Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu từ thực tiễn tại chi cục quản lý thị trường tỉnh bắc nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 85 trang )

NGUYỄN THỊ THÙY NINH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI NHÃN HIỆU TỪ THỰC TIỄN TẠI CHI CỤC
QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH BẮC NINH

NGUYỄN THỊ THÙY NINH

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU TỪ THỰC TIỄN TẠI CHI CỤC
QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH BẮC NINH

NGUYỄN THỊ THÙY NINH


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ MAI THANH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn
thành luận văn đã được ghi trong lời cảm ơn. Các thông tin trích dẫn trong luận văn
đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả

Nguyễn Thị Thùy Ninh


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện luận văn “Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu từ thực tiễn tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh” tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, động viên, giúp đỡ của những cá nhân và tập thể. Tôi
xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đối với Ban giám hiệu nhà trường, Khoa Sau
đại học và các thầy, cô giáo Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp
đỡ tôi hoàn thành chương trình học tập và nghiên cứu.
Có được kết quả này tôi vô cùng biết ơn và bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc đối

với PGS.TS Lê Mai Thanh người đã nhiệt tình hướng dẫn giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Chi cục quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh
là nơi tôi đang công tác đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập và viết luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã
chia sẻ những khó khăn và động viên tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đối với mọi sự giúp đỡ quý báu đó./.

Tác giả

Nguyễn Thị Thùy Ninh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC THI QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BỞI CƠ QUAN QUẢN LÝ
THỊ TRƯỜNG
1.1 Nhãn hiệu và nhu cầu bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu.........................................................................................................................5
1.1.1 Khái niệm nhãn hiệu và đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu.........................................................................................................................5
1.1.2 Nhu cầu bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trước hành vi
xâm phạm.............................................................................................................11
1.2 Khái niệm, các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu và vai trò của cơ quan Quản lý thị trường....................................................13
1.2.1 Khái niệm thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu..............13
1.2.2 Các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu........14

1.2.3 Vai trò của cơ quan Quản lý thị trường trong thực thi quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu......................................................................................17
1.3 Nội dung thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bởi cơ quan
Quản lý thị trường................................................................................................22
1.3.1 Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu.......................................................................................................................23
1.3.2 Xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu.......................................................................................................................24


1.4 Căn cứ thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của cơ quan
Quản lý thị trường................................................................................................26
1.4.1 Pháp luật quốc tế.........................................................................................26
1.4.2 Pháp luật Việt Nam liên quan.....................................................................27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TẠI CHI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
TỈNH BẮC NINH
2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến thực thi quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh..........................................30
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến thực thi quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Bắc Ninh........................................................30
2.1.2 Chính sách của địa phương tác động đến thực thi quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu......................................................................................31
2.2 Thực trạng áp dụng quy định pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh...............................32
2.2.1 Thực trạng xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh.....................................32
2.2.2 Thực trạng xử lý vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại
Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh...........................................................37
2.3 Thực trạng cơ chế thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại

Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh...........................................................46
2.3.1 Hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của Chi cục
Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh........................................................................46
2.3.2 Thực trạng phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong thực thi quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Bắc Ninh................................................52


CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG NÓI CHUNG
VÀ TẠI CHI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH BẮC NINH NÓI
RIÊNG
3.1 Phương hướng nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu của cơ quan Quản lý thị trường nói chung và tại Chi cục Quản lý thị
trường tỉnh Bắc Ninh nói riêng............................................................................57
3.1.1 Bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng..............................................................................................................57
3.1.2 Thực hiện cam kết quốc tế về thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu..............................................................................................................58
3.1.3 Hoàn thiện cơ chế thực thi bằng biện pháp hành chính bên cạnh việc thúc
đẩy các biện pháp thực thi khác...........................................................................59
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu của cơ quan Quản lý thị trường nói chung và tại Chi cục Quản lý thị trường
tỉnh Bắc Ninh nói riêng........................................................................................62
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật....................................................62
3.2.2 Giải pháp về tăng cường năng lực cơ quan Quản lý thị trường và các cơ
quan chức năng khác............................................................................................66
3.2.3 Giải pháp về nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền và năng lực sử dụng cơ chế
thực thi quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu.............................................................69
KẾT LUẬN.........................................................................................................72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................74


