Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án cấp sơ thẩm từ thực tiễn tại các tòa án nhân dân ở thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN
TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LẠI QUÝ CẨN

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN
TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LẠI QUÝ CẨN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 12 năm 2018
NGƯỜI CAM ĐOAN

LẠI QUÝ CẨN


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy Cô,
cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập
nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Nguyễn Triều Dương người đã
hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này. Xin
chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong khoa Luật kinh tế và
khoa sau đại học Viện đại học mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức
quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học
tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Tòa án nhân dân thành phố Hải

Phòng, tòa án nhân dân các quận huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã
không ngừng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian
nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Hà Nội, tháng 12 năm 2018
Học viên thực hiện

LẠI QUÝ CẨN


MỤC LỤC

MỤC LỤC.............................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC SƠ THẨM GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG ................................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao
động 6
1.1.1 Khái niệm ....................................................................................................... 6
1.1.2 Đặc điểm ........................................................................................................ 9
1.1.3 Ý nghĩa ......................................................................................................... 12
1.2. Cơ sở của việc quy định thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động ......... 16
1.2.1 Cơ sở lý luận................................................................................................. 16
1.2.2 Cơ sở thực tiễn.............................................................................................. 17
1.3. Các yếu tố bảo đảm cho việc giải quyết TCLD tại tòa án cấp sơ thẩm ............ 18
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 29
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC SƠ
THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG ......................................... 30

2.1. Các quy định chung ........................................................................................ 30
2.1.1. Nguyên tắc giải quyết trong tố tụng lao động ............................................... 30
2.1.2 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động về lao động ............................... 33
2.1.3 Nguyên tắc tiến hành phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động ........ 39
2.1.4. Thành phần HĐXX sơ thẩm......................................................................... 41
2.1.5. Những người tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động ..... 42
2.2. Thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động .............................................. 50
2.2.1 Khởi kiện, thụ lý vụ án lao động ................................................................... 50
2.2.2 Hòa giải, chuẩn bị xét xử sơ thẩm ................................................................. 52
2.2.3. Phiên tòa lao động sơ thẩm .......................................................................... 54
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 57


CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT SƠ THẨM LAO ĐỘNG TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG VÀ KIẾN NGHỊ ......................................... 58
3.1. Thực tiễn giải quyết sơ thẩm lao động trên địa bàn thành phố Hải Phòng ....... 58
3.1.1 Sơ lược về thành phố Hải Phòng và Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố
Hải Phòng.............................................................................................................. 58
3.1.2. Thực tiễn tiến hành phiên tòa sơ thẩm giải quyết TCLĐ tại TAND trên địa
bàn thành phố Hải Phòng ....................................................................................... 59
3.2. Kiến nghị ........................................................................................................ 72
3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục .................................................... 72
3.2.2 Kiến nghị nâng cao hiệu quả sơ thẩm tranh chấp lao động ........................... 75
Kết luận chương 3 ................................................................................................. 79
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 82


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


- TCLĐ

: Tranh chấp lao động

- BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

- TAND

: Tòa án nhân dân

- TA

: Tòa án

- VKS

: Viện kiểm sát

- NLĐ

: Người lao động

- NSDLĐ

: Người sử dụng lao động

- PTSTDS


: Phiên tòa sơ thẩm dân sự

- HĐXX

: Hội đồng xét xử

- TP

: Thẩm phán

- HTND

: Hội thẩm nhân dân

- CĐCS

: Công đoàn cơ sở

- TCLĐ

: Tranh chấp lao động

- BLLĐ

: Bộ luật lao động

- BLTTDS

: Bộ luật tốt tụng dân sự


- BHXH

: Bảo hiểm xã hội

- BHYT

: Bảo hiểm y tế


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là nội dung cơ bản của pháp luật
lao động, vì vậy Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
tình hình thực tiễn. Năm 2004 BLTTDS được Quốc hội thông qua đã thay thế cho
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động đã đưa ra một diện mạo mới đối với
thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Năm 2002 Bộ luật lao động được sửa
đổi, bổ sung lần thứ nhất, đến năm 2006 Bộ luật lao động lại tiếp tục sửa đổi, bổ
sung lần thứ hai trong đó đặc biệt sửa đổi toàn bộ Chương về tranh chấp lao động;
hiện nay các quy định liên quan được hoàn thiện trong Bộ luật lao động năm 2012.
Năm 2015 BLTTDS được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Tòa án thực
hiện các cấp xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để giải quyết
khi có tranh chấp lao động thuộc thẩm quyền.
Theo đó, với sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật lao động việc
giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án đã có nhiều thay đổi, trong đó có thủ tục
xét xử sơ thẩm tại tòa án. Bên cạnh đó, tình hình thực tiễn giải quyết TCLĐ theo thủ
tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hải Phòng trong thời gian gần
đây cho thấy Tòa án là một trong những cơ quan có thẩm quyền trong việc giải
quyết TCLĐ; tuy nhiên số các vụ TCLĐ đưa đến Tòa án còn hạn chế. Tình trạng
này phát sinh do nhiều nguyên nhân như: thủ tục hòa giải tại cơ sở còn nhiều vướng
mắc, sự hiểu biết pháp luật về thủ tục giải quyết TCLĐ của NLĐ còn hạn chế, các

tổ chức tư vấn cho NLĐ còn chưa phát huy hiệu quả… Tỷ lệ các vụ án của tòa án
cấp sơ thẩm phải sửa tương đối cao, một số vụ án phải kéo dài, có vụ tới ba hoặc
bốn năm do phải hủy để xét xử lại; quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không
được khôi phục kịp thời. Những hạn chế đó đã gây những tác động tiêu cực đến
quan hệ lao động đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay, hạn chế quá trình phát
triển của nền kinh tế thành phố Hải Phòng nói riêng cũng như trong khu vực nói
chung. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng BLTTDS 2015 hiện nay còn nhiều vấn
đề cần hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết TCLĐ tại TAND cấp sơ thẩm.

