản trị chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Tổng công ty Bảo
hiểm Bảo Việt”.
Luận văn đã phân tích, hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ

bản về KTQT chi phí trong DN. Đánh giá thực trạng KTQT chi phí hoạt động kinh
doanh bảo hiểm tại Bảo hiểm Bảo Việt từ đó chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế của
KTQT chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại công ty. Trên cơ sở phân tích lý
luận và từ thực trạng KTQT chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm để đưa ra các
kết luận và giải pháp để hoàn thiện KTQT chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm
tại Bảo hiểm Bảo Việt
Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang (2012) – Đại học
Thương Mại: “ Kế toán quản trị chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây


10
lắp tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
LICOGI”. Luận văn đã đề cập tới lý luận chung về kế toán quản trị chi phí, tính giá
thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Trên cơ sở lý luận chung và khảo
sát thực tế tại các doanh nghiệp xây lắp thuộc Tổng công ty xây dựng và phát triển
hạ tầng LICOGI, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán quản trị
chi phí, tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp này.
Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Phan Lê Trang (2014) – Đại học Thương
mại, “ Kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần
nồi hơi Việt Nam”. Luận văn đã trình bày và góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận
của kế toán quản trị nói chung và kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm nói
riêng. Thông qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng về công tác kế toán quản trị chi
phí và giá thành tại công ty cổ phần nồi hơi Việt Nam Luận văn đã chỉ rõ công ty
cần xây dựng hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ sách, báo cáo kế toán quản trị chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm để đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí, hạ giá thành
sản phẩm và dự đoán chính xác giá bán của các nhà quản trị tại công ty. Trên cơ sở
những mặt hạn chế còn tồn tại, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế
toán quản trị chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty.
Tuy nhiên, tất cả các công trình đã công bố đều vẫn ở mức độ mang tính khái
quát rất cao, khiến cho việc áp dụng từ lý luận vào thực tiễn vẫn còn khó khăn. Hơn

nữa, tất cả các công trình nghiên cứu về kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm đã công bố đều mà tác giả biết chưa đi sâu vào hệ thống kế toán quản trị chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm áp dụng cho doanh nghiệp xây lắp, trong khi xây
lắp là ngành công nghiệp quan trọng, phục vụ cho các ngành sản xuất khác và nhu
cầu về thông tin kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hết sức
quan trọng.
3
-

Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về kế toán quản trị chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp.

-

Phân tích, làm rõ thực trạng kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
xây lắp tại công ty cổ phần Someco Sông Đà.


11

-

Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã nghiên cứu và thực trạng để đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây
lắp tại công ty cổ phần Someco Sông Đà.

4

Các câu hỏi nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, học viên đã đặt ra các câu hỏi cho việc nghiên
cứu như sau:
1. Kế toán quản trị chi phí tại công ty cổ phần Someco Sông Đà đáp ứng được
yêu cầu quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại công ty như thế nào?
2. Cần phải làm gì để kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
tại công ty cổ phần Someco Sông Đà đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng lực quản
trị chi phí giá thành tại Công ty?
3. Trên cơ sở hệ thống các câu hỏi trên, người nghiên cứu tiến hành lập kế
hoạch nghiên cứu, sử dụng các biện pháp khảo sát phù hợp nhằm thu thập đầy đủ,
chính xác các thông tin cần thiết. Sau đó tiến hành phân tích, đánh giá dữ liệu thu
thập được để rút ra các kết luận về kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm tại Công ty cổ phần Someco Sông Đà và đề xuất các giải pháp hoàn thiện kế
toán quản trị chi phí tại công ty.

5

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ
phần Someco Sông Đà.

Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: tập trung nghiên cứu kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản
+

phẩm xây lắp, không nghiên cứu KTQT chi phí ngoài sản xuất.
Về không gian: nghiên cứu hệ thống kế toán quản trị chi phí tại Công ty cổ phần

Someco Sông Đà.
+ Về thời gian: nghiên cứu 6 tháng cuối năm 2015.

6 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài: “Kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
xây lắp tại Công ty cổ phần Someco Sông Đà” trên cơ sở phương pháp luận duy vật