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chi cục

Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh

QLTT

Quản lý thị trường

SHCN

Sở hữu công nghiệp

SHTT

Sở hữu trí tuệ

UBND

Ủy ban nhân dân

WIPO

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

WTO


Tổ chức Thương mại thế giới

Hiệp định TRIPs

Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê số liệu về hoạt động thực thi quyền sở hữu công nghiệp tại Chi
cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh.......................................................................43

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 2.1: Trình tự xử lý nhằm thực thi quyền sở hữu công nghiệp tại Chi cục Quản
lý thị trường tỉnh Bắc Ninh.......................................................................................36


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hoạt động xác lập quyền và thực thi quyền đối với các đối tượng của Sở hữu
công nghiệp(SHCN) nói chung, cũng như hoạt động thực thi quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng, đang trở thành một vấn đề cấp thiết và nhận
được rất nhiều sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan, các
cơ quan báo chí, người tiêu dùng, các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng, và đặc biệt là
các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động sản xuất và kinh doanh các sản
phẩm thuộc đối tượng bảo hộ nhãn hiệu.
Hiện nay tình trạng sản xuất hàng hóa giả mạo, đặc biệt là những sản phẩm
vi phạm quy định đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ ngày càng trở nên phổ biến,

thậm chí các hành vi xâm phạm ngày càng tinh vi, khó phát hiện và đánh giá. Trong
quá trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh những nhà sản xuất, những người luôn
quan tâm đến việc đầu tư uy tín cho sản phẩm của họ vẫn còn không ít những người
dựa theo uy tín từ nhãn hiệu đó để kiếm lợi nhuận. Hành động này vi phạm pháp
luật, phải có những biện pháp, cơ chế rõ ràng hơn để chấm dứt hiện tượng này,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu. Mặt khác tạo ra
một môi trường pháp lý lành mạnh cho việc phát triển hoạt động Sở hữu trí tuệ tại
Việt Nam, phù hợp với các cam kết quốc tế Việt Nam là thành viên.
Thực tiễn giải quyết việc xâm phạm đối với nhãn hiệu đã cho thấy còn có
nhiều cách hiểu quy định pháp luật và cách tiến hành khác nhau. Những cơ quan,
đơn vị có chức năng thực thi quyền trong đó có lực lượng quản lý thị trường còn
gặp nhiều khó khăn trong tác nghiệp bởi sự bất cập của pháp luật cũng như sự hạn
chế trong nhận thức.
Lực lượng Quản lý thị trường được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến
các địa phương trong cả nước, có chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường nội địa,
đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại và là một trong
những cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ và chống hàng giả trong thị trường nội
địa. Với chức năng trên trong quá trình hoạt động, lực lượng Quản lý thị trường
ngày càng khẳng định vai trò của mình trong công tác đấu tranh chống hàng giả liên
quan đến sở hữu trí tuệ nhằm góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp
và người tiêu dùng, góp phần phát triển sản xuất và hội nhập kinh tế của Việt Nam.
1


Nhằm phục vụ chuyên môn và từ thực tiễn công tác, học viên lựa chọn đề tài
“Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu từ thực tiễn tại Chi cục
Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay, vấn đề về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, nhãn hiệu nói
riêng đã thu hút được sự quan tâm và được đề cập trong một số công trình khoa học

như đề tài khoa học cấp quốc gia năm 2006 “Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật
về sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam” và “Thực thi
quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế” (NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội, 2010) do PGS.TS Nguyễn Bá Diến làm chủ biên; Ngoài ra có thể kể đến một
số luận văn thạc sĩ về đề tài nghiên cứu nhãn hiệu như: “Cơ sở pháp lý cho việc bảo
hộ nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Hằng (2004), “Bảo hộ nhãn
hiệu trong pháp luật Việt Nam và Liên minh Châu Âu” của tác giả Hồ Vinh Thịnh
(2006), “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Thị Vân (2010), “ Thực thi pháp luật của Hải quan Việt Nam về bảo vệ
quyền Sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu” của tác giả Đỗ
Thị Anh (2014), …
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Chi cục Quản lý thị trường
tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù vậy, tác giả luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả
mà các công trình khoa học, luận án, luận văn, các bài viết đã đạt được cũng như
các kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm luận giải các căn cứ góp phần nâng
cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của cơ quan
Quản lý thị trường.
Để đạt mục tiêu đó, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu và thực thi quyền cũng như các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu, thẩm quyền cơ quan Quản lý thị trường.