1


Do vậy, với việc lựa chọn nghiên cứu vấn đề: “Thủ tục giải quyết tranh chấp lao
động tại Tòa án cấp sơ thẩm từ thực tiễn tại các Tòa án nhân dân ở thành phố
Hải Phòng” là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Là một trong những vấn đề cơ bản của pháp luật lao động nói chung, tranh
chấp lao động đã được các nhà khoa học, luật gia, tác giả quan tâm nghiên cứu ở
các mức độ khác nhau. Đã có nhiều công trình, bài viết khoa học về giải quyết tranh
chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động cá nhân nói riêng như: luận án tiến
sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Xuân Thu "Cơ chế ba bên trong việc giải quyết
tranh chấp lao động ở Việt Nam" nhấn mạnh đến vai trò của cơ chế ba bên trong
việc giải quyết tranh chấp, xây dựng các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả vận dụng cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao
động; luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Công Bảy về "Pháp luật về thủ tục giải quyết
tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án Việt Nam" là đề tài viết khá chuyên sâu về cơ
chế giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án đồng thời đưa ra hướng giải
quyết những bất cập còn tồn tại trong việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
tại Tòa án. Bên cạnh đó còn một số luận văn thạc sĩ như: "Giải quyết tranh chấp lao
động tại Tòa án nhân dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Vũ Thị

Thu Hiền năm 2002; "Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và tình
hình thực hiện tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh" của tác giả
Nguyễn Công Hợi năm 2012; "Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân Một số bất cập và hướng hoàn thiện" của tác giả Ngô Thị Tâm năm 2012 tại trường
Đại học Luật Hà Nội; luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Thị Hường về "Giải
quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam" năm
2012 tại Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội… Ngoài ra, còn có rất nhiều bài
nghiên cứu về tranh chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động nói riêng trên
các tạp chí chuyên ngành như: đề tài cơ bản cấp Đại học Quốc gia về "Tranh chấp
lao động và giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn" năm 2005 của tác giả Lê Thị Hoài Thu; "Giải quyết tranh chấp lao động
cá nhân tại Tòa án - Một số bất cập và hướng hoàn thiện" của tác giả Lê Thị Hoài

2


Thu; "Tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động", Đặc san tuyên truyền
pháp luật số 02/2014 của tác giả Vũ Thu Hiền; "Giải quyết tranh chấp lao động tại
Tòa án nhân dân - Từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị", tạp chí Luật học
số 10 của Phạm Công Bảy… Các bài viết được nhìn nhận dưới các góc độ khác
nhau và nhất là khi BLTTDS 2015 chưa có hiệu lực thi hành. Vì vậy khi lựa chọn
đề tài này để nghiên cứu tác giả mong muốn sẽ đưa ra điểm mới, sẽ có cái nhìn
hoàn thiện, đầy đủ hơn về cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án cấp sơ
thẩm cả về lý luận, thực tiễn thực hiện tại thành phố Hải Phòng; qua đó nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về nội dung này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục sơ
thẩm giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án, thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ tại
Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại thành phố
Hải Phòng; từ đó chỉ ra những bất cập để đề xuất những kiến nghị và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ của tại Tòa án trên

thực tế. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ, cụ
thể là:
- Nghiên cứu khái quát chung vấn đề lý luận về thủ tục sơ thẩm giải
quyết TCLĐ.
- Nghiên cứu thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ tại Tòa án theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Nghiên cứu thực tiễn tiến hành thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ tại Tòa án
ở thành phố Hải Phòng hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục sơ thẩm
giải quyết TCLĐ tại Tòa án dưới góc độ của luật tố tụng dân sự nhằm hỗ trợ cho
việc giải quyết mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu các quy
phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng thủ tục sơ thẩm giải quyết các TCLĐ tại
TAND thành phố Hải Phòng trong giai đoạn gần đây, đặc biệt là từ sau khi
BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành.