12
biện chứng và duy vật lịch sử, học viên sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập dữ liệu và phương pháp phân tích.
5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Để tìm hiểu thực trạng kế toán quản trị chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm tại
Công ty cổ phần Someco Sông Đà, học viên sử dụng phương pháp thu thập số liệu
sơ cấp thông qua phương pháp khảo sát tài liệu thứ cấp, phương pháp phỏng vấn và
phương pháp quan sát.
5.1.1 Phương pháp khảo sát tài liệu thứ cấp
Phương pháp khảo sát tài liệu thứ cấp là phương pháp thu thập các thông tin từ
các tài liệu thứ cấp như: Sách, báo, tạp chí, giáo trình chuyên ngành, số liệu, sổ
sách, báo cáo kế toán của Công ty cổ phần Someco Sông Đà….
Để thu thập các thông tin phục vụ cho quá trình hoàn thành Luận văn, học
viên đã sử dụng phương pháp nghiên cứu, khảo sát tài liệu thứ cấp. Các tài liệu bao
gồm: Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, Thông tư 200/2014/TT/BTC ngày
22/12/2014 của Bộ Tài chính – Hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp, dự toán,
Chứng từ, sổ sách, báo cáo kế toán quản trị của Công ty cổ phần Someco Sông Đà,
các giáo trình kế toán tài chính, kế toán quản trị trường Đại học Thương mại, Kinh
tế Quốc dân, Học viện Tài chính…
Ngoài ra, học viên còn tìm kiếm thông tin về kế toán quản trị chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp thông qua internet, các bài báo, tạp chí,
các công trình nghiên cứu khoa học, Luận văn thạc sỹ, Luận án tiến sĩ.
5.1.2 Phương pháp phỏng vấn
Là phương pháp thực hiện phỏng vấn trực tiếp nhân viên phòng kế toán, nhân
viên kỹ thuật và những người có liên quan về tình hình sản xuất tại Công ty Cổ phần

Someco Sông Đà để giải đáp các nội dung về chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và
kế toán quản trị chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Someco
Sông Đà.
Luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn nhằm thu thập các thông tin cũng
như làm rõ hơn các thông tin đã thu thập được từ các phương pháp trên. Chẳng hạn
như việc phỏng vấn kế toán trưởng để được biết chi phí sản xuất của Công ty bao


13
gồm những nội dung chi phí nào, kế toán quản trị chi phí sản xuất, giá thành sản
phẩm được thực hiện ra sao; các loại báo cáo sử dụng trong kế toán quản trị chi phí
sản xuất, giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần Someco Sông Đà.
Hoặc phỏng vấn kỹ sư để được biết việc lập dự toán được thực hiện vào thời
điểm nào, căn cứ vào đâu…?
Để tiến hành phỏng vấn, học viên gửi email để xin lịch phỏng vấn tới từng
người. Trước khi đi phỏng vấn, học viên đã chuẩn bị hệ thống các câu hỏi cho từng
người. Kết quả phỏng vấn được học viên ghi lại vào Biên bản phỏng vấn (Phụ lục
1.2).
Qua các cuộc phỏng vấn, học viên nắm được những vấn đề chung nhất, tổng
quan nhất cũng như làm sáng tỏ hơn những vấn đề mà học viên đã thu thập được từ
những phương pháp khác về kế toán quản trị chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm
tại Công ty cổ phần Someco Sông Đà.
5.1.3 Phương pháp quan sát
Mục đích của việc quan sát là để nhận biết những đặc điểm cơ bản của sản
phẩm và đặc điểm của hoạt động sản xuất xây lắp. Đồng thời, tác giả khảo sát trực
tiếp thực trạng kế toán quản trị chi phí tại đơn vị và so sánh với kết quả điều tra,
phỏng vấn đã thu nhận được. Nội dung quan sát là quá trình thi công tại các công
trình. Đồng thời, học viên còn tiến hành quan sát công việc kế toán quản trị chi phí,
giá thành tại tại Công ty Cổ phần Someco Sông Đà.
5.2 Phương pháp phân tích dữ liệu

Sau khi đã thu thập đủ dữ liệu sẽ tiến hành kiểm tra rà soát và chuẩn hóa lại
thông tin tiêu biểu, mã hóa thông tin, nhập các thông tin vào máy tính và sử dụng
chương trình EXCEL để tính toán và sử lý số liệu. Sử dụng các phương pháp so
sánh, phương pháp chênh lệch để phân tích kết quả và hiệu quả đạt được, tìm ra các
nguyên nhân gây ra biến động từ đó đưa ra các biện pháp để khắc phục, cải thiện
tình hình.
Phương pháp phân tích nhằm so sánh, phân tích, xử lý các thông tin đã thu
thập được để đưa ra các thông tin, kết luận về kế toán quản trị chi phí sản xuất, giá
thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Someco Sông Đà.


14
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là phân tích thông tin thu thập được
về tình hình lập dự toán, tình hình thu thập số liệu cũng như tình hình phân tích, lập
báo cáo kế toán quản trị về chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần
Someco Sông Đà trong 6 tháng cuối năm 2015, từ đó nêu lên được thực trạng và
các kết luận để đề xuất các giải pháp hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất,
giá thành sản phẩm tại Công ty trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, để phản ánh kết quả phân tích, luận văn còn sử dụng các biểu
mẫu nhằm trích dẫn các mẫu biểu chứng từ, sổ sách; sử dụng sơ đồ để mô tả bộ máy
tổ chức quản lý và bộ máy kế toán của Công ty cổ phần Someco Sông Đà.
7

Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các bảng biểu, sơ đồ, phụ lục và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp
Chương 2: Thực trạng kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
xây lắp tại công ty cổ phẩn Someco Sông Đà

Chương 3: Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
xây lắp tại công ty cổ phẩn Someco Sông Đà.