2


- Đánh giá thực trạng thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
tại Chi cục quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh.

- Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả công tác thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, ngăn chặn các
hành vi kinh doanh không lành mạnh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh Bắc
Ninh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về thực thi quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và thực trạng thực thi quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu thông qua một trong các lực lượng chức năng là Quản lý thị trường.
Về không gian: Đề tài được nghiên cứu qua thực tiễn thực thi quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh.
Về thời gian: Từ năm 2005 đến nay (Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin. Các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, lôgíc,
thống kê, hệ thống hóa....cũng được sử dụng triệt để nhằm làm rõ các vấn đề liên
quan đến thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Chi cục Quản lý
thị trường tỉnh Bắc Ninh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Về lý luận, luận văn luận giải lý luận thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu thông qua chức năng kiểm soát thị trường của Quản lý thị trường.
Về thực tiễn, luận văn làm rõ thực trạng thực thi quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu; phân tích những thành tựu và các điểm bất cập trong công tác

3



chống hàng giả và xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của Quản lý thị trường tỉnh
Bắc Ninh.
Luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam, nâng cao hiệu quả công tác này của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc
Ninh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu bởi cơ quan Quản lý thị trường
Chương 2. Thực trạng thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của cơ quan Quản lý thị trường nói
chung và tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BỞI CƠ QUAN
QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
1.1 Nhãn hiệu và nhu cầu bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1.1.1 Khái niệm nhãn hiệu và đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu
1.1.1.1 Khái niệm nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã có từ thời cổ đại, thậm chí từ lúc con người còn tự cung tự cấp
những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những người thợ thủ công.

Thời đó có những thương gia sáng tạo đã biết bán hàng hóa ra bên ngoài vùng sinh
sống của họ và thậm chí có khi tới những vùng đất rất xa. Cách đây 3000 năm,
những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng chạm khắc những chữ ký của mình trên
những tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng hóa tới Iran. Các nhà sản xuất Trung
Quốc đã bán hàng hóa mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm
trước và cùng thời gian đó hàng nghàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã được
sử dụng, kể cả nhãn hiệu FORTIS mà sau này đã trở nên nổi tiếng đến nỗi bị sao
chép và làm giả. Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời Trung Cổ mà việc sử dụng các
dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của các thương gia và các nhà sản xuất đã khá phát
triển. Tuy vậy, tầm quan trọng về mặt kinh tế của chúng vẫn còn hạn chế [23].
Các nhãn hiệu bắt đầu đóng một vai trò quan trọng với công cuộc công
nghiệp hóa và từ đó đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thế giới hiện đại của
thương mại quốc tế và nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hóa và sự phát triển của
hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh
đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hóa, dịch vụ cùng chủng
loại. Thường nếu không có sự khác biệt rõ ràng đối với người tiêu dùng, chúng chỉ
thường khác nhau về giá cả và các đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được

5


hướng dẫn, giúp họ suy xét các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn riêng cho
mình trong số hàng hóa, dịch vụ cạnh tranh. Do đó, hàng hóa, dịch vụ phải được đặt
tên. Phương tiện để đặt tên hàng hóa, dịch vụ trên thị trường chính là nhãn hiệu.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất, thương mại mang tính
toàn cầu, nhiều chủng loại hàng hóa, dịch vụ cùng với những chiến lược quảng cáo
tiếp thị của các nhà sản xuất kinh doanh, thì việc sử dụng đúng đắn chức năng của
nhãn hiệu theo đúng pháp luật sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường,
phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực
tế của cuộc sống mọi việc không diễn ra một cách lành mạnh như vậy. Do ham lợi,