3


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người và
quyền công dân trong xã hội, những luận điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu và các bài viết đăng trong tạp chí của một số nhà khoa học Việt Nam.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm sang tỏ về mặt
khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: Phương
pháp luận, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn đưa ra những vấn đề mới sau
đây:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng quy
định về thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ.
- Luận văn chỉ ra những tồn tại của hệ thống các quy định và thực tiễn tiến
hành thủ tục giải quyết TCLĐ thông qua thủ tục tại TAND thành phố Hải Phòng
trong thời gian qua.
- Luận văn đưa ra kiến nghị về một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật,
tăng cường khâu tổ chức và hoạt động của thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ tại Tòa
án của nước ta.
Với những vấn đề nêu trên, tác giả của luận văn hy vọng đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc hoàn thiện hệ thống và tổ chức vận hành có hiệu quả thủ tục sơ
thẩm giải quyết TCLĐ tại Tòa án nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của các bên trong
mối quan hệ pháp luật lao động, đảm bảo lợi ích Nhà nước và xã hội, thực hiện tốt
mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:

4


Chương 1: Những vấn đề lý luận về thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp
lao động
Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành về thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh
chấp lao động
Chương 3: Thực tiễn giải quyết sơ thẩm lao động trên địa bàn thành phố Hải
Phòng và kiến nghị.

5



CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC SƠ
THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp
lao động
1.1.1 Khái niệm
Tranh chấp lao động là một trong những cụm từ mới được sử dụng ở nước ta
trong khoảng gần ba chục năm trở lại đây. Trước năm 1985, khái niệm tranh chấp
lao động hầu như không được nhắc đến. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do vào thời
kì đó, quan điểm xây dựng nền kinh tế theo hướng kế hoạch hóa tập trung, NLĐ
chính là “công nhân, viên chức nhà nước”, do đó sức lao động không được coi là
hàng hóa. Nếu không đồng tình hoặc cần đưa ra vấn đề gì liên quan đến quyền lợi
của mình, họ sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo và đây là những vấn đề thuộc lĩnh vực
hành chính.
Khái niệm “tranh chấp lao động” được chính thức đề cập đến tại Thông tư
liên tịch ngành số 02/TT-LT của Tòa án tối cao- Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ
tư pháp- Bộ lao động- Tổng cục dạy nghề và hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét
xử của tòa án nhân dân về một số việc liên quan tới tranh chấp lao động.
Như vậy, tranh chấp lao động không chỉ là tranh chấp về sự lao động, về sự
làm việc, tức là xung đột về hành vi liên quan đến hoạt động chức năng của NLĐ.
Tranh chấp lao động là loại tranh chấp về các vấn đề liên quan đến quá trình lao
động, tức là quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt mối quan hệ lao động giữa các bên.
Không chỉ có vậy, tranh chấp lao động còn bao gồm cả các xung đột liên quan đến
việc làm, học nghề, quan hệ đại diện lao động…tức là những vấn đề liên quan đến
quyền và lợi ích của các bên bao gồm NLĐ và NSDLĐ. Do đó, có thể hiểu tranh
chấp lao động là một khái niệm khá rộng, khá bao trùm, bởi lẽ, quyền và lợi ích của
các bên trong quan hệ lao động là một yếu tố khá phức tạp. Bên cạnh đó còn nảy
sinh một số quyền và lợi ích khác, ví dụ như quyền của NSDLĐ trong việc đòi bồi

thường thiệt hại do NLĐ gây nên; quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công
đoàn của NLĐ…Những quyền và lợi ích đó cũng trở thành đối tượng tranh chấp
của các bên.

6


Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường với sự tồn tại của thị trường sức
lao động thì TCLĐ là một hiện tượng khó tránh khỏi. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, các TCLĐ càng trở nên phức tạp về nội dung và gia tăng về
số lượng. Khi TCLĐ xảy ra, các bên có thể sử dụng nhiều phương thức giải quyết
TCLĐ khác nhau như thương lượng, hoà giải, trọng tài và giải quyết tại TAND.
Nếu như thương lượng là phương thức giải quyết TCLĐ chỉ do hai bên tranh chấp
tự tiến hành thì hoà giải, trọng tài và giải quyết tranh chấp tại TAND là phương
thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của chủ thể thứ ba. Tuy cùng có sự tham
gia của chủ thể thứ ba trong quá trình giải quyết nhưng phương thức giải quyết tại
TAND có nhiều điểm khác biệt. Thông thường, phương thức này được áp dụng để
giải quyết TCLĐ khi nó đã được giải quyết bằng các phương thức khác như thương
lượng, hoà giải, trọng tài nhưng không thành (trừ một số trường hợp đặc biệt).
Khi giải quyết tại TAND thì có nhiều cấp xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong toàn bộ các thủ tục được Tòa án tiến hành trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm giải quyết TCLĐ có tầm quan trọng đặc biệt, là giai đoạn quan
trọng tiếp cận, giải quyết vụ án, là tiền đề cho các giai đoạn xét xử sau. Vì vậy, việc
xác định và làm rõ được khái niệm thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động là
cơ sở quan trọng. Tuy nhiên, tác giả luận văn chỉ đi vào nghiên cứu thủ tục sơ thẩm
giải quyết tranh chấp lao động dưới góc độ là một thủ tục tố tụng. Vậy, dưới góc độ
này thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động là gì?
Trước tiên là khái niệm “Sơ thẩm”? Theo đại từ điển tiếng Việt là “xét xử lần
đầu một vụ việc ở TA cấp thấp” [43, tr.146]. Còn dưới góc độ pháp lý, sơ thẩm dân
sự là việc giải quyết lần đầu một vụ việc dân sự, bao gồm các hoạt động khởi kiện,

thụ lý, chuẩn bị xét xử, hòa giải và ở PTSTDS, PTSTDS là khâu cuối cùng của sơ
thẩm dân sự và tại đó TA sẽ xét xử để đưa ra được phán quyết về vụ việc dân sự.
Theo pháp luật tố tụng Việt Nam hiện hành, thì xét xử sơ thẩm được xác
định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án dân sự nói
chung và TCLĐ nói riêng. Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi
những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý

7


các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà
phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của
pháp luật thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm
phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và những người tham gia tố
tụng tố tụng thác. Cũng thông qua phiên toà mà Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát
viên, Luật sư nâng cao được trình độ nghiệp vụ năng lực công tác và kỹ năng nghề
nghiệp; thông qua phiên toà, những người dự phiên toà hiểu biết thêm về pháp luật,
củng cố thêm lòng tin vào Toà án. Vì vậy, việc tổ chức phiên toà sơ thẩm tốt có tác
dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án cụ thể mà còn có tác dụng đối với việc
nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân.
Có thể nói, quá trình tố tụng lao động tại toà án là quá trình phức tạp bao gồm
nhiều hoạt động khác nhau của toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, đương sự,
người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự… Các chủ thể này tham gia vào hoạt động tố tụng với những mục đích, nhiệm
vụ và quyền hạn khác nhau và giữa họ nảy sinh các quan hệ khác nhau. Để bảo bảo
giải quyết các tranh chấp lao động được giải quyết nhanh chúng đắn, đảm bảo
quyền và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động, pháp luật đã quy
định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ đó.
Như vậy, khi có tranh chấp lao động xảy ra, phương thức giải quyết khi được
tiến hành là Tòa án thì thủ tục sơ thẩm là giai đoạn đầu tiên, tiền đề cho các giai

đoạn xét xử khác giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, hiện nay, trong pháp luật tố tụng
chưa có một khái niệm chính thức về thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ. Từ
phân tích trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về thủ tục sơ thẩm giải quyết
TCLĐ như sau:
“Thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ là phương thức giải quyết TCLĐ, bao
gồm những hoạt động được tiến hành bởi những người tham gia tố tụng – Cơ quan
mang quyền lực Nhà nước tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ trên những
nguyên tắc và thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tranh chấp lao động”.

8


1.1.2 Đặc điểm
Thủ tục tố tụng lao động, cụ thể là thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ là một
dạng của tố tụng dân sự nên cũng mang các đặc điểm của tố tụng dân sự: Toà án
thường là một bên của quan hệ pháp luật tố tụng, các quan hệ phát sinh trong tố
tụng lao động do luật tố tụng dân sự và bộ luật lao động điều chỉnh, quan hệ pháp
luật tố tụng lao động phát sinh, tồn tại trong một thể thống nhất. Tuy nhiên, thủ tục
này có những đặc điểm riêng khác sau:
- Thứ nhất: giải quyết tranh chấp lao động thông qua tòa án ở thủ tục sơ thẩm
được xem như phương thức giải quyết tranh chấp lao động cuối cùng sau khi các
bên tranh chấp đã sử dụng các phương thức giải quyết khác mà không đạt kết quả
(trừ một số trường hợp đặc biệt).
- Thứ hai, tố tụng lao động là phương thức giải quyết do Toà án – cơ quan
quyền lực nhà nước tiến hành với những quy trình, thủ tục tố tụng chặt chẽ. Toà
án nhân dân mang quyền lực nhà nước và nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam để giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp lao động nói
riêng. Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân phải
tuân theo những trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ. Ở từng giai đoạn tố tụng, mọi

trình tự đều được quy định cụ thể và chặt chẽ. Bất kỳ một hành vi nào không tuân
thủ trình tự tố tụng đã được pháp luật quy định đều là vi phạm thủ tục tố tụng và
đều dẫn đến hậu quả bản án hoặc quyết định của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng
nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm.
- Thứ ba, các phán quyết mà Toà án ban hành trong quá trình giải quyết tranh
chấp lao động được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước nếu
các bên không tự nguyện thi hành.
Kết quả của quá trình hoà giải tranh chấp lao động tại Hoà giải viên lao động
là Biên bản hoà giải thành hoặc Biên bản hoà giải không thành. Kết quả của quá
trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền tại Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp huyện là Quyết định giải quyết tranh chấp. Kết quả của quá trình giải quyết
tranh chấp lao động tập thể về lợi ích tại Hội đồng trọng tài lao động là Quyết định

9


công nhận sự thoả thuận của các bên hoặc Biên bản hoà giải không thành. Tuy
nhiên, pháp luật nước ta không quy định việc cưỡng chế thi hành đối với các quyết
định, biên bản giải quyết tranh chấp lao động của Hoà giải viên, chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện, Hội đồng trọng tài lao động. Do đó, trong trường hợp một bên
không tự nguyện thực hiện những cam kết đã thoả thuận trong Biên bản hoà giải
thành, Quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên hay trong Quyết định của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì quyền lợi của bên kia sẽ bị ảnh hưởng. Trong những
trường hợp này, các bên không có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định
cưỡng chế thi hành bởi vì các quyết định được ban hành trong quá trình giải
quyết tranh chấp lao động tại Hoà giải viên, chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện và Hội đồng trọng tài không được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước.
Khác với các Biên bản hoà giải thành của Hoà giải viên, Quyết định công
nhận sự thoả thuận của các bên và Quyết định giải quyết của chủ tịch Uỷ ban nhân