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TRONG DOANH NGHIỆP
XÂY LẮP
1
1

Các khái niệm cơ bản
Chi phí sản xuất
Chi phí của doanh nghiệp được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tùy
theo mục đích và quan điểm của các nhà khoa học.


15
Theo quan điểm của các nhà kinh tế chính trị (Giáo trình Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bộ giáo dục và Đào tạo, 2010), để tiến hành sản
xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải có ba yếu tố cơ bản đó là tư liệu lao động,
đối tượng lao động và sức lao động của con người. Sự tham gia của các yếu tố này
vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp hình thành nên hao phí lao động vật hóa và
hao phí lao động sống. Trong nền sản xuất hàng hóa, các hao phí trên được biểu
hiện bằng tiền gọi là chi phí sản xuất kinh doanh.
Ở góc độ chung, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 1 (IAS 1) – đoạn 31b:
“Chi phí là các yếu tố làm giảm các lợi ích kinh tế của doanh nghiệp trong kỳ, dưới
hình thức các khoản tiền chi ra hoặc giảm tài sản, hoặc làm phát sinh các khoản nợ
dẫn đến làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu nhưng không liên quan đến các khoản rút
vốn. Ngoài các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh thông thường, theo
chuẩn mực kế toán quốc tế, các khoản lỗ và thiệt hại từ các hoạt động khác cũng
được tính vào chi phí của doanh nghiệp”.Theo quan điểm này, chi phí của doanh

nghiệp được coi là những khoản phí tổn gắn liền với hoạt động sản xuất trong một kỳ
hạch toán, có những khoản chi phí phát sinh của kỳ này nhưng không được tính vào
chi phí trong kỳ để xác định kết quả hoặc ngược lại có những khoản chi phí chưa phát
sinh ở kỳ này nhưng đã được tính vào chi phí trong kỳ để xác định kết quả.
Theo KTQT (Giáo trình kế toán quản trị doanh nghiệp – Học viện Tài chính,
2010) : “Chi phí có thể là phí tổn thự tế đã chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh hàng ngày khi tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định; và cũng có thể
là chi phí ước tính khi thực hiện dự án hay giá trị lợi ích mất đi khi lựa chọn phương
án, hoạt động này mà bỏ qua cơ hội kinh doanh khác ”. Như vậy, trong kế toán quản
trị, chi phí sản xuất kinh doanh không đơn thuần nhận thức như chi phí trong kế
toán tài chính mà chi phí còn được nhận thức theo cả khía cạnh nhận diện thông tin
để phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh. Do vậy, việc nhận diện chi phí phục
vụ cho so sánh, lựa chọn phương án tối ưu trong từng tình huống ra quyết định kinh
doanh cụ thể cần được chú trọng hơn việc minh chứng chi phí phát sinh bằng các
chứng từ kế toán.
Qua các định nghĩa trên có thể hiểu bản chất của chi phí như sau:


16
+ Chi phí có thể là những phí tổn thực tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh
doanh được tổng hợp cho từng bộ phận, từng trung tâm chi phí cũng có thể là những phí
tổn ước tính hoặc dự kiến trước để thực hiện một hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Chi phí có thể gồm cả những phí tổn mất đi do lựa chọn phương án này thay
cho phương án khác.
+ Xét ở góc độ doanh nghiệp, chi phí luôn có tính cá biệt, nó bao gồm tất cả
các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra để tồn tại và hoạt động.
Như vậy, tuy có nhiều quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau về chi phí,
song đều có điểm chung nhất đó là sự tiêu hao của các yếu tố sản xuất, các nguồn
lực tài chính sau một kì hoạt động để tạo ra các kết quả thu về.
Chi phí của doanh nghiệp có nhiều loại khác nhau. Để thuận lợi cho công tác