muốn đạt được lợi nhuận nhanh chóng và bằng cách rẻ nhất, người ta đã làm giả,
bắt chước hoặc nhái theo các nhãn hiệu được công chúng ưa chuộng, mặc dù các
loại hàng này thường có chất lượng thấp hơn hàng thật, thậm chí hoàn toàn không
có chức năng sử dụng. Tệ nạn đó ngày càng phát triển cả về quy mô và độ tinh vi,
nhất là trong thời đại bùng nổ nền kinh tế hàng hóa như ngày nay. Rõ ràng việc làm
giả bắt chước nhãn hiệu như trên sẽ triệt tiêu sức sản xuất trong xã hội, làm người
sản xuất không muốn đầu tư để phát triển hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu của
mình, còn người tiêu dùng từ chối mua hàng hóa, dịch vụ vì mất niềm tin.
Như vậy, thông qua việc giúp người tiêu dùng có quyết định lựa chọn giữa
những hàng hóa đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu còn khuyến khích
chủ sở hữu duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm bán ra dưới nhãn hiệu đó,
để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng. Do vậy, nhãn hiệu "thưởng công" cho
những người sản xuất hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao một cách ổn định và kết cục
là nhãn hiệu kích thích sự phát triển kinh tế [10].
Khái niệm Nhãn hiệu đã được các chuyên gia, các nhà lập pháp, các nhà
quản lý hay các nhà sản xuất kinh doanh.... đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau
về nhãn hiệu. Để làm rõ khái niệm nhãn hiệu, trong phạm vi nghiên cứu của mình
tác giả xin được giới thiệu các khía cạnh nghiên cứu sau:
a. Khái niệm Nhãn hiệu theo quan niệm của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới

6


Theo định nghĩa của WIPO nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc của một
nhóm các doanh nghiệp đó [27]. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ,
số, hình, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc
sự trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự kết
hợp của nhiều yếu tố nói trên. Nhãn hiệu chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa
được cá nhân hoặc doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng

hoặc nhãn hiệu hiệu đó không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với
một nhãn hiệu khác được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm.
Định nghĩa Nhãn hiệu của WIPO đã xác định các yếu tố và bản chất của
nhãn hiệu. Định nghĩa này chính là sự kế thừa những quy định tại Khoản 1 Điều 15
của Hiêp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(Hiệp định TRIPS): "Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả
năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch
vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt
là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu
sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là
nhãn hiệu. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá
hoặc dịch vụ tương ứng, các Thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng
ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các thành viên có
thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn
thấy được" [22].
Theo quy định của Hiệp định TRIPS/WTO thì nhãn hiệu bao gồm các yếu tố
sau:
- Một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng
hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh
nghiệp khác;

7


- Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các
yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu
đó....;
- Các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu.
Việc xác định một đối tượng nào đó có phải là nhãn hiệu hay không thường
được xem xét dựa trên mục đích sử dụng của nó. Để người tiêu dùng có thể dùng để

phân biệt một sản phẩm, nhãn hiệu phải chỉ ra được nguồn gốc của hàng hóa. Chỉ
khi nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán dưới nhãn
hiệu đó với những hàng hóa của doanh nghiệp khác bán trên thị trường. Điều này
cho thấy không thể tách biệt giữa chức năng phân biệt và chức năng chỉ dẫn nguồn
gốc của nhãn hiệu.
Như vậy, khái niệm nhãn hiệu theo quy định của Hiệp định TRIPS/WTO
thường khái quát và mang tính quy chuẩn cao. Điều này thể hiện nhận thức đúng
đắn của các nhà làm luật về tính phong phú, đa dạng của sự phát triển tư duy con
người trong phát triển kinh tế nói chung và trong việc xây dựng nhãn hiệu nói riêng.
Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đi theo xu hướng chung đó khi
đưa ra khái niệm về nhãn hiệu. Tuy nhiên, mỗi nước có những điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể khác nhau nên cách định nghĩa về nhãn hiệu cũng có những điểm khác nhau.
b. Khái niệm về nhãn hiệu của Việt Nam
Khái niệm nhãn hiệu được quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự Việt Nam
năm 1995 quy định: "Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng
hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu
hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện
bằng một hoặc nhiều màu sắc".
Theo quy định này thì đặc điểm trước tiên của một nhãn hiệu là nhãn hiệu đó
phải có những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các
cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự
kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
8