dân cấp huyện, các phán quyết của Toà án trong quá trình giải quyết tranh chấp lao
động khi có hiệu lực pháp luật đều được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước.
Từ việc phân tích trên, có thể thấy: việc giải quyết tranh chấp lao động
tại Toà án nhân dân có thể giải quyết dứt điểm vụ tranh chấp lao động. Hơn nữa,
những phán quyết của Toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước sẽ bảo vệ triệt để quyền và lợi ích của những người có quyền và lợi ích bị
xâm phạm – mà thông thường là người lao động.
* Phân biệt giữa thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án tranh chấp lao động với thủ
tục sơ thẩm giải quyết vụ án hình sự và thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ việc hành chính.
Về bản chất, các phiên tòa đều là do TA là cơ quan Nhà nước thực hiện
quyền lực nhà nước về tư pháp để thực hiện quyền tài phán để đưa ra phán quyết
giải quyết. Tuy nhiên, do đối tượng giải quyết ở các phiên tòa cũng khác nhau nên
thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án tranh chấp lao động có những sự khác biệt với thủ
tục sơ thẩm giải quyết vụ án hình sự và thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ việc hành
chính. Cụ thể:

10


- Thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động được tiến hành trên cơ sở
và để giải quyết lần đầu yêu cầu của đương sự
Đối với việc giải quyết vụ án hình sự là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước và người thực hiện hành vi phạm tội nên phiên tòa sơ thẩm hình sự được tiến
hành trên cơ sở các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các quyết định đó
sẽ là căn cứ để TA tiến hành và xác định phạm vi giải quyết vụ án hình sự. Tuy
nhiên, việc giải quyết vụ việc dân sự, mà cụ thể là tranh chấp lao động chính là giải
quyết các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ có tranh chấp – người
lao động và người sử dụng lao động. Trong suốt quá trình thực hiện thủ tục sơ thẩm
giải quyết TCLĐ, TA giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự có rất nhiều

cách giải quyết, có thể thông qua hòa giải nhưng có thể phải tiến hành thủ tục sơ
thẩm khi vẫn còn những vấn đề cần được đưa ra xem xét ở phiên tòa sơ thẩm.
- Phạm vi xét xử của TA và diễn biến của thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ
luôn tồn tại trong trạng thái động.
Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính thì phạm
vi xét xử khá rõ ràng và ổn định và rất ít thay đổi. Tuy nhiên, trong tố tụng dân sự,
cụ thể là giải quyết tranh chấp lao động thì đương sự có quyền tự quyết định và định
đoạt của đương sự nên trong suốt quá trình trước hay tại phiên toàn phạm vi giải
quyết của TA luôn có sự biến động do trong quá trình đó đương sự đã khởi kiện, họ
có quyền tự quyết định về việc tự tham gia giải quyết tranh chấp lao động của mình
hay ủy quyền cho người khác, tự quyết định về phạm vi, nội dung, mức độ yêu cầu
bằng việc thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu. Trong trường hợp đó phạm vi xét xử
của TA bị thay đổi theo. Đây cũng chính là một trong những lý do để chúng ta có
thể hiểu được sự phức tạp và khó khăn khi TA giải quyết các vụ án tranh chấp lao
động. Vì vậy, khi tiến hành thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động, trước
khi đi vào giải quyết về nội dung vụ án, TA phải hỏi các đương sự về việc thay đổi,
bổ sung và rút yêu cầu của họ; về việc họ có hòa giải được với nhau hay không:
Nếu các đương sự rút yêu cầu và việc rút yêu cầu đó là tự nguyện thì TA sẽ ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án; Nếu các đương sự hòa giải được với nhau thì TA ra

11


quyết định công nhận sự thỏa thuận. Chỉ khi vẫn còn yêu cầu TA phải giải quyết thì
các thủ tục phiên tòa mới thực hiện để xem xét về nội dung yêu cầu. Vì vậy, chúng
ta có thể thấy diễn biến của phiên tòa sơ thẩm phụ thuộc chủ yếu vào quyền tự định
đoạt của các đương sự.
- Tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động việc chứng minh chủ
yếu thuộc về các bên đương sự
Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội thuộc về

các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh mình là vô tội. Vì vậy, tại phiên tòa hình sự, nghĩa vụ chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, trong giải quyết sơ thẩm
vụ án tranh chấp lao động, các đương sự là người trong cuộc nên hơn ai hết họ có
thể chứng minh được các tình tiết, sự kiện mà TA đang giải quyết phát sinh giữa họ
với nhau. Vì vậy, việc chứng minh trước hoặc tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết
TCLĐ trước hết thuộc trách nhiệm của các đương sự và của những người tham gia
tố tụng như: người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Vì vậy, thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án tranh chấp lao động có
những điểm khác biệt so với phiên tòa sơ thẩm hình sự.
So với phiên tòa sơ thẩm hành chính, chúng ta có thể thấy thủ tục sơ thẩm vụ
án TCLĐ có những đặc điểm giống so với phiên tòa sơ thẩm hành chính. Bởi vì, về
bản chất các đương sự trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính là bình đẳng với
nhau [15, tr. 262]. Nếu luật hành chính là luật công và trong quan hệ hành chính các
bên các chủ thể này bất bình đẳng những trước TA thì các chủ thể bất bình đẳng
trong quan hệ hành chính đã trở thành các chủ thể bình đẳng của pháp luật tố tụng
hành chính.
1.1.3 Ý nghĩa
Như đã phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng thủ tục sơ thẩm giải quyết
tranh chấp lao động là hoạt động tố tụng đầu tiên, quan trọng, tiền đề giải quyết các
giai đoạn tiếp theo của vụ án; kết quả của việc tiến hành thủ tục sơ thẩm giải quyết
tranh chấp lao động có giá trị quyết định với việc giải quyết quyền và lợi ích của

