Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT
PHI NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

NGUYỄN ĐỨC NHÙNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ VĂN CƯƠNG

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. VŨ VĂN CƯƠNG


NGUYỄN ĐỨC NHÙNG


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được thực hiện tại Viện đại học Mở Hà Nội. Để hoàn
thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, động viên,
giúp đỡ của các thầy cô giáo trong trường.
Trường hết, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS. Vũ Văn Cương đã
hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu Luận văn của mình.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo đã đem lại cho
tôi những kiến thức bổ trợ vô cùng có ích trong thời gian học vừa qua.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo Sau đại
học Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn ở bên tôi, động
viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đức Nhùng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DN

Doanh nghiệp

MST

Mã số thuế


NNT

Người nộp thuế

NSNN

Ngân sách Nhà nước

SDĐ

Sử dụng đất

SDĐPNN

Sử dụng đất phi nông nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THUẾ SỬ DỤNG
ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP............................................................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ...................... 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp .................... 7
1.1.2. Vai trò của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ........................................... 12
1.2. Khái quát về pháp luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ................................... 13
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ........................ 13
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp .................... 14
1.2.3 Các yếu tố chi phối nội dung điều chỉnh của pháp luật thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp ....................................................................................................... 15
1.2.4. Kinh nghiệm của các nước trong đánh thuế nhà đất và những bài học cần
tham khảo cho Việt Nam. ................................................................................... 20
1.2.4.1. Kinh nghiệm của Trung quốc ................................................................. 20
1.2.4.2.Kinh nghiệm của Philippines .................................................................. 22
1.2.4.3.Kinh nghiệm của Đài loan ...................................................................... 22
1.2.4.4. Kinh nghiệm của Indonesia ................................................................... 24
1.2.4.5.Kinh nghiệm của Thái lan....................................................................... 25
1.2.4.6.Kinh nghiệm của Nhật Bản ..................................................................... 25
1.2.4.7. Kinh nghiệm của Hàn quốc.................................................................... 26
1.2.4.8.Kinh nghiệm của Anh ............................................................................. 27
1.2.4.9. Kinh nghiệm của Cộng hòa Séc ............................................................. 27
1.2.4.10. Kinh nghiệm của Hy Lạp ..................................................................... 29
Kết luận chương 1……………………………………………………………….30
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY31
2.1.Thực trạng pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay ..................................................................................................31



2.1.1. Những nội dung chủ yếu của pháp luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
hiện hành ở Việt Nam. ........................................................................................ 31
2.1.2. Những ưu điểm của pháp luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.............................................................................................................. 45
2.1.3. Những nhược điểm của pháp luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ở Việt
Nam hiện nay. .................................................................................................... 47
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ở Việt
Nam ........................................................................................................51
2.2.1. Những kết quả đã đạt được ....................................................................... 51
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân................................................... 52
Kết luận chương 2……………………………………………………………..63
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM .............64
3.1. Những định hướng cơ bản trong hoàn thiện pháp luật thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp ở Việt Nam .................................................................................... 64
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ở
Việt Nam............................................................................................................ 65
3.3. Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp ở Việt Nam .............................................................................. 68
Kết luận chương 3…………………………………………………………..……70
KẾT LUẬN....................................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................73


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN và thuế là một trong những công cụ
rất quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chính sách thuế của Nhà nước
luôn có quan hệ chặt chẽ đến việc giải quyết lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong

xã hội, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề vĩ mô như: tiết kiệm, đầu tư,
tăng trưởng kinh tế. Việc hoàn thiện chính sách thuế sao cho phù hợp với hoàn cảnh
kinh tế -xã hội là sự quan tâm hàng đầu của Nhà nước. Cùng với sự phát triển của
đất nước, hệ thống thuế Việt Nam ngày càng đổi mới hoàn thiện, phù hợp với nền
kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới. Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
(SDĐPNN) được Quốc hội khóa 12 thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 17 tháng 6 năm
2010, thay thế Pháp lệnh thuế nhà đất và được áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm
2012. Đây là một trong những chính sách thuế quan trọng góp phần đảm bảo tăng
nguồn thu cho NSNN đặc biệt là ngân sách xã, phường. Thực hiện Luật thuế
SDĐPNN nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với việc SDĐPNN, khuyến khích
tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả, góp phần hạn chế đầu cơ đất và
phát triển thị trường bất động sản; đồng thời động viên hợp lý sự đóng góp của
người sử dụng đất, nhất là những đối tượng sử dụng đất vượt hạn mức quy định vào
NSNN. Luật thuế SDĐPNN là luật thuế mới, có số đối tượng nộp thuế rộng, liên
quan hầu hết đến các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Triển khai thực hiện Luật
thuế SDĐPNN có tác động rất lớn đến đời sống xã hội, vì vậy đòi hỏi phải có sự
phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý đối tượng
nộp thuế, đối tượng chịu thuế, chính sách miễn giảm thuế, quản lý thu nộp, quyết
toán thuế. Tăng cường quản lý thuế SDĐPNN sẽ tạo điều kiện tăng thu ngân sách,
đồng thời quản lý tốt diện tích đất phi nông nghiệp trên địa bàn, đảm bảo công bằng
giữa các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất.
Cho đến nay, sau hơn 6 năm thực hiện Luật Thuế SDĐPNN bước đầu đã đạt
được những kết quả đáng ghi nhận. Ngành thuế và các cấp chính quyền địa phương
đã làm tốt công tác triển khai thực hiện có hiệu quả Luật thuế SDĐPNN. Với phạm
1


vi triển khai rộng (gần 700 quận huyện), khối lượng dữ liệu phải xử lý rất lớn, số
lượng người nộp thuế (NNT) đến hơn 17 triệu người và số lượng thửa đất phải quản
lý lên đến gần 18 triệu thửa, tương ứng với tổng diện tích hơn hơn 46,2 tỷ m2 do cá