Khái niệm nhãn hiệu này cũng thể hiện tính mở vì ngay trong ngôn ngữ của
điều luật bao gồm cụm từ "có thể là", tức là ngoài từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp
các yếu tố đó thì nhãn hiệu còn có thể là những yếu tố khác. Tuy nhiên, cách quy
định như vậy chưa thể hiện tính khái quát cao, nhất là trong bối cảnh công việc giải
thích pháp luật ở Việt Nam nhìn chung chưa được thực hiện tốt, Toà án không có

thẩm quyền giải thích pháp luật thì tính mở của khái niệm nhãn hiệu đã bị giới hạn
đáng kể. Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam cho thấy nhãn hiệu được đăng ký
bảo hộ chỉ bao gồm các dấu hiệu truyền thống là hình ảnh, từ ngữ và sự kết hợp
giữa chúng. Các loại dấu hiệu khác dù thoả mãn điều kiện có tính phân biệt các
hàng hóa/dịch vụ cùng loại như âm thanh, mùi, dấu hiệu được nhận biết qua xúc
giác hoặc sự kết hợp giữa các dấu hiệu đó, thậm chí cả màu sắc cũng chưa được
thừa nhận và bảo hộ tại Việt Nam.
Để khắc phục những hạn chế của Điều 785 Bộ luật dân sự năm 1995 thì tại
khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 đã đưa ra khái niệm nhãn hiệu mang tính
khái quát, bao trùm hơn. Theo đó, "Nhãn hiệu là các dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau". Rõ ràng, có thể nói cách
tiếp cận trong việc đưa ra khái niệm nhãn hiệu của pháp luật Việt Nam nhìn chung
đã tiếp thu những kinh nghiệm của các nước. Điều này cho thấy chúng ta đã nhận
thức rõ ràng yêu cầu khách quan của việc tương thích hoá, hài hòa hoá pháp luật
của mình phục vụ cho công cuộc hội nhập với thế giới.
Điểm chung của các cách tiếp cận này là sự thể hiện tính mở của quy định,
theo đó bất kỳ dấu hiệu nào thoả mãn điều kiện phân biệt được hàng hóa/dịch vụ
của một người với hàng hóa/dịch vụ cùng loại của các chủ thể khác đều được coi là
nhãn hiệu. Tính mở của khái niệm cho phép các loại dấu hiệu mới có thể được cấp
bảo hộ. Xu hướng khái quát hoá như vậy hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển
của nhãn hiệu.
1.1.1.2 Khái niệm và đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

9


Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là một trong những quyền dân
sự . Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì : “Quyền sở hữu
công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn

địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh”. Từ đó, có thể hiểu quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu là quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với nhãn hiệu và quyền được
áp dụng các biện pháp hợp pháp để ngăn chặn và xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong xác lập quyềncũng như trong quá trình sử dụng nhãn hiệu.
Trên thế giới, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa có thể
được xác lập trên cơ sở sử dụng nhãn hiêu trên thực tế hoặc trên cơ sở văn bằng bảo
hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp. Tại Việt Nam, quyền sở hữu công
nghiệp phải được xác lập trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu do Cục Sở
hữu trí tuệ cấp.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có các thuộc tính như sau:
- Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa bị giới hạn về thời
gian. Quyền này chỉ có hiệu lực trong thời hạn của văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp.
- Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bị giới hạn về không gian. Cụ
thể, quyền này chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà trên cơ sở các
quy định pháp luật nước đó, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu phát sinh.
Hay nói cách khác, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mang tính lãnh thổ
triệt để. Nghĩa là, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu chỉ được xác lập trên
cơ sở pháp luật của chính quốc gia đã công nhận bảo hộ quyền đó và quyền này
cũng chỉ có hiệu lực trong phạm vi nước công nhận bảo hộ. Chẳng hạn, nhãn hiệu
của các chủ thể nước ngoài muốn được bảo hộ tại Việt Nam thì khi đăng kí phải dựa
vào các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Việt Nam.
Ngược lại, các nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam như Trung Nguyên hay

10


VINATABA muốn được bảo hộ tại các nước khác phải đáp ứng các tiêu chuẩn bảo
hộ của các nước đó.