12


các bên đương sự. Vì vậy, việc tiến hành giải quyết TCLĐ tại phiên tòa sơ thẩm có
rất nhiều ý nghĩa quan trọng thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc giải quyết TCLĐ tại TAND theo thủ tục sơ thẩm góp phần
giải quyết TCLĐ, từ đó góp phần ổn định quan hệ lao động, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên tranh chấp, ổn định sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
TCLĐ có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó một nguyên nhân chủ
yếu đó là do cách xử sự không đúng của các chủ thể trong quan hệ lao động. Điều
này có thể do nhận thức hoặc hiểu biết pháp luật của các chủ thể còn hạn chế hoặc
tâm lý xem thường pháp luật mà họ có những đòi hỏi, yêu sách không chính đáng
xâm phạm lợi ích của nhau dẫn đến tranh chấp. Xét xử là phương thức đặc biệt do
Toà án tiến hành theo những nguyên tắc tố tụng được quy định trong các văn bản
pháp luật. Kết quả của việc giải quyết TCLĐ tại Toà án cấp sơ thẩm là các bản án,
quyết định được tuyên trong đó có lợi ích hợp pháp của các bên được thi hành một
cách triệt để nhất, là tiền đề thực hiện các thủ tục tố tụng tiếp theo – nếu có.
Thứ hai, thông qua xét xử sơ thẩm TCLĐ có thể đánh giá được một cách
tổng thể và toàn diện chất lượng và hiệu quả của các hoạt động mà TA thực hiện
giải quyết TCLĐ như: thụ lý, chuẩn bị xét xử, hòa giải để từ đó có thể đưa ra những
xử lý kịp thời nhằm khắc phục các sai sót, vi phạm pháp luật của hoạt động ở các
giai đoạn tố tụng trước đó khi ra phiên tòa xét xử. Chẳng hạn, tại phiên tòa sơ thẩm,
HĐXX có thể xác định được việc thụ lý có đúng không, các hoạt động xác minh,
thu thập chứng cứ đã được thực hiện đúng chưa, đầy đủ chưa, TA đã tiến hành hòa
giải theo quy định của pháp luật chưa… phiên tòa sơ thẩm là hoạt động tố tụng
quan trọng nhất ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và toàn bộ quá trình TA giải quyết vụ án
dân sự. Vì vậy, việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm được thực hiện tốt, HĐXX ra được
các bản án, quyết định sơ thẩm đúng đắn, khách quan sẽ bảo đảm được quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, đồng thời hạn chế việc kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm hay khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm làm mất thời gian, công sức và tiền
bạc của đương sự và của TA.

13


Trong trường hợp vụ án được giải quyết mà kết thúc ngay sau thủ tục sơ
thẩm giải quyết TCLĐ thì sẽ bảo đảm việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo vệ kịp thời, tiết kiệm chi phí tố
tụng cho Nhà nước và các đương sự. Như vậy, có thể thấy, nếu không có giải quyết
TCLĐ bằng thủ tục sơ thẩm sẽ không có bản án sơ thẩm và cũng không thể có việc
xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án đó.
Thứ ba, việc giải quyết TCLĐ tại TAND theo thủ tục sơ thẩm do những cán
bộ chuyên môn được đào tạo và có kinh nghiệm, do đó bảo đảm tính khách quan,
chính xác và đúng pháp luật.
Việc giải quyết TCLĐ tại TAND theo thủ tục sơ thẩm do những người có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu pháp luật và có kinh nghiệm xét xử thực
hiện. Đây là những người hoàn toàn độc lập với các bên tranh chấp và độc lập với
vụ tranh chấp. Dựa trên các quy định của pháp luật và những thoả thuận của các bên
phù hợp với quy định của pháp luật, những cán bộ tư pháp giúp Toà án cấp sơ thẩm
ra những phán quyết khách quan, chính xác, đúng pháp luật đem lại sự công bằng
cho các bên. Tuy rằng hệ thống nhiều cấp xét xử có những hạn chế nhất định là làm
cho thời gian giải quyết vụ TCLĐ kéo dài nhưng nó là một trong những bảo đảm
lớn nhất cho tính chính xác, đúng pháp luật những phán quyết của Toà án.
Thứ tư, việc giải quyết TCLĐ tại Toà án theo thủ tục sơ thẩm góp phần tuyên
truyền và giải thích pháp luật. Theo đó, Trên cơ sở xét xử công khai, việc giải thích
để đi đến việc áp dụng các quy định pháp luật, xác định trách nhiệm của các bên
tranh chấp có tác dụng giúp các bên hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình,
đồng thời giúp các chủ thể có ý thức hơn trong việc thực hiện pháp luật, từ đó góp
phần hạn chế những TCLĐ xảy ra trong tương lai.
Thứ năm, thông qua việc tiến hành giải quyết TCLĐ bằng thủ tục sơ thẩm sẽ
có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động lập pháp. Bởi vì, thông qua việc tiến hành thủ
tục sơ thẩm đó, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng sẽ tiến hành hàng
loạt các thủ tục nhằm kiểm tra, phân tích đánh giá yêu cầu, chứng cứ, tài liệu, cũng
như phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng để