nhân sở hữu và gần 80.000 thửa đất ứng với hơn 1,2 tỷ m2 đất do tổ chức kinh tế sử
dụng, ứng dụng công nghệ thông tin đã góp phần không nhỏ cho việc triển khai luật
thuế đúng thời hạn. Ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ giúp quản lý được
thông tin kê khai về các thửa đất, số thuế phải nộp, đã nộp mà còn hoàn thành khối
lượng công việc lớn là cấp mã số thuế (MST) cho NNT sử dụng đất phi nông
nghiệp (14,1 triệu MST cấp mới và 2,3 triệu MST xác nhận), hỗ trợ cho công tác
kiểm soát kê khai tổng hợp[10,Tr.2].
Bên cạnh những kết quả đạt được trên, thực tiễn triển khai thực hiện thuế
SDĐPNN cũng đã gặp phải một số vướng mắc, chẳng hạn: Trường hợp đất chưa
được cấp Giấy chứng nhận không áp dụng hạn mức tính thuế là không công bằng
giữa những người sử dụng đất, gây thắc mắc cho người dân. Hơn nữa, trường hợp
này nếu xét miễn giảm thì cũng được xét cho toàn bộ diện tích chứ không xét theo
đất trong hạn mức như đối với NNT sử dụng đất đã có Giấy chứng nhận thì càng
bất hợp lý, cần phải có sửa đổi; Trường hợp quy định hạn mức sử dụng đất ở được
UBND cấp tỉnh điều chỉnh thì phải kê khai lại hồ sơ khai thuế của năm điều chỉnh là
không phù hợp. Vì đó là do chính sách thay đổi chứ không phải do NNT kê khai
sai; Người thuê đất đã nộp tiền sử dụng đất thuê lại phải nộp thuế SDĐPNN (thu
trùng 2 khoản nộp vào NSNN) về sử dụng đất, điều này gây phản ứng và thắc mắc
của NNT; Trong trường hợp NNT có nhiều thửa đất phải kê khai tổng hợp thì cách
tính thuế quá phức tạp. NNT chưa nộp tờ khai tổng hợp mặc dù đã tuyền truyền,
hướng dẫn nhiều và cơ quan thuế chưa kết nối được dữ liệu về nhà đất của NNT.
Việc tập huấn, hướng dẫn để NTT thực hiện kê khai, nộp tờ khai tổng hợp tốn rất
nhiều thời gian, công sức giải thích, hướng dẫn NNT và Uỷ nhiệm thu nhưng thực
tế đạt được chưa cao, số thuế dự kiến thu thêm phát sinh không nhiều; Tại thời điểm
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND tỉnh tạm cấp chưa quy định hạn
mức, đến khi đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đồng loạt thì có quy định hạn
mức. Do đó, khi tính thuế SDĐPNN theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới
2



có hạn mức đất ở thì người dân khiếu nại; Có trường hợp cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lần đầu là hạn mức công nhận. Nhưng sau một thời gian, xin tách
thửa thì địa phương lại có hạn mức gây nên cơ sở bất hợp lý; Luật Thuế SDĐPNN
chưa hướng dẫn chi tiết việc miễn, giảm thuế đối tượng chính sách là con liệt sỹ
không được hưởng trợ cấp; Việc xác định hoàn cảnh khó khăn cho người bị nhiễm
chất độc màu da cam cũng gặp vướng mắc…
Qua 6 năm thực hiện Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp mặc dù đã đạt
được những kết quả nhất định, tuy nhiên Luật cũng đã nảy sinh một số vướng mắc
trong thực tiễn triển khai. Để khắc phục những vấn đề còn tồn tại, cần có đánh giá
kết quả đạt được, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, từ đó đưa ra những kiến nghị, đề
xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế SDĐPNN cho phù hợp với thực tiễn hiện
nay ở nước ta là cần thiết, cấp bách. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Pháp luật về thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học chuyên ngành Luật kinh tế. Việc nghiên cứu đề tài này trong giai đoạn hiện
nay là có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn cao.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay có rất ít các công trình khoa học pháp lý nghiên cứu riêng về pháp
luật thuế SDĐPNN. Qua khảo cứu chỉ thấy một số luận văn thạc sỹ kinh tế nghiên
cứu về thuế SDĐPNN, chẳng hạn: Luận văn Thạc sĩ kinh tế: “Giải pháp nâng cao
số thu thuế từ thuế sử dụng đất phi nông nghiệp của Việt Nam” của Trần Thị Thanh
Hảo, Trường Đại học Kinh tế TP HCM năm 2011; Luận văn Thạc sĩ kinh tế (2013):
“Một số giải pháp để nâng cao công tác quản lý thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
trên địa bàn thành phố Nam Định” của Hoàng Thu Hiền, Khoa Quản trị kinh doanh
– Đại học Bách khoa Hà Nội; Luận văn Thạc sĩ Khoa học (2016): “Đánh giá thực
trạng thuế sử dụng đất phi nông nghiệp tại một số quận, huyện trên địa bàn thành
phố Hà Nội” của Giang Thị Hồng Hạnh, Chuyên ngành Quản lý đất đai – Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong tạp chí khoa học
pháp lý có bài viết: “Thực tiễn áp dụng luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm
2010 và một số kiến nghị” của Nguyễn Thị Thanh Tú, Trần Thị Thu Hà, Tạp chí
Luật học, số đặc biệt tháng thanh niên/2016, (tr.73 – 80). Bài viết tập trung nghiên