- Nội dung của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là quyền được
độc quyền sử dụng và cấm người khác sử dụng nhãn hiệu đã được bảo hộ nếu
không được chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép. Và quyền độc quyền này chỉ giới hạn
đối với hành vi sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với hàng hóa,
dịch vụ cùng loại của một chủ thể khác. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu chỉ áp dụng đối với nhóm sản phẩm/dịch vụ mà nhãn hiệu đã đăng kí mà
không mở rộng bảo hộ đối với các sản phẩm/dịch vụ khác. Ngoài ra, vì Giấy chứng
nhận đăng kí nhãn hiệu được quyền gia hạn nhiều lần nên quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu là vô hạn với điều kiện nhãn hiệu vẫn đáp ứng yêu cầu bảo
hộ theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Nhu cầu bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trước hành vi
xâm phạm
Thuật ngữ “bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” được sử dụng phổ biến trong mọi
hoạt động của lĩnh vực sở hữu trí tuệ, từ hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động
của cơ quan quản lý nhà nước về xác lập quyền sở hữu trí tuệ đến các hoạt động
thực thi quyền SHTT. Tuy nhiên, tại Phần thứ năm của Luật SHTT còn quy định về
“bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ”.
Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo vệ” là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho
luôn luôn được nguyên vẹn”[33]. Trong Luật SHTT, các quy định về bảo vệ quyền
SHTT bao gồm các nội dung như: quy định chung về bảo vệ quyền SHTT; xử lý
xâm phạm quyền SHTT bằng các biện pháp dân sự; xử lý xâm phạm quyền SHTT
bằng các biện pháp hành chính và hình sự; kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu liên quan đến SHTT. Từ các nội dung trên, có thể hiểu bảo vệ quyền SHTT
nói chung và bảo vệ quyền SHCN nói riêng là việc các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, thông qua hệ thống các cơ quan thực thi và căn cứ trên pháp luật, bảo vệ các

11


quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền SHCN nhằm chống lại sự

xâm phạm bất hợp pháp.
Tóm lại, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là bằng những quy
định của pháp luật, Nhà nước xác định những hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp và quy định các biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó, nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác trong
hoạt động sở hữu công nghiệp.
Mục tiêu cuối cùng của hệ thống bảo vệ quyền SHCN chính là chống lại
nguy cơ bị lợi dụng hoặc chiếm đoạt kết quả đầu tư sáng tạo và bảo vệ các cơ hội
cho người đã đầu tư để tạo ra các kết quả sáng tạo đó, nhờ vậy mà kích thích, thúc
đẩy các nỗ lực trong sản xuất, kinh doanh. Hiển nhiên, mục tiêu nói trên sẽ không
đạt được nếu không khắc phục được tệ nạn xâm phạm quyền SHCN. Hệ thống bảo
vệ quyền SHCN chính là đảm bảo ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm
phạm quyền SHCN. Vì vậy, bảo vệ quyền SHCN chính là bảo đảm hiệu lực quyền
SHCN của chủ thể quyền, khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo, phát triển sản
xuất, kinh doanh trong nước.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc quyền SHCN không được bảo vệ và
thực thi thoả đáng, hiệu quả thì sẽ bị coi là thực tiễn thương mại thiếu lành mạnh và
là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Vì, khi các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường đó không cần đầu tư cho uy tín sản phẩm, tăng giá trị nhãn hiệu mà chỉ nhằm
lạm dụng uy tín của chủ thể khác băng cách sử dụng dụng nhãn hiệu gây nhầm lẫn.
Kết quả là các nhà sản xuất chân chính bị thiệt hại và người tiêu dùng bị nhầm lẫn.
Hiện nay, nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, đã coi việc bảo vệ các tài sản
trí tuệ của họ như là điều kiện không thể thiếu được trong việc thiết lập các quan hệ
thương mại (ví dụ như Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ). Tại Điều 7 của Hiệp định
TRIPs quy định rằng, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc
đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng
tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và bảo