14



ra bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự. Thông qua hoạt động này, những
người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng sẽ phát hiện ra những bất
cập, hạn chế của các quy định pháp luật nội dung, cũng như pháp luật hình thức để
qua đó tổng kết và có những đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hoặc
ban hành các văn bản pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và khắc phục
những hạn chế về pháp luật.
Ngoài ra, chúng ta thấy một hạn chế khó khắc phục được của hệ thống luật
thành văn là thiếu tính cụ thể mà để có thể giải quyết được hạn chế này, chúng ta
cần nghiên cứu toàn diện và nghiêm túc để có thể đưa vào một nguyên tắc áp dụng
án lệ trong pháp luật về tố tụng. Khi đó, kết quả giải quyết TCLĐ của tòa án ở giai
đoạn sơ thẩm sẽ trở thành một chuẩn mực thứ hai bên cạnh chuẩn mực thứ nhất là
các quy định của pháp luật do Nhà nước ban hành để TA giải quyết các vụ án dân
sự phát sinh trong đời sống xã hội.
Thứ sáu, thông qua thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ giúp cho người dân
nâng cao được ý thức tôn trọng pháp luật, đồng thời xử lý nghiêm khắc những hành
vi vi phạm pháp luật.
Thông qua việc xét xử công khai tại phiên tòa với sự tham gia của người
tham gia tố tụng và những ngươi tham dự phiên tòa đã bảo đảm được một mục đích
khác của việc giải quyết đó là việc phổ biến, tuyên truyền về pháp luật cho người
dân, đồng thời việc xét xử nghiêm minh sẽ răn đe và phòng ngừa được những hành
vi vi phạm pháp luật. Qua đó, HĐXX giải quyết xác định các quyền và nghĩa vụ của
các bên trong bản án sẽ giúp các đương sự nhận thức được quy định của pháp luật,
nhận thức được hành vi sai trái của mình để sửa chữa, khắp phục, đồng thời đương
sự cũng thấy được những sai sót của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có liên
quan nhằm kiến nghị các cơ quan này khắc phục.
Như vậy, thông qua giải quyết TCLĐ bằng thủ tục sơ thẩm tại tòa án, TA
thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng
và Nhà nước ta. Hoạt động tiến hành giải quyết TCLĐ thông qua tòa án sơ thẩm


15


được tiến hành tốt sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, giáo dục pháp luật và thực hiện tốt việc tuyên truyền đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, nếu thủ tục sơ thẩm tiến hành
giải quyết TCLĐ có nhiều vi phạm thì hệ quả làm cho mọi người thiếu tin tưởng
vào hoạt động xét xử của TA dẫn đến tâm lý coi thường sự tôn nghiêm của pháp
luật. Đặc biệt, thông qua việc tiến hành giải quyết tranh chấp theo thủ tục sơ thẩm,
chúng ta có thể đánh giá được trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của TP, HTND,
KSV, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người giám định,
người phiên dịch. Qua quá trình này, những người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng có thể tích lũy thêm kinh nghiệm nghề nghiệp, kỹ năng, trình
độ chuyên môn.
1.2. Cơ sở của việc quy định thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động
1.2.1 Cơ sở lý luận
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là hàng hoá, quan hệ giữa người
lao động và người sử dụng lao động là quan hệ trao đổi sử dụng giá trị sức lao động.
Trong mối quan hệ này, người lao động đem sức lao động của mình làm việc cho
người sử dụng lao động và phải tuân theo sự quản lý, điều hành của người sử dụng
lao động thông qua việc thuê mướn, sử dụng lao động nhằm thu được những giá trị
mới lớn hơn – lợi nhuận. Do vậy, mục tiêu đạt được lợi ích tối đa luôn là động lực
trực tiếp của các bên nên giữa họ khó có thể thống nhất được các quyền và nghĩa vụ
trong quá trình thực hiện quan hệ lao động. Những lợi ích đối lập này giữa người
lao động và người sử dụng lao động sẽ trở thành mâu thuẫn, bất đồng nếu hai bên
không dung hoà được quyền lợi của nhau. Hơn nữa tranh chấp có thể do người sử
dụng lao động chưa thực hiện đúng các quy định của pháp luật lao động, chưa bảo
đảm hài hoà lợi ích giữa doanh nghiệp với người lao động, chưa quan tâm cải thiện
điều kiện làm việc, đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Hoặc các cuộc

ngừng việc, lãn công xảy ra chủ yếu ở doanh nghiệp chưa có tổ chức Công đoàn.
Đối với những nơi đã có tổ chức công đoàn thì vai trò của CĐCS chưa phát huy
được vai trò trách nhiệm là chỗ dựa, đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp chính