quản lý, hạch toán, kiểm tra chi phí cũng như phục vụ cho việc ra các quyết định
kinh doanh, chi phí được phân loại theo các tiêu thức phù hợp. Phân loại chi phí
theo chức năng hoạt động là cơ sở để các nhà quản trị xây dựng hệ thống dự toán
chi phí theo các khoản mục, yếu tố nhằm phân tích, đánh giá sự biến động của chi
phí. Đó là nguồn thông tin kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp. Theo cách phân
loại này, chi phí chia thành hai dạng là chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
Theo giáo trình Kế toán quản trị (Đặng Thị Hòa, Trường Đại học Thương mại,
2006) : “Chi phí sản xuất là những khoản chi phí phát sinh tại các phân xưởng (bộ
phận) sản xuất gắn liền với các hoạt động sản xuất chế tạo sản phẩm của doanh
nghiệp ˮ
Theo giáo trình Kế toán quản trị (PGS. TS Nguyễn Ngọc Quang, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, 2009) : ” Chi phí sản xuất là các khoản chi phí phát sinh
trong phạm vi sản xuất của doanh nghiệp. Thông thường phạm vi sản xuất của các
tổ chức hoạt động kinh doanh đó là phân xưởng, tổ, đội,...”
Vì vậy, có thể hiểu: Chi phí sản xuất là những khoản phí tổn thực tế phát sinh
trong phạm vi sản xuất của doanh nghiệp, gắn với các phương án, sản phẩm, dịch
vụ. Chi phí sản xuất được biểu hiện là sự tiêu hao của các yếu tố sản xuất như lao
động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và các chi phí khác để tạo ra giá thành của
sản phẩm hay dịch vụ trong kì.


17
Chi phí sản xuất theo quan điểm của kế toán quản trị mang tính cụ thể để xem
xét hiệu quả của các bộ phận, là cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư, chọn phương
2

án tối ưu.
Giá thành sản phẩm
Theo giáo trình Kế toán quản trị (Đặng Thị Hòa, Đại học Thương mại, 2006):
“Giá thành sản xuất sản phẩm là chi phí sản xuất mà doanh nghiệp đã chi ra cho

những sản phẩm đã hoàn thành.”
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hóa, phản ánh lượng
giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự chi ra cho
sản xuất và phải được bù đắp đầy đủ để tái sản xuất tiếp theo. Những chi phí này
phát sinh trong phạm vi sản xuất của doanh nghiệp.
Giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất đều giống nhau về bản chất đó là hao
phí lao động sống và lao động vật hóa gắn với quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất lại có sự khác nhau. Khi nói đến chi
phí sản xuất là các hao phí chỉ liên quan đến một thời kỳ nhất định, không phân biệt là
cho loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay chưa; còn khi nói đến giá thành sản phẩm là
khoản hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối
lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có ý nghĩa rất quan
trọng đối với công tác quản lý của các doanh nghiệp và của nền kinh tế. Giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp có các chức năng cơ bản: chức năng thước đo bù
đắp chi phí, chức năng lập giá, chức năng đòn bẩy kinh tế.
Như vậy, bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các
yếu tố vật chất vào giá trị sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ.
Giá thành sản phẩm bao gồm toàn bộ các khoản hao phí vật chất thực tế cần
được bù đắp của sản phẩm đã hoàn thành, bất kể nó thuộc bộ phận nào trong cấu

3

thành giá trị sản phẩm.
Kế toán quản trị và kế toán quản trị chi phí
Từ những năm cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, KTQT đã xuất hiện trong hệ
thống kế toán doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị trường. Đầu tiên, kế toán
quản trị xuất hiện dưới hình thức kế toán chi phí trong doanh nghiệp sản xuất nhỏ



18
nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin cho những nhà quản trị trong nội bộ doanh nghiệp,
kiểm soát chi phí, định hướng sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh, chống đỡ
sức ép từ những doanh nghiệp sản xuất lớn. Sau đó, với thực tiễn hữu hiệu, kế toán
quản trị bắt đầu được chú ý áp dụng, phát triển nhanh chóng trong những loại hình
doanh nghiệp khác và cả trong những tổ chức phi chính phủ, bệnh viện,…
Song song với thực tiễn của quá trình hình thành, phát triển kế toán quản trị,
hệ thống lý thuyết kê toán quản trị cũng sớm ra đời vào những năm đầu thế kỷ 20.
Theo định nghĩa của Hiệp hội Kế toán Mỹ (Đặng Thị Hòa, Giáo trình Kế toán
quản trị, Trường Đại học Thương mại - 2006) : “ KTQT là việc áp dụng các kỹ thuật
và khái niệm thích hợp trong việc xử lý các dữ liệu kinh tế trong quá khứ và những
số liệu dự báo của một tổ chức nhằm giúp các nhà quản trị xây dựng kế hoạch và
ra các quyết định hợp lý nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức’’.
Ngày nay, kế toán quản trị bắt đầu chuyển sang một kỷ nguyên mới, rất gần
với quản trị, là một công cụ hợp nhất giữa chiến lược kinh doanh với thị trường,
hợp nhất giữa kiểm soát và thông tin phản hồi với thông tin định hướng, hay kế toán
quản trị là một bộ phận thiết yếu của quản trị, kế toán chiến lược.
Ở Việt Nam, tại khoản 3, điều 4 Luật kế toán 03/2003/QH 11 ngày 17/06/2003
của của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa: “ Kế toán quản trị là
việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu
quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”. Định nghĩa
này được nhắc lại nguyên vẹn tại khoản 10, điều 3, chương I Luật kế toán
88/2015/QH13 ngày 20/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017.
Năm 2006, Bộ tài chính ban hành thông tư số 53/2006/TT-BTC ngày
12/06/2006 hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp. Thông tư chi
tiết: “ KTQT nhằm cung cấp các thông tin về hoạt động nội bộ của doanh nghiệp
như: chi phí từng bộ phận (trung tâm chi phí), từng công việc, sản phẩm; phân tích,
đánh giá tình hình thực hiện với kế hoạch về doanh thu, chi phí, lợi nhuận; quản lý
tài sản; vật tư, tiền, vốn, công nợ; phân tích mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng
và lợi nhuận; lựa chọn thông tin thích hợp cho các quyết định đầu tư ngắn hạn và