12



đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Do đó, nếu hệ thống thực thi quyền sở
hữu công nghiệp không hiệu quả thì sẽ làm tổn hại đến chính sách hội nhập quốc tế
và đầu tư nước ngoài của quốc gia cho sự phát triển của mình.
Hiểu rõ vai trò của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong phát triển
kinh tế - xã hội, Việt Nam đang chú trọng tạo dựng một hệ thống thực thi có hiệu
quả trong hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công
nghiệp nói riêng để đạt được sự phát triển kinh tế đất nước nhanh chóng trong xu
thế hội nhập với chính sách phát huy nội lực và tranh thủ sự đầu tư nước ngoài.
1.2 Khái niệm, các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu và vai trò của cơ quan Quản lý thị trường
1.2.1 Khái niệm thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Thực thi theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt là “Thi hành, thực thi nhiệm
vụ”, theo định nghĩa này, thực thi một mặt là việc Nhà nước, các cơ quan, tổ chức,
cá nhân, nhân danh quyền lực Nhà nước để thi hành một nhiệm vụ, làm một công
việc theo yêu cầu, theo chỉ định, theo nhiệm vụ đã được đề ra để nhằm đảm bảo
việc thi hành quyền SHCN [33]. Mặt khác thực thi là việc các chủ thể quyền SHCN
cũng là đối tượng tham gia tích cực vào việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, pháp luật trao cho họ các quyền năng, đặt gánh năng về tự bảo vệ lên vai
họ, do vậy Chủ sở hữu quyền có thể yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
bảo vệ tài sản trí tuệ của mình. Các cá nhân, tổ chức, hiệp hội, toàn thể xã hội cũng
tham gia tích cực vào việc góp phần thực thi quyền SHCN, bởi vai trò của những cá
nhân, tổ chức này là tôn trọng pháp luật, tôn trọng và không xâm phạm tới quyền
của những chủ thể khác đã được bảo hộ theo quy định của pháp luật, đó cũng chính
là việc các chủ thể này đang góp sức mình vào việc đảm bảo thực thi quyền SHCN.
Trong phạm vi nghiên cứu mặc dù chưa thể hoàn chỉnh và đưa ra một khái
niệm chính xác tuyệt đối về thực thi quyền SHCN, tuy nhiên tác giả sẽ cố gắng khái
quát để đưa ra cách hiểu, khái niệm của mình về thực thi quyền SHCN ở Việt Nam
hiện nay như sau: Thực thi quyền SHCN là việc các chủ thể sử dụng các biện pháp
13



cần thiết theo quy định của pháp luật, để nhằm ngăn cản, chống lại và xử lý hành vi
xâm phạm quyền SHCN.
Quyền SHCN đối với nhãn hiệu với tính cách là một đối tượng của quyền
SHCN của Việt Nam, do vậy đối tượng quyền này mang đầy đủ những đặc điểm,
thuộc tính của quyền SHCN. Như vậy, với định nghĩa chung về thực thi quyền
SHCN nêu trên, chúng ta có thể hiểu thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu tại
Việt Nam hiện nay là việc các chủ thể quyền nhãn hiệu, các cơ quan chức năng có
liên quan sử dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để nhằm ngăn
cản, chống lại và xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN, yêu cầu bồi thường thiệt
hại từ một hoặc một số chủ thể xâm phạm quyền khác. Mặc dù quyền SHCN đối
với nhãn hiệu là quyền tư của các thương nhân tham gia thị trường nhưng cần Nhà
nước thực thi bởi quyền đó dễ bị xâm hại, gây tác động đến sự lành mạnh của thị
trường và quyền lợi của người tiêu dùng. Các chủ thể quyền không thể tự mình bảo
vệ quyền hiệu quả nếu thiếu sự hỗ trợ từ Nhà nước.
1.2.2 Các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Thực thi quyền SHCN là việc sử dụng các biện pháp cần thiết theo quy định
của pháp luật, và được tiến hành bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các chủ
sở hữu quyền, các tổ chức, cá nhân khác sử dụng để nhằm ngăn cản, chống lại và xử
lý hành vi xâm phạm quyền SHCN từ một hoặc một số chủ thể khác. Do vậy khi
hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu xảy ra, các biện pháp sau đây sẽ được
sử dụng để bảo vệ quyền cho chủ sở hữu, bao gồm:
(i) Biện pháp hành chính
Biện pháp này được thực hiện bởi các cơ quan hành chính trong đó có cơ
quan QLTT.
Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị áp dụng xử phạt hành chính là
các hành vi sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ mà không được phép của chủ sở
hữu hay người nắm giữ quyền và chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì
đều áp dụng xử phạt hành chính.Trong trường hợp một hành vi xâm phạm thuộc