16


đáng của người lao động. Hoặc việc đối thoại tại nơi làm việc chưa được các bên
quan tâm thực hiện; thương lượng, thoả thuận chưa được coi là vấn đề trọng tâm để
giải quyết các bất đồng trong quan hệ lao động. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện
tốt cơ chế đối thoại, thương lượng để giải quyết kịp thời các kiến nghị từ phía người
lao động nên dẫn đến tranh chấp lao động. Hoặc hiểu biết và nhận thức về pháp luật
lao động của người lao động còn hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật lao động, nội
quy, kỷ luật lao động chưa cao, tác phong công nghiệp trong lao động còn nhiều
yếu kém. Đời sống của người lao động còn nhiều khó khăn về ăn ở, đi lại, sinh hoạt,
dẫn đến có những ức chế về tâm lý và sẵn sàng ngừng việc nếu chủ sử dụng lao
động không đáp ứng các yêu cầu của họ. Hay công tác thanh, kiểm tra còn hạn chế;
chế tài chưa đủ nghiêm để có tính răn đe khi các doanh nghiệp có vi phạm.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là hàng hoá, quan hệ giữa người
lao động và người sử dụng lao động là quan hệ trao đổi sử dụng giá trị sức lao động.
Trong mối quan hệ này, người lao động đem sức lao động của mình làm việc cho
người sử dụng lao động và phải tuân theo sự quản lý, điều hành của người sử dụng
lao động thông qua việc thuê mướn, sử dụng lao động nhằm thu được những giá trị
mới lớn hơn – lợi nhuận. Do vậy, mục tiêu đạt được lợi ích tối đa luôn là động lực
trực tiếp của các bên nên giữa họ khó có thể thống nhất được các quyền và nghĩa vụ
trong quá trình thực hiện quan hệ lao động. Những lợi ích đối lập này giữa người
lao động và người sử dụng lao động sẽ trở thành mâu thuẫn, bất đồng nếu hai bên
không dung hoà được quyền lợi của nhau. Do vậy, tranh chấp lao động xảy ra là
điều dễ nhận thấy.

Hiện nay, Tranh chấp lao động xảy ra tại khu các doanh nghiệp thuộc khu
vực ngoài quốc doanh, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là chủ yếu và
luôn có chiều hướng tăng. Kết quả khảo sát tình hình tranh chấp lao động của Toà
án nhân dân tối cao và của các ngành liên quan cho thấy tranh chấp lao động xảy ra
trong thực tế là nhiều, nhưng số vụ việc đưa đến Toà án thì còn rất hạn chế. Tình
trạng này không phải vì việc hoà giải tại cơ sở tốt, mà ngược lại, chính thủ tục hoà

17


giải đã hạn chế quyền khởi kiện vụ án của các bên tranh chấp. Bên cạnh đó, nguyên
nhân từ sự hiểu biết pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động của người
lao động còn hạn chế; các tổ chức tư vấn cho người lao động chưa phát huy được
ảnh hưởng. Chính vì vậy mà nhiều vụ việc đưa đến Toà án, Toà án phải trả lại đơn
khởi kiện vì đã hết thời hiệu khởi kiện, hoặc vì chưa qua hoà giải tại cơ sở. Bên
cạnh đó, một số quy định của pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu điều
chỉnh pháp luật đối với quan hệ lao động. Các quy định pháp luật về thủ tục giải
quyết tranh chấp lao động khi áp dụng vào thực tế còn nhiều vướng mắc.
Khi có tranh chấp xảy ra, thiệt hại luôn thuộc về phía người lao động, họ có
thể bị đơn phương chấm dứt hợp đồng, bị trừ lương, bị xử lý kỉ luật… trái quy định
pháp luật lao động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi vật chất, đời sống cá
nhân, gia đình gặp khó khăn. Thông qua việc giải quyết của tòa án đối với các tranh
chấp lao động, người sử dụng lao động buộc phải tuân thủ các bản án, quyết định
của tòa án mang tính cưỡng chế nhà nước.
Tòa án nói chung và cấp sơ thẩm nói riêng là cơ quan tư pháp có chức năng
bảo vệ pháp luật, trong trường hợp pháp luật lao động bị vi phạm thì tòa án nhân
danh nhà nước thực thi chức năng bảo vệ pháp luật của mình. Khi đó họ có nghĩa vụ
phải giải quyết quyền lợi cho người lao động, trong trường hợp xấu hơn có thể sẽ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự nếu không thi hành các bản án, quyết định của tòa án.
Đây là một cơ chế bảo vệ quyền lợi cho người lao động hiệu quả hơn nhiều so với

giải quyết tranh chấp lao động tại cơ sở.
1.3. Các yếu tố bảo đảm cho việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án cấp
sơ thẩm
Thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ là một hoạt động đặc biệt quan trọng do
TA tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại TA cấp sơ thẩm. Việc tiến
hành thủ tục sơ thẩm giải quyết TCLĐ do những người tiến hành tố tụng thực hiện
theo quy định của pháp luật tố tụng với sự tham gia của những người tham gia tố
tụng. Việc tiến hành phiên tòa chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và các yếu
tố chủ quan. Để các thủ tục sơ thẩm có thể tiến hành với hiệu quả tốt chúng ta cần

18


×