19
dài hạn; lập dự toán sản xuất, kinh doanh… nhằm phục vụ việc điều hành, kiểm tra
và ra quyết định kinh tế. KTQT là công việc của từng doanh nghiệp, Nhà nước chỉ
dẫn các nguyên tắc, cách thức tổ chức và nội dung, phương pháp kế toán quản trị
chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện”.
Theo giáo trình Kế toán quản trị (Đặng Thị Hòa, Trường Đại học Thương Mại,
2006): “ KTQT là khoa học thu nhận, xử lý cung cấp thông tin về hoạt động sản
xuất kinh doanh một cách cụ thể phục vụ cho các nhà quản lý trong việc lập kế
hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch và quản lý hoạt động kinh tế tài chính
trong nội bộ doanh nghiệp.”
Tóm lại, từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu kế toán quản trị là quá trình thu
thập, xử lý, phân tích và lập báo cáo nội bộ nhằm cung cấp thông tin phục vụ chủ
yếu cho những nhà quản lý bên trong doanh nghiệp, giúp họ đưa ra các quyết định
kinh tế và vạch ra kế hoạch cho tương lai phù hợp với chiến lược kinh doanh.
Như vậy, kế toán quản trị đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho nhà
quản trị các thông tin hữu ích phục vụ cho việc lập kế hoạch, soát xét và kiểm soát
các hoạt động cũng như thực hiện quá trình ra quyết định.
Nhiệm vụ của nhà quản trị bao gồm việc xác định mục tiêu và đề xuất giải
pháp nhằm đạt được mục tiêu đề ra; đồng thời phải đảm bảo rằng các mục tiêu đã
đề ra được hiện thực hóa một cách thành công. Để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình, nhà quản trị phải được cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan, trong đó
thông tin về chi phí là một trong những thông tin vô cùng quan trọng. Hầu hết, các
quyết định của nhà quản trị đều phụ thuộc vào thông tin về chi phí, do đó hệ thống
kế toán quản trị phải có khả năng cung cấp cho nhà quản trị những thông tin đầy đủ,
kịp thời, tin cậy về chi phí. KTQT nói chung, KTQTCP nói riêng là một nội dung
cơ bản và quan trọng trong hệ thống kế toán của một doanh nghiệp.
Ở góc độ kế toán tài chính, bộ phận kế toán chi phí có chức năng tính toán, đo
lường chi phí phát sinh trong doanh nghiệp theo đúng các nguyên tắc kế toán để

cung cấp thông tin về giá vốn hàng bán, các chi phí hoạt động trên báo cáo kết quả
kinh doanh và giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán. Ở góc độ kế toán quản


20
trị, bộ phận kế toán chi phí có chức năng đo lường, phân tích về tình hình chi phí và
khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ, các hoạt động và các bộ phận của tổ
chức nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu năng của quá trình hoạt động kinh doanh.
Với các phân tích trên, có thể cho rằng kế toán quản trị chi phí là một bộ phận
của hệ thống kế toán quản trị nhằm cung cấp thông tin về chi phí để mỗi doanh
nghiệp thực hiện chức năng quản trị yếu tố nguồn lực tiêu dùng cho các hoạt động,
nhằm xây dựng kế hoạch, kiểm soát, đánh giá hoạt động và ra các quyết định hợp lý.
2
1

