Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật quản lý nước thải khu công nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NƢỚC THẢI
KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
PHẠM THỊ THU HIỀN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VŨ THỊ DUYÊN THỦY

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liêụ trong luận văn của tôi đều được trích dẫn từ nguồn trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thu Hiền


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin gửi lời chân thành cảm ơn tới PGS.TS. Vũ Thị Duyên
Thủy, Cô đã hướng dẫn và tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thiện luận văn.


Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giảng viên, các thầy cô Khoa
Sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để em có thể
hoàn thành luận văn.
Sau cùng, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè
và những đồng nghiệp đã giúp đỡ, khuyến khích và ủng hộ em có thể hoàn thành
luận văn
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2018.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Thu Hiền


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NƢỚC THẢI
KHU CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NƢỚC THẢI KHU
CÔNG NGHIỆP ........................................................................................................7
1.1 Những vấn đề lý luận về quản lý nước thải khu công nghiệp..........................7
1.2 Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý nước thải khu công nghiệp .........13
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NƢỚC THẢI
KHU CÔNG NGHIỆP ............................................................................................29
2.1. Các quy định về công cụ quản lý nước thải khu công nghiệp .......................29
2.2. Các quy định về quản lý nước thải trước và trong quá trình hoạt động tại khu
công nghiệp……………………………………………………………………...38
2.3. Các quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý
nước thải khu công nghiệp ....................................................................................60
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NƢỚC THẢI

KHU CÔNG NGHIỆP ............................................................................................71
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý nước thải khu công nghiệp ..71
3.2. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý nước thải
khu công nghiệp ....................................................................................................78
KẾT LUẬN ..............................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................85


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVMT

Bảo vệ môi trường

CCN

Cụm công nghiệp

DN

Doanh nghiệp

ĐTM

Đánh giá tác động môi trường

GPXT

Giấy phép xả thải

KBM


Kế hoạch bảo vệ môi trường

KCN

Khu công nghiệp

KCX

Khu chế xuất

KKT

Khu kinh tế

QCKTMT