14


thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau thì chỉ một cơ quan trong số những cơ
quan đó ra quyết định xử phạt. Nếu một người thực hiện nhiều hành vi xâm phạm
thì người đó bị xử lý đối với từng hành vi xâm phạm. Mục tiêu của xử phạt hành
chính là ngăn chặn, ngăn ngừa việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, vì vậy việc tái
phạm không những bị coi là một tình tiết tăng nặng khi xử phạt hành chính mà còn
bị coi là yếu tố dẫn đến việc bị xử lý hình sự [19, tr.30].
Các hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu bị xử lý hành chính
hiện nay quy định trong Nghị định 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp và Thông tư số
11/2015/TT-BKHCN ngày 26/6/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013, Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012.
Biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ là
một trong những biện pháp hành chính phổ biến; vì vậy, biện pháp này được ghi
nhận riêng biệt bên cạnh biện pháp hành chính nói chung trong Hiệp định WTO về
các khía cạnh thương mại của quyền SHTT (Hiệp định TRIPs).
Khi có yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, hải quan có thể thực hiện
tạm dừng làm thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa bị nghi
ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ [19, tr.41].
(ii) Biện pháp dân sự
Bản chất các biện pháp dân sự được áp dụng là nhằm mục đích ngăn chặn
những thiệt hại và đòi bồi thường cho chủ thể quyền những thiệt hại về vật chất do
hành vi xâm phạm gây ra. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền dân sự, vì vậy trong các
biện pháp xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thì chủ thể quyền nên quan tâm
trước tiên đến biện pháp dân sự. Bởi vì, chỉ có biện pháp dân sự mới có cơ chế bồi
thường thiệt hại. Trong khi đó, biện pháp hành chính và hình sự thế hiện tính răn đe
và trừng phạt của pháp luật là chủ yếu, kể cả trong những trường hợp hai biện pháp

này có áp dụng hình thức phạt tiền, thì số tiền đó cũng là để thu về cho Nhà nước
15


chứ chủ thể quyền không được bồi hoàn từ số tiền phạt đó. Luật sở hữu trí tuệ được
xây dựng theo hướng khuyến khích và ưu tiên áp dụng biện pháp dân sự, tiếp sau đó
mới áp dụng biện pháp hành chính và khi có yếu tố cấu thành tội phạm mới áp dụng
biện pháp trừng phạt theo pháp luật hình sự, đó cũng là xu hướng chung của thế giới
trong việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổ chức cá nhân muốn được bồi thường thiệt hại thì phải có yêu cầu với tòa
án về mức bồi thường .Việc xác định thiệt hại là rất quan trọng trong các vụ án dân
sự liên quan đến sở hữu trí tuệ. Tất nhiên, việc xác định thiệt hại phải dựa trên các
căn cứ của pháp luật chứ không thể được suy diễn. Căn cứ này xác định theo Luật
sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn liên quan, Bộ luật dân sự và giải quyết theo
thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự [19, tr.25].
(iii) Biện pháp hình sự
Trong trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây tác hại nghiêm trọng
cho xã hội thì việc áp dụng chế tài hành chính không đủ để trừng phạt và răn đe
người xâm phạm, do đó phải áp dụng chế tài mạnh hơn, đó là chế tài hình sự. Áp
dụng chế tài hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khi các
hành vi đó đã bị xử lý hành chính mà vẫn tiếp tục vi phạm hoặc hành vi gây hậu quả
nghiêm trọng cấu thành tội phạm. Ngoài chế tài phạt chính còn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm kinh doanh sản phẩm xâm phạm
trong một thời gian nhất định. Trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam (Bộ luật
hình sự năm 2015 được sửa đổi năm 2017, các tội danh sau đây liên quan đến sở
hữu công nghiệp sẽ bị trừng phạt: Tội làm hàng giả và buôn bán hàng giả- Điều
192, 193 194 và 195 (Được sửa đổi bổ sung tại Khoản 42, 43, 44 và 45 Điều 1 Luật
sửa đổi Bộ luật hình sự năm 2017); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp- Điều
226 ( Được sửa đổi bổ sung tại Khoản 53 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật hình sự năm
2017). Tùy theo mức độ nghiêm trọng của việc phạm tội, mức phạt có thể được áp

dụng là phạt tiền đến 500 triệu đồng, phạt tù đến chung thân hoặc tử hình [19,
tr.40].

16


×