Nhu cầu thông tin chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp cho quản trị
doanh nghiệp xây lắp.
Đặc điểm doanh nghiệp xây lắp và nhu cầu thông tin chi phí sản xuất, giá thành
sản phẩm xây lắp cho quản trị doanh nghiệp
Doanh nghiệp xây lắp là doanh nghiệp sản xuất vật chất, hoạt động trong lĩnh
vực xây dựng cơ bản - lĩnh vực quan trọng tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền
kinh tế quốc dân. So với các ngành sản xuất khác, ngành xây lắp có những đặc điểm
riêng về kinh tế - kỹ thuật, được thể hiện rõ nét trong quá trình tạo ra sản phẩm và ở
chính sản phẩm xây lắp mà ngành tạo ra:
- Sản phẩm xây lắp được tạo ra là sản phẩm đơn chiếc:
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc...có kết cấu
phức tạp mang tính đơn chiếc, mỗi sản phẩm có yêu cầu riêng về tiêu chuẩn kỹ
thuật, mỹ thuật, kết cấu, hình thức. Vì vậy, việc tổ chức quản lý và tổ chức kế toán
quản trị nhất thiết phải có các dự toán thiết kế thi công. Điều này giúp cho các
doanh nghiệp xây lắp có thể dự đoán tương đối chính xác về giá trị công trình, từ đó

lên kế hoạch về tài chính cũng như giám sát các chi phí phát sinh đối với từng công
trình. Cũng do tính chất đơn chiếc, KTQT phải theo dõi, giám sát chi phí, giá thành
và kết quả thi công cho từng công trình xây lắp riêng biệt.
- Sản phẩm xây lắp được bán theo giá dự toán hay giá thỏa thuận với người
giao thầu từ trước
Sản phẩm xây lắp chỉ được tiến hành sản xuất sau khi có đơn đặt hàng (hợp
đồng giao nhận thầu) của người giao thầu (người mua sản phẩm). Nói cách khác là
sản phẩm xây lắp thường được sản xuất theo hợp đồng đã được ký kết do đó tính


21
chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp thường không thể hiện rõ nét. Do vậy, nhà quản
trị cần thông tin KTQT để theo dõi chặt chẽ các chi phí phát sinh và quản lý tốt các
nguồn lực của doanh nghiệp trong quá trình xây lắp để đảm bảo chi phí sản xuất
nằm trong phạm vi cho phép, đảm bảo có lãi cho doanh nghiệp.
- Sản phẩm xây lắp có giá trị lớn và thời gian thi công dài
Sản phẩm xây lắp có kích thước và giá trị lớn thường vượt quá số vốn lưu
động của doanh nghiệp xây lắp. Hơn nữa thời gian thi công tương đối dài, trong
thời gian sản xuất thi công xây dựng doanh nghiệp chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội
nhưng lại sử dụng nhiều vật tư, nhân lực, chi phí… điều này làm cho vốn sản xuất
của doanh nghiệp xây lắp thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang xây dựng. Chính
vì vậy, các doanh nghiệp xây lắp phải kiểm tra chặt chẽ chất lượng công trình; phải
có chế độ thanh toán giữa kỳ và dự trữ vốn phù hợp; quản lý, theo dõi các khoản
mục phí trong quá trình sản xuất thi công chặt chẽ nhằm đảm bảo sử dụng vốn tiết
kiệm.
Mặt khác do thời gian thi công tương đối dài nên kỳ tính giá thành không xác
định hàng tháng như trong sản xuất công nghiệp mà được xác định tùy thuộc vào
đặc điểm kỹ thuật của từng loại công trình, vào phương thức thanh toán giữa hai
bên giao thầu và nhận thầu. Đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm xây lắp
hoàn thành hoặc là điểm dừng kỹ thuật hợp lý. Sản phẩm xây lắp có kích thước và

trọng lượng lớn nên đòi hỏi số lượng lao động, số lượng nguyên vật liệu, công cụ
dụng cụ phục vụ sản xuất lớn, khác nhau, vì vậy giá thành sản phẩm xây lắp rất
phức tạp và thường xuyên thay đổi theo từng giai đoạn. Việc xác định đúng đắn đối
tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành sẽ đáp ứng yêu cầu quản lý kịp thời và
chặt chẽ chi phí sản xuất, đánh giá đúng đắn tình hình quản lý thi công trong từng
thời kỳ nhất định.
- Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp tương đối dài:
Sản phẩm xây lắp là những công trình, kiến trúc...có quy mô và giá trị lớn, tạo
nên cơ sở vật chất của nền kinh tế quốc dân, có thời gian sử dụng dài do vậy mọi sai
sót trong quá trình xây dựng là những sai lầm ít khó có điều kiện sửa chữa, khắc