3


cứu các vấn đề nổi cộm trong thực tiễn áp dụng như: hạn chế trong quy định về
người nộp thuế, căn cứ tính thuế, trong quá trình kê khai diện tích đất tính thuế hay
trong giải quyết miễn, giảm thuế từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả áp dụng….
Nhìn lại các công trình nghiên cứu luật học về pháp luật thuế SDĐPNN thời
gian qua có thể khẳng định, cho đến nay ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên
cứu luật học nào ở cấp độ luận văn thạc sỹ nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật thuế
SDĐPNN. Bởi vậy, có nhiều vấn đề lý luận về pháp luật thuế SDĐPNN còn bỏ ngỏ.
Việc đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật thuế SDĐPNN chưa
đầy đủ, toàn diện và có tính hệ thống. Với cách nhìn nhận, đánh giá nêu trên, chúng
tôi cho rằng: Công trình nghiên cứu khoa học pháp lý ở cấp độ luận văn thạc sĩ Luật
kinh tế về “Pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay”
sẽ là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Xây dựng cơ sở lý luận về thuế và pháp luật thuế SDĐPNN làm cơ sở để
đánh giá thực trạng pháp luật thuế SDĐPNN ở Việt Nam, từ đó đưa ra được những
giải pháp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thuế
SDĐPNN nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thuế SDĐPNN và pháp luật về thuế
SDĐPNN như: Khái niệm, vai trò, mục tiêu của thuế SDĐPNN; Khái niệm, cấu trúc
của pháp luật về thuế SDĐPNN và các yếu tố tác động tới nội dung điều chỉnh của
pháp luật thuế SDĐPNN.
- Đánh giá khách quan, toàn diện thực trạng các quy định của pháp luật về
thuế SDĐPNN ở Việt Nam theo cấu trúc pháp luật đã xác định, trong đó có so sánh

với kinh nghiệm pháp luật về thuế SDĐPNN ở một số nước trên thế giới để rút ra
bài học cho Việt Nam.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật thuế SDĐPNN ở Việt Nam

4


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu bao gồm:
- Hệ thống quy định pháp luật về thuế SDĐPNN, bao gồm: Luật thuế
SDĐPNN, các văn bản hướng dẫn thi hành; Và các văn bản pháp luật có liên quan
khác như: Luật đất đai; Bộ luật Dân sự, Luật doanh nghiệp…
- Các quan điểm khoa học đã được các tác giả công bố trong các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là hệ thống các quy định pháp luật về thuế SDĐPNN
ở Việt Nam kể từ khi có Luật thuế SDĐPNN năm 2010 có hiệu lực thi hành cho đến
nay, trong đó tác giả tập trung chủ yếu vào các quy định pháp luật hiện hành. Các
quy định pháp luật trước đó tuy không thuộc phạm vi nghiên cứu nhưng sẽ được đề
cập để so sánh, đánh giá với quy định hiện hành.
- Tập trung nghiên cứu theo hệ thống các nhóm quy định pháp luật điều
chỉnh nội dụng chính sách thuế SDĐPNN và các nhóm quy định pháp luật về quản
lý thuế SDĐPNN.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng phương pháp luận biện chứng duy vật
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Để thực hiện luận văn này,
chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phương pháp tiếp
cận lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê để giải quyết nội
dung khoa học của đề tài.

Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng nhiều trong chương 1 để làm rõ
những khái niệm, phạm trù mà luận văn sử dụng từ đó rút ra những kết luận khoa học
làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế
SDĐPNN và xác định định hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về thuế
SDĐPNN ở Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận lịch sử, phân tích, so sánh, phương pháp thống kê
được sử dụng trong chương 2 để luận giải cho nhận định, đánh giá về thực trạng
pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về thuế SDĐPNN ở Việt Nam hiện nay.
5


Phương pháp tổng hợp được sử dụng cuối mỗi chương và một số mục
chương 2 và 3 của luận văn để rút ra những kết luận và định ra được các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về thuế SDĐPNN ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Đây là một công trình nghiên cứu có tính hệ thống về pháp luật thuế
SDĐPNN ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và
phát triển những vấn đề lý luận về pháp luật về thuế SDĐPNN ở Việt Nam, làm rõ
cơ sở khoa học để nghiên cứu hoàn thiện trong một chỉnh thể thống nhất từng bộ
phận pháp luật thuế, thuế SDĐPNN và cả hệ thống pháp luật thuế.
Luận văn là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp
lý phục vụ việc hoạch định chính sách; phục vụ quản lý hoạt động thực tiễn của
chính quyền địa phương, trong các cơ quan thuế và các đối tượng thực hiện nghĩa
vụ thuế SDĐPNN ở Việt Nam.
Các kết luận, các ý kiến được trình bày trong luận văn có thể giúp ích cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong xây dựng chính sách, xây dựng pháp
luật thuế và trong tổ chức thực hiện pháp luật thuế SDĐPNN.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp ở Việt Nam.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT
THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Đất đai có vai trò rất quan trọng đối với sản xuất và đời sống con người. Đất
đai là tài sản vô cùng quý giá, là tài nguyên lớn nhất của mọi quốc gia, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là cơ sở hàng đầu của môi trường sống, là nơi phân bổ dân cư, xây
dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh của mọi quốc gia. Trong
kinh tế thị trường, đất đai là hàng hoá đặc biệt, trở thành yếu tố cơ bản không thể
thiếu trong quá trình sản xuất và đời sống. Đặc biệt, đất đai còn mang giá trị lịch sử
- xã hội; khó có thể lấy thước đo nào để xác định được đầy đủ giá trị của đất đai [7,
Tr.13].
Trước khi trở thành hàng hoá đặc biệt thì đất đai đã là tài nguyên đặc biệt,
trước hết bởi đất đai có nguồn gốc tự nhiên, là tặng vật tự nhiên dành cho con
người; tiếp đến mới là thành quả do tác động cải tạo, khai phá của con người. Tính
chất đặc biệt của đất đai thể hiện ở tính chất tự nhiên và tính chất kinh tế xã hội đan
quyện vào nhau; nếu không có nguồn gốc tự nhiên, thì con người dù có tài giỏi đến
đâu cũng không tự mình tạo ra đất đai được. Con người có thể làm ra nhà máy, lâu
đài, công thức và sản xuất, chế tạo ra muôn nghìn thứ hàng hoá, sản phẩm, nhưng

không ai có thể sáng tạo ra đất đai. Do đó, khi thực hiện quyền sở hữu, định đoạt, sử
dụng đất đai, dù Nhà nước hay người dân cũng cần phải hiểu đặc điểm, đặc thù hết
sức đặc biệt ấy.
Đất đai là cơ sở hàng đầu, đóng vai trò quan trọng trong môi trường sống của
xã hội loài người. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các vật phẩm
phục vụ cho cuộc sống con người rất đa dạng và phong phú song nhu cầu về các sản
phẩm được tạo ra từ đất vẫn không hề giảm mà không ngừng tăng lên như nhu cầu
về sản phẩm nông, lâm nghiệp... Đồng thời, cùng sự tăng lên của dân số, nhu cầu về
7


chỗ ở ngày càng tăng lên nhanh chóng thì đất đai lại càng trở nên quan trọng trong
đời sống con người.
Đất đai là cơ sở để xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, cơ sở
sản xuất kinh doanh, đảm bảo chính trị, an ninh, quốc phòng quốc gia. Kinh tế, xã
hội phát triển đặt ra yêu cầu quản lý ngày càng cao, công sở ngày càng được mở
rộng. Đồng thời, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ theo hướng từ nông
nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, thương mại, từ quốc gia này chuyển dịch sang
quốc gia khác một cách nhanh chóng với kết cấu hạ tầng ngày càng mở rộng. Tất cả
các yêu cầu này đều không thực hiện được nếu không có đất. Đất đai là nền móng
để xây dựng công sở, đường xá, cầu cống, sân bay, bến cảng, nhà máy, xí nghiệp,
các khu du lịch, trung tâm thương mại, các bệnh viện, trường học, công viên, trung
tâm văn hóa, thể dục thể thao... để phát triển kinh tế và phục vụ đời sống của con
người. Đất đai là yếu tố không thể thiếu trong việc bố trí các cơ sở an ninh, quốc
phòng để bảo vệ tổ quốc.
Chính vì đất đai có vai trò vô cùng quan trọng nên đất đai tại Việt Nam là tài
sản quốc gia (sở hữu toàn dân) và vấn đề quản lý đất đai trở thành một nhiệm vụ
không thể tách rời khỏi hoạt động quản lý Nhà nước [7, Tr.14].
Ở mỗi quốc gia, đất đai có thể thuộc quyền sở hữu nhà nước hoặc quyền sử
hữu tư nhân. Tuy nhiên bất kể thừa nhận hình thức sở hữu nào về đất đai, để bảo

đảm quản lý khai thác sử dụng đất đai có hiệu quả, các quốc gia thường sử dụng
nhiều công cụ và biện pháp quản lý khác nhau, trong đó có việc đánh thuế hoạt
động sử dụng đất và hoạt động chuyển nhượng đất đai. Trong hệ thống thuế của
mỗi quốc gia thường có một hoặc một số sắc thuế có liên quan đến việc sở hữu, sử
dụng đất và việc chuyển nhượng đất. Những sắc thuế này có thể có tên gọi và cơ sở
đánh thuế khác nhau [17, Tr.301].
- Thuế đánh vào đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp (Thuế sử
dụng đất nông nghiệp; Thuế ruộng vườn...);
- Thuế đánh vào đất sử dụng vào mục đích để ở hoặc để kinh doanh (Thuế
SDĐPNN hoặc Thuế nhà đất hoặc Thuế tài sản hoặc Thuế bất động sản...);

8


- Thuế đánh vào hành vi mua bán, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho đất đai
(Thuế chuyển quyền sử dụng đất hoặc Thuế thu nhập từ chuyển nhượng, tặng, cho
thừa kế bất động sản...).
Ở Việt Nam cho đến năm 2008 vẫn còn áp dụng ba sắc thuế có liên quan đến
đất đai là: Thuế SDĐPNN; Thuế nhà, đất và Thuế chuyển quyền sử dụng đất. Hiện
nay các sắc thuế này đã có thay đổi, Thuế nhà, đất được thay bằng thuế SDĐPNN;
Thuế chuyển quyền sử dụng đất được bãi bỏ chuyển sang đánh thuế thu nhập từ
chuyển nhượng bất động sản trong thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu cá nhân.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp vẫn giữ nguyên.
Theo các quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam thì thuế SDĐPNN
được hiểu như sau:
“Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là loại thuế trực thu, thu hàng năm đối
với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất hoặc trực tiếp sử dụng
đất phi nông nghiệp vào mục đích để ở hoặc để kinh doanh, nhằm góp phần tăng
cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với sử dụng đất phi nông nghiệp; khuyến
khích các tổ chức, cá nhân sử dụng đất đai tiết kiệm, hiệu quả, góp phần hạn chế

đầu cơ đất, bảo đảm công bằng giữa các đối tượng sử dụng đất. Đồng thời, góp
phần tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương”.
* Đặc điểm của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Thứ nhất, Thuế SDĐPNN là các sắc thuế tài sản và có tính trực thu, đánh vào
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản (đất đai). Mục đích của việc thu các khoản
thu từ đất chính là điều tiết một phần thu nhập của các đối tượng có quyền sử dụng
đất vào NSNN. Vì vậy, người có quyền sử dụng đất là người nộp thuế sử dụng đất
và cũng chính là người chịu khoản thuế này. Người nộp thuế sử dụng đất khó có
khả năng và cơ hội chuyển dịch gánh nặng thuế cho người khác.
Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập của từng tổ
chức, cá nhân có thu nhập. Hơn thế nữa, thuế trực thu còn cho phép xem xét đến các
yếu tố tương đối độc lập đến khả năng nộp thuế của người nộp thuế như: hoàn cảnh
bản thân, gia đình... Do đó có tác dụng rất lớn trong việc điều hoà thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư, đảm bảo được tính công bằng trong xã hội. Tuy nhiên, thuế trực
9


thu có nhược điểm là dễ gây phản ứng từ phía người nộp thuế khi Nhà nước điều
chỉnh tăng thuế. Hơn nữa, việc theo dõi, tính toán số thuế phải nộp và thủ tục thu,
nộp thuế khá phức tạp. Số thu động viên vào NSNN thường chậm và chi phí quản lý
thu thuế khá tốn kém.
Thứ hai, Đối tượng chịu thuế là đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp
bao gồm: Đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; Đất sản xuất, kinh doanh phi nông
nghiệp như: đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản
xuất, kinh doanh; đất khai thác, chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng,
làm gốm và đất phi nông nghiệp khác sử dụng vào mục đích kinh doanh.
Thuế sử đất phi nông nghiệp không áp dụng đối với đất sử dụng vào mục
đích sản xuất nông nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp sử dụng không vào mục đích
kinh doanh hoặc để ở bao gồm: Đất sử dụng vào mục đích công cộng (đất giao
thông, thuỷ lợi; đất xây dựng công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục

thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng
cảnh; đất xây dựng công trình công cộng khác theo quy định của Chính phủ); Đất
do cơ sở tôn giáo sử dụng; Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa; Đất sông, ngòi, kênh,
rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ
đường, nhà thờ họ; Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp, đất
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; Đất phi nông nghiệp khác theo quy
định của pháp luật1.
Thứ ba, Thuế SDĐPNN được thu thường xuyên hàng năm căn cứ vào giá trị
đất thể hiện ở diện tích, giá đất và mức thuế suất, được thu trong suốt quá trình
chiếm giữ tài sản của các chủ thể nộp thuế chứ không phải vào thời điểm mua, bán
hay chuyển nhượng đất... không giống các khoản thu được thu theo từng lần như
tiền sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, lệ phí trước
bạ...
Thứ tư, Mục đích của việc đánh thuế SDĐPNN bên cạnh việc tăng cường
quản lý nhà nước về đất đai, động viên một phần thu nhập của người sử dụng đất
1

Xem điều 2 Nghị định số 53/2011/NĐ-CP ngày 01/7/2011 của Chính phủ hướng dẫn Luật Thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp;

10


nhằm tăng thu cho NSNN còn thực hiện khuyến khích sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả quỹ đất ở, đất xây dựng công trình, hạn chế việc đầu cơ đất, góp phần ổn định
phát triển thị trường bất động sản.
Về mặt lý luận, thuế nhà, đất ở một số quốc gia được sử dụng như một công cụ
đa nhiệm để thực hiện một số hoặc tất cả các mục tiêu: i) Tạo nguồn thu chủ yếu cho
ngân sách địa phương; ii) Làm tăng hiệu quả sử dụng đất và đầu tư trên đất; iii) Là
cách thức để điều tiết một phần chi phí của người giàu trong sử dụng đất để góp vào

giải quyết nhà ở cho người nghèo, tạo công bằng về quyền sử dụng đất vốn là tài sản
của toàn dân; iv) Thuế nhà đất có khả năng điều chỉnh quy hoạch đô thị, bố trí lại dân
cư bằng cách đánh thuế cao vào nơi cần giảm dân, cần giảm giá đất và ngược lại; v)
Là công cụ hữu hiệu làm giảm tình trạng đầu cơ bất động sản và tích trữ tiền tiết kiệm
của dân vào bất động sản bằng cách đánh thuế cao trường hợp có bất động sản nhưng
không sử dụng hay sử dụng lãng phí, hiệu quả thấp [24].
Ở Việt Nam trước đây có sắc thuế nhà đất, trên thực tế thuế này chỉ đánh vào
đất ở, đất xây dựng công trình, nhà nước tạm thời chưa đánh thuế vào nhà ở và tài
sản trên đất. Do vậy, năm 2010, thuế nhà, đất được thay thế bằng sắc thuế
SDĐPNN2 cho phù hợp giữa tên gọi với đối tượng áp dụng của thuế này. Do vậy để
thuế SDĐPNN phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay chỉ cần tập trung vào
một số mục tiêu chính cho thuế SDĐPNN như: tạo công bằng về quyền và nghĩa vụ
đối với người sử dụng đất, người có quyền sử dụng đất phải chia sẻ một phần lợi ích
từ sử dụng đất cho những người không được quyền sử dụng đất; Điều tiết mạnh vào
lợi ích của những trường hợp thu lợi nhuận cao từ sử dụng đất, sử dụng hoặc sử
dụng lãng phí, sử dụng không hiệu quả đất đai. Những mục đích khác sẽ được xem
xét, điều chỉnh vào những giai đoạn tiếp theo [12,Tr.1].
Thứ năm, Thuế SDĐPNN là một sắc thuế điều chỉnh một vấn đề rất phức tạp,
quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến túi tiền của hàng chục triệu người nộp thuế.
Tuy không phải là loại thuế có số thu lớn nhưng nó có phạm vi tác động rộng, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế, tâm lý xã hội của hầu hết các tổ chức kinh tế,
2

Quốc hội ban hành Luật thuế SDĐPNN năm 2010 thay thế cho pháp lệnh thuế nhà đất ban hành năm 1992.

11


hộ gia đình và cá nhân. Thuế SDĐPNN đang được triển khai áp dụng thực hiện trên
phạm vi toàn lãnh thổ với gần 700 quận, huyện; 10.500 xã, phường, thị trấn với số

lượng người nộp thuế đến hơn 17 triệu người và số lượng thửa đất phải quản lý lên
đến gần 18 triệu thửa, tương ứng với tổng diện tích hơn hơn 46,2 tỷ m2 do cá nhân,
hộ gia đình quản lý sử dụng và gần 80.000 thửa đất ứng với hơn 1,2 tỷ m2 đất do tổ
chức kinh tế sử dụng[10, Tr.2].
1.1.2. Vai trò của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
- Thứ nhất, Thuế SDĐPNN góp phần đảm bảo nguồn thu cho NSNN, là nguồn
thu ổn định bền vững của ngân sách địa phương.
Cũng như các sắc thuế khác, khoản thu từ thuế SDĐPNN huy động nguồn
lực tài chính góp phần đảm bảo nguồn thu cho NSNN, là nguồn thu ổn định bền
vững của ngân sách xã, phường, thị trấn. Thuế thu từ đất thường là nguồn thu quan
trọng cho ngân sách địa phương. Vì đất đai là một loại tài sản cố định về vị trí và
không thể di chuyển được nên ở hầu hết các quốc gia đều áp dụng hình thức thuế
này. Thuế thu từ đất gắn liền với việc quản lý đất đai và xây dựng của chính quyền
địa phương, đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở. Do đó, chính quyền địa phương đóng
vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức, triển khai thu thuế. Việc quản lý
thu thường được gắn với trách nhiệm của chính quyền địa phương và thường được
điều tiết với tỷ lệ cao cho ngân sách địa phương. Địa phương được hưởng phần lớn
nguồn thu từ thuế thu từ đất tạo điều kiện chủ động, tích cực trong thu thuế, tạo
động lực quản lý thu tốt hơn.
- Thứ hai, Thuế SDĐPNN là công cụ quan trọng của Nhà nước góp phần
thực hiện quản lý đất đai, quản lý thị trường bất động sản.
Trên cơ sở hệ thống thuế hiện hành, các chính sách thuế tài sản và thu khác
đã bảo đảm là công cụ quan trọng của Nhà nước thực hiện quản lý tài sản, tài
nguyên quốc gia và tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực quản lý Nhà nước khác có
liên quan, góp phần giảm chi phí đầu vào, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh,
tăng cường xuất khẩu hàng hoá và mở rộng giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế.
Thông qua chính sách thuế thu từ đất sẽ giúp cho Nhà nước nắm được quỹ
đất thực tế mà người sử dụng đất đã sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh
12