22
phục một cách triệt để, đây là những sai lầm nhiều khi để lại những hậu quả rất
nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc phục.
- Hoạt động thi công xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản
xuất (xe, máy, thiết bị thi công, người lao động) ...phải di chuyển theo địa điểm đặt
sản phẩm. Đặc điểm này làm khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, khó cải thiện điều
kiện làm việc cho người lao động, làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển
lực lượng sản xuất và cho công trình tạm phục vụ sản xuất như: chi phí điều động
nhân công, điều động máy thi công, chi phí xây dựng tạm công trình phục vụ công
nhân và máy móc thi công, chi phí chuẩn bị mặt bằng và dọn mặt bằng sau khi thi
công xong… đòi hỏi kế toán phải xác định và phản ánh chính xác chi phí này và tổ
chức phân bổ chi phí cho hợp lý
- Hoạt động thi công xây lắp thường diễn ra ngoài trời, chịu tác động trực tiếp
bởi điều kiện thiên nhiên, môi trường và do đó việc thi công ở một mức độ nào đó
mang tính chất thời vụ. Do đặc điểm này, trong quá trình thi công cần tổ chức quản lý
lao động, vật tư chặt chẽ, đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ và có kế hoạch điều
động cho phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành.
- Để nhận được công trình, các doanh nghiệp xây lắp thường phải trải qua

khâu đấu thầu. Do đó công tác xác định giá dự toán của công trình cần phải được
coi trọng để từ đó xác định mức giá bỏ thầu hợp lý, đảm bảo hiệu quả hoạt động
kinh doanh xây lắp của doanh nghiệp và khả năng trúng thầu.
Những đặc điểm này của hoạt động xây lắp đòi hỏi việc quản lý, giám sát phải
được tiến hành chặt chẽ để đảm bảo công trình thi công được tiến hành theo đúng
tiến độ và sản phẩm xây lắp đạt tiêu chuẩn cả về kỹ thuật cũng như tiêu chuẩn về
kinh tế. Do vậy thông tin KTQT đầy đủ, thích hợp là yêu cầu cấp thiết để giúp nhà
quản trị ra quyết định ngắn hạn và dài hạn.
2

Vai trò của kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp trong
quản trị doanh nghiệp
Như đã phân tích, thông tin về chi phí gắn liền với các quyết định quản lý của
nhà quản trị, đồng thời là thước đo để đánh giá hiệu quả của hoạt động. Vì vậy,


23
thông tin chi phí luôn là thông tin cơ sở, quan trọng phục vụ cho nhà quản trị trong
việc thực hiện chức năng: Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm soát, đánh giá.
Do đó, vai trò của kế toán quản trị chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm được thể
hiện cụ thể như sau:
Lập kế hoạch
Kế toán quản trị chi phí là công cụ quản trị, một công cụ rất quan trọng trong
quá trình hoạch định và lập kế hoạch của doanh nghiệp. Trong đó, lập kế hoạch bao
gồm việc xây dựng chiến lược, lựa chọn phương hướng hành động thực hiện và cụ
thể hóa các hành động cần triển khai.
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng hoạt động với mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa
lợi nhuận thông qua việc không ngừng mở rộng thị trường, đẩy nhanh tiêu thụ và
cung ứng các sản phẩm, dịch vụ với giá thành cạnh tranh nhất. Chính vì thế, khi đưa
ra các quyết định, nhà quản lý thường phải căn cứ vào nguồn lực hiện có của công

ty, phải cân bằng giữa chi phí chi ra và lợi nhuận do chi phí đó mang lại. Trên cơ sở
các dữ liệu quá khứ, kế toán quản trị cung cấp thông tin cho nhà quản lý về doanh
số bán hàng, chi phí sản xuất…từ đó, nhà quản trị sẽ hoạch định ra các kế hoạch
hoạt động trong tương lai.
Thông tin chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là một trong những thông tin
quan trọng phục vụ cho việc lập kế hoạch của nhà quản trị; đồng thời các dữ liệu về
chi phí là cơ sở cho việc ra các quyết định về giá bán, cơ cấu sản phẩm, mua sắp
máy móc thiết bị, loại bỏ các hoạt động không tạo ra giá trị tăng thêm.
Trong doanh nghiệp xây lắp, các nhà quản trị phải lập kế hoạch về cho hoạt
động trong tương lai. Kết quả của quá trình lập kế hoạch được kế toán quản trị chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm thể hiện dưới dạng các dự toán chi phí và giá
thành cho từng công trình, hạng mục công trình. Ngoài ra, kế toán quản trị chi phí
sản xuất, giá thành sản phẩm còn có vai trò tính toán nhu cầu thị trường để nhằm có
kế hoạch ổn định sản xuất và đưa ra các biện pháp nhằm làm giảm chi phí, hạ giá
thành một cách có hiệu quả nhất.
Tổ chức thực hiện