hay để ở, xây dựng công trình... giúp cho Nhà nước nắm được quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất và có biện pháp quản lý thị trường bất động sản để từ đó thực
hiện điều tiết công bằng và quản lý của Nhà nước đối với đất đai.
- Thứ ba, Thuế SDĐPNN tác động tới sản xuất kinh doanh
Chính sách thu các khoản thu từ đất thu phân biệt đối với từng loại hành vi
trong quá trình từ khi giao đất đến quá trình sử dụng đất và tiền thuê đất đã góp
phần thu hút đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Chính sách giao đất có thu tiền sử dụng đất đã huy động được nguồn vốn
không nhỏ phục vụ cho mục đích đầu tư phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng
thời giải phóng sức sản xuất của đất đai, nâng cao khả năng sử dụng đất.
- Thứ tư, Thuế SDĐPNN góp phần thực hiện chính sách công bằng xã hội.
Các khoản thu từ đất góp phần thực hiện chính sách công bằng xã hội, điều
tiết một phần thu nhập của người sử dụng đất. Công bằng xã hội thể hiện trong
chính sách thu thông qua việc người sử dụng nhiều đất sẽ phải nộp nhiều thuế hơn
và người sử dụng ít đất phải nộp thuế ít hơn; người sử dụng đất có vị trí tốt hơn,
mức sinh lợi của đất cao hơn thì phải nộp thuế nhiều hơn. Đồng thời thông qua việc
miễn giảm thuế các khoản thu từ đất để thực hiện điều tiết mục đích khác như giải
quyết vấn đề nhà ở cho người thuộc chính sách, những người có thu nhập thấp...
1.2. Khái quát về pháp luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Quan hệ thuế khóa nói chung và thuế SDĐPNN nói riêng bao giờ là quan hệ
pháp luật. Để thu một loại thuế nào đó Nhà nước phải ban hành ra hệ thống các quy
phạm pháp luật quy định rõ nội dung sắc thuế đó và quy định về thủ tục quản lý thu,
nộp thuế.
Ở Việt Nam thuế SDĐPNN có tiền thân là thuế nhà, đất lần đầu tiên được
ban hành vào năm 1992 dưới hình thức pháp lệnh, nó được sửa đổi, bổ sung vào
năm 1994; Luật thuế SDĐPNN số 48/2010/QH12 được Quốc hội thông qua ngày
17/06/2010 có hiệu thi hành từ 01/01/2012 để thay thế Pháp lệnh thuế nhà, đất năm

13


1992 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thuế nhà, đất năm
1994. Cùng với Luật thuế SDĐPNN 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
53/2011/NĐ-CP ngày 01/07/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thuế SDĐPNN. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 153/2011/TTBTC ngày 11/11/2011 hướng dẫn về thuế SDĐPNN….
Bên cạnh quy định về nội dung sắc thuế SDĐPNN, để quản lý thu nộp các
loại thuế nói chung và thuế SDĐPNN nói riêng thì Nhà nước đã ban hành Luật quản
lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế. Như vậy có thể hiểu:
Pháp luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là bộ phận trong hệ thống pháp
luật thuế ở Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành
điều chỉnh các quan hệ thu nộp thuế phát sinh giữa nhà nước và các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân có quyền sử dụng đất thuộc đối tượng chịu thuế hoặc người đang sử
dụng đất là người nộp thuế nhằm: Tăng cường quản lý nhà nước đối với đất đai;
Khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả; Góp phần hạn chế đầu cơ nhà,
đất; Khuyến khích thị trường bất động sản phát triển lành mạnh; Động viên hợp lý
sự đóng góp của người sử dụng đất vào NSNN, nhất là người có nhiều nhà, đất.
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Xét về cấu trúc tổng quát, hệ thống pháp luật thuế nói chung đều được cấu
thành bởi hai bộ phận chính, bao gồm các quy định về nội dung của các sắc thuế
trong hệ thống thuế; các quy định về hình thức tổ chức và đảm bảo thực hiện (quy
trình hành thu) hệ thống thuế. Những quy định về nội dung của hệ thống thuế thực
chất là những quy định nhằm xác định người nộp thuế, số thuế mà họ phải nộp, các
ưu đãi về thuế (trường hợp hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế…). Những quy định
này liên quan đến đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế và
thường được quy định rất đầy đủ, chi tiết trong Luật Thuế.
Hiện nay, việc xác định cấu trúc pháp luật thuế SDĐPNN có nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Tuy nhiên cách tiếp cận phổ biến hiện nay là căn cứ vào nội dung
quy phạm pháp luật điều chỉnh thì cấu trúc pháp luật thuế SDĐPNN bao gồm hai bộ

phận cơ bản sau:

14


- Bộ phận pháp luật quy định về nội dung sắc thuế. Bộ phận pháp luật này
quy định các vấn đề như: Đối tượng nộp thuế; đối tượng chịu thuế; đối tượng không
thuộc diện chịu thuế; căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế; các trường hợp miễn,
giảm thuế …
- Bộ phận pháp luật quy định về quản lý thuế: gồm các quy định về đăng ký
thuế, kê khai, nộp thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế và các biện pháp quản lý
thuế…Các quy phạm thuộc nhóm này có trong Luật Quản lý thuế và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
1.2.3 Các yếu tố chi phối nội dung điều chỉnh của pháp luật thuế sử dụng
đất phi nông nghiệp
Pháp luật thuế SDĐPNN chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong
đó có những yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và định hướng của
nhà nước.
Đường lối chính sách của Đảng đề ra mục tiêu và phương hướng phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước trong mọt giai đoạn nhất định, định ra những phương
pháp cách thức cơ bản để có thể thực hiện những mục tiêu và phương hướng đó.
Những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức đó sẽ được Nhà nước
thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện trên thực tế. Vì thế đường lối chính
sách của Đảng là một trong những yếu tố có sức ảnh hưởng nhất tới nội dung của
điều chỉnh của pháp luật nói chung và pháp luật thuế SDĐPNN.
Pháp luật là công cụ thể hiện ý chí của nhà nước, do đó, trong bất kỳ nhà
nước nào, những chủ trương định hướng của nhà nước đều được thể hiện trong các
quy định pháp luật được ban hành và thực hiện. Nếu những chủ trương định hướng
của nhà nước phù hợp với quy luật phát triển, phù hợp với thực tiễn thì chắc chắn sẽ

thúc đẩy các hoạt động phát triển, còn ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của các
hoạt động này.
Luật Thuế SDĐPNN năm 2010 ra đời với nhiều nội dung thay đổi so với
pháp lệnh thuế nhà, đất trước đây xuất phát từ nhiều căn cứ khác nhau trong có có
15


căn cứ là: Quán triệt chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng về nội dung tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới chính sách
pháp luật về đất đai. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/01/2008 của Hội nghị lần
thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã yêu cầu: “Hoàn thiện chính sách thuế
đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, đất được giao nhưng không đưa vào sử
dụng theo cam kết và các trường hợp sở hữu, sử dụng nhà, đất vượt quá hạn mức
quy định, ngăn chặn những cơn sốt giá do đầu cơ bất động sản, đặc biệt là đất đai”.
Thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, Quốc hội khoá 12 đã đưa Luật thuế SDĐPNN
vào chương trình xây dựng Luật của Quốc hội [5,Tr.4]. Trong chương trình cải cách
hệ thống thuế đến năm 2010 của chính phủ đã chính sách thuế liên quan đến tài sản
là nhà, đất sẽ được hoàn thiện theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế để bảo đảm
công bằng giữa các tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu, sử dụng tài sản là nhà, đất3.
Như vậy, để xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với chủ trương của Đảng,
chiến lược cải cách thuế của Nhà nước, yêu cầu thực tiễn và các Luật có liên quan,
cần thiết phải ban hành Luật thuế SDĐPNN.
Thứ hai, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Pháp luật là sự phản ánh dưới hình thức pháp lý các quan hệ xã hội, một sự
phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi của xã hội. Do đó, việc nghiên cứu đánh giá
không chính xác, không đầy đủ những yếu tố khách quan khi ban hành pháp luật
cũng dẫn đến pháp luật không phù hợp với những đòi hỏi của cuộc sống và pháp
luật không thể phát huy được tác dụng. Để pháp luật phản ánh đúng, đầy đủ thực
tiễn khách quan, những tiến trình đang diễn ra trong đời sống xã hội thì phải thường

xuyên hoàn thiện pháp luật trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế xã hội,
thực trạng pháp luật hiện hành. Từ thực trạng đó phát hiện ra những điểm không
phù hợp trong các quy định của pháp luật để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực
tiễn khách quan. Đồng thời, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng kinh tế - xã hội mà

3

Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 06/12/2004 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt chương
trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010.

16


phát hiện ra những nhu cầu điều chỉnh mới của pháp luật để kịp thời xây dựng và
ban hành pháp luật. Nếu không có những khảo sát, đánh giá thực trạng kinh tế xã
hội thì không thể có cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực
hiện pháp luật, pháp luật không thể phát huy vai trò của nó trong đời sống, thậm chí
pháp luật chỉ nằm trên giấy.
Để pháp luật đi vào cuộc sống, việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về
thuế SDĐPNN cần xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước trong từng
giai đoạn để đặt ra các quy định pháp luật cho phù hợp. Hiện nay, số lượng người
nộp thuế SDĐPNN ở Việt Nam khá lớn. Chính vì vậy, việc ban hành các quy định
pháp luật về SDĐPNN cần phải xuất phát từ thực trạng nền kinh tế, qua đó góp
phần giúp cho việc thu thuế được thuận lợi hơn, tránh tình trạng thất thu thuế,
không gây khó khăn phiền hà cho người nộp thuế, điều tiết thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư, tăng nguồn thu cho NSNN và cũng là đảm bảo được tính công bằng cho
các đối tượng nộp thuế. Giải pháp mà quy định pháp luật SDĐPNN phải tính đến là
quy định về thủ tục hành chính thuế phải đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện, tiết giảm
tối đa chi phí tuân thủ và tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế tự thực hiện đầy
đủ, đúng nghĩa vụ thuế. Đồng thời, cần có quy định nhằm khuyến khích, mở rộng

các hoạt động tư vấn, cung cấp dịch vụ về thuế giúp cho người nộp thuế hiểu rõ quy
định của Luật thuế SDĐPNN, đó là cơ sở của việc tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế
đối với Nhà nước.
Yếu tố kinh tế cho phép thực hiện quyền bình đẳng giữa các đối tượng sử
dụng đất và kết hợp hài hòa giữa các lợi ích, do vậy các đối tượng sử dụng đất đều
phải có trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Chính sách thuế luôn gắn
với bối cảnh kinh tế nhất định, nó được nhìn nhận thông qua hàng loạt các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô như chỉ số giá cả, hay tốc độ tăng trưởng... Mỗi sự thay đổi của yếu tố
này sẽ có ảnh hưởng nhất định đến chính sách thu trong đó có các chính sách thu
liên quan đến đất đai.
Thứ ba, văn hoá tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế
Văn hoá tuân thủ pháp luật thuế thể hiện ở nhận thức về trách nhiệm của
người nộp thuế về nghĩa vụ thuế, ở ý thức chấp hành pháp luật thuế. Văn hoá tuân

17


thủ pháp luật thuế là một yếu tố quan trọng trong việc xác định nội dung điều chỉnh
của pháp luật. Khi người nộp thuế có kiến thức, hiểu biết đầy đủ về pháp luật thuế
có tinh thần đạo đức thuế tốt thì khi đó mới đảm bảo rằng họ tự giác thực hiện được
đúng, đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình, họ thấy trách nhiệm của mình phải tham gia
vào công tác quản lý thuế và mới giám sát quá trình thực hiện pháp luật thuế. Trái
lại, sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế còn thấp thì
tình trạng trốn thuế, lậu thuế còn diễn ra. Do vậy, việc quy định trong pháp luật thuế
SDĐPNN đối với người dân phải tính đến yếu tố này, bởi vì, hiện nay, ý thức trách
nhiệm về nghĩa vụ thuế, sự hiểu biết về các quy định thuế và quy trình thủ tục thực
hiện các nghĩa vụ thuế của người nộp thuế còn hạn chế.
Thuế SDĐPNN do tổ chức, cá nhân tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế,
cơ quan thuế thực hiện kiểm tra, kiểm soát. Chính vì vậy, việc tuân thủ các quy định
của người nộp thuế đối với nhiều thửa đất vẫn còn đạt ra nhiều vấn đề cần giải

quyết, cho dù cơ quan thuế có thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát nhưng cũng không
thể đảm bảo có đủ điều kiện để kiểm soát hết các đối tượng chịu thuế, qua đó, có
thể tạo điều kiện cho các đối tượng này thực hiện việc gian lận thuế, trốn thuế…Từ
thực tế trên cho thấy, công tác tuyên truyền, tư vấn giải đáp thắc mắc về chính sách,
pháp luật SDĐPNN cần được coi trọng. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện pháp luật về
giám sát và bảo đảm tuân thủ pháp luật thuế, tăng cường công tác kiểm tra, thanh
tra, giám sát để phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc, kịp thời các hành vi
gian lận, trốn lậu thuế của nhà nước. Có như vậy, mới tăng cường tính giáo dục, răn
đe và phòng ngừa những hành vi tiêu cực, bảo đảm cho quy định pháp luật thuế
SDĐPNN được tôn trọng và thực thi nghiêm túc trên thực tế.
Thứ tư, trình độ quản lí của cơ quan nhà nước về thuế, cán bộ ngành thuế.
Trình độ năng lực quản lí của cơ quan nhà nước về thuế, cán bộ ngành thuế
là một yếu tố quan trọng chi phối pháp luật thuế SDĐPNN. Trình độ năng lực quản
lí thuế của Nhà nước được thể hiện thông qua việc phân công, phân cấp quản lý, sự
phối hợp với các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương, bảo đảm điều kiện cơ
sở vật chất phục vụ cho công tác kiểm tra, kiểm soát các nguồn thu mà người dân tự
kê khai và thước đo là kết quả đạt được trong hoạt động thực tiễn. Trình độ, năng
18


lực của đội ngũ cán bộ công chức ngành thuế thể hiện ở trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, khả năng ứng dụng công nghệ tin học trong công việc, tính chuyên
nghiệp hoá, chuyên môn hoá quản lí, thái độ và phong cách làm việc. Bên cạnh đó
còn là việc hướng dẫn, giải thích các quy định pháp luật cho đối tượng nộp thuế để
họ chấp hành việc kê khai nộp thuế đúng thời gian, đúng quy định.
Khoa học công nghệ là công cụ quan trọng trong việc quản lý thuế nói
chung và quản lý các khoản thu về đất nói riêng. Khoa học công nghệ làm tăng
tính hiệu quả trong giao dịch giữa cơ quan Thuế và Người nộp thuế, giảm chi phí
thực hiện nghĩa vụ thuế. Với sự hỗ trợ của Khoa học - Công nghệ hiện đại, các
dữ liệu được quản lý trên máy tính đối chiếu và xử lý tự động, giảm tối đa việc

quản lý bằng thủ công trong quản lý thuế. Bên cạnh đó yếu tố khoa học - công
nghệ giúp cho cơ quan thuế quản lý được hệ thống thông tin thu, nộp thuế, có sự
phối kết hợp giữa các ban ngành trong việc kiểm soát, giám sát tới NNT và kịp
thời xử lý những sai phạm nếu có.
Thứ năm, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
Pháp luật thuế nói chung và quy định pháp luật thuế SDĐPNN nói riêng đều
được xây dựng trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của chính quốc gia đó. Tuy
nhiên, do tác động của xu thế phát triển là cần mở cửa hợp tác và hội nhập kinh tế
toàn cầu, các quốc gia muốn phát triển không thể đóng cửa, biệt lập với thế giới bên
ngoài. Để mở rộng hợp tác kinh tế với quốc gia và hội nhập kinh tế với khu vực và
thế giới, các nước đều phải nỗ lực điều chỉnh chính sách, pháp luật của quốc gia
mình cho phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Khi
tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, các quốc gia đều đưa ra cam kết của
mình với các tổ chức kinh tế quốc tế mà mình là thành viên. Để thực hiện đầy đủ cam
kết quốc tế, các quốc gia đều phải sửa đổi hoàn thiện pháp luật để tạo cơ sở pháp lư cho
việc thực hiện cam kết đó. Hơn nữa, pháp luật thuế SDĐPNN là một trong những yếu
tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút các nguồn vốn đầu tư cho
phát triển, thu hút các nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ cho quá trình nghiên
cứu, sản xuất... Với yêu cầu này, pháp luật thuế SDĐPNN ở nước ta cần hoàn thiện để
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
19


×