24
Trên thực tế, bên cạnh việc xây dựng các kế hoạch phát triển của một tổ chức
trong tương lai, các nhà quản lý còn có trách nhiệm tổ chức thực hiện và hướng dẫn
các hoạt động thường ngày của đơn vị đó. Nhà quản trị phải phân công nhiệm vụ cụ
thể cho từng bộ phận, giải quyết các vấn đề hàng ngày xảy ra, đưa ra các lựa chọn,
quyết định hàng ngày. Để thực hiện được chức năng này, nhà quản lý phải thường
xuyên nắm được thông tin thực hiện của doanh nghiệp. Kế toán quản trị chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm cung cấp thông tin thực hiện tình hình chi phí sản xuất,
giá thành sản phẩm cho nhà quản trị. Những thông tin này giúp nhà quản lý nắm
được tình hình thực hiện dự toán về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm; đồng
thời phát hiện ra những trục trặc, yếu kém, tình trạng lãng phí chi phí ở từng bộ
phận, từng giai đoạn thực hiện. Đồng thời, các nhà quản trị sử dụng các báo cáo này

để kiểm tra, đánh giá trong lĩnh vực trách nhiệm mà họ quan tâm để xem xét, điều
chỉnh, tổ chức thực hiện theo các mục tiêu đề ra.
Ngoài ra, nhà quản trị còn phải nắm được tình hình thực hiện chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm để lựa chọn các phương án tác nghiệp tốt nhất trên phương
diện chi phí.
Kiểm soát, đánh giá
Kiểm soát, đánh giá là quá trình đảm bảo cho việc các kế hoạch được tổ chức
thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra. Để có thể kiểm soát và đánh giá tình hình thực
hiện chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, các nhà quản lý phải sử dụng các biện
pháp so sánh giữa tình hình thực hiện và kế hoạch đã đề ra. Kế toán quản trị chi phí
sản xuất, giá thành sản phẩm có nhiệm vụ cung cấp những thông tin về tình hình chi
phí sản xuất mà các doanh nghiệp xây lắp đã chi ra cho từng công trình, hạng mục
công trình. Trên cơ sở các thông tin đã thu nhận được, kế toán quản trị có nhiệm vụ
phân tích, diễn giải, lập dự toán chi tiết phục vụ cho nhà quản trị lựa chọn, quyết
định phương án tối ưu nhất trong quản lý. Thông qua các báo cáo kế toán quản trị
về chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm dạng so sánh, nhà quản trị kịp thời phát
hiện, đánh giá được tình hình thực hiện chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm có phù
hợp với dự toán đề ra; có được tổ chức thực hiện một cách hiệu quả; cũng như


25
những bộ phận, công trình, hạng mục công trình hay giai đoạn nào cần phải tiến
hành điều chỉnh.
Những thông tin về chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm dưới dạng các báo
cáo quản trị có dạng so sánh giúp các nhà quản trị sử dụng các báo cáo này để kiểm
tra, đánh giá trong các lĩnh vực trách nhiệm mà họ cần quan tâm để xem xét, điều
chỉnh, tổ chức thực hiện theo các mục tiêu đề ra. Do đó kế toán quản trị phải giúp
cho các nhà quản lý nhận được những thông tin mà họ cần cung cấp theo chức năng
và lĩnh vực quản trị.
Ra quyết định

Thông tin do KTQT cung cấp chủ yếu phục vụ chức năng ra quyết định của
nhà quản trị. Chức năng ra quyết định là chức năng quan trọng, xuyên suốt các khâu
quản trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến kiểm soát,
đánh giá. Chức năng ra quyết định được vận dụng liên tục trong suốt quá trình hoạt
động của doanh nghiệp. Các quyết định của nhà quản trị có thể là các quyết định
đầu tư dài hạn (như xây dựng them phân xưởng sản xuất mới, lắp đặt them dây
chuyền công nghệ, thâm nhập vào thị trường mới,…) có thể là các quyết định ngắn
hạn cho một khoản thời gian trước mắt (như quyết định tự sản xuất các chi tiết của
một loại sản phẩm của doanh nghiệp hay mua ngoài, quyết định ngừng kinh doanh
một bộ phận hay một loại sản phẩm,…) cũng có thể là các quyết định mang tính
chất tác nghiệp, điều hành hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp.
Để ra các quyết định, nhà quản trị cần phải có thông tin đầy đủ, tin cậy, thích
hợp. Không có thông tin thì nhà quản trị không có cơ sở để đưa ra quyết định.
Ngược lại, thông tin quá nhiều nhưng không đủ độ tin cậy và không thích hợp có
thể làm nhiễu loạn thông tin, gây khó khăn cho việc ra quyết định hoặc dẫn đến lựa
chọn quyết định sai. Nhưng thông tin thích hợp thỏa mãn nhu cầu ra quyết định của
nhà quản trị thường không có sẵn. Do đó KTQT phải thực hiện các nghiệp vụ phân
tích chuyên môn, chọn lọc thông tin cần thiết, thích hợp, rồi tổng hợp trình bày
chúng theo một trình tự dễ hiếu nhất và giải thích quá trình phân tích đó cho các nhà
quản trị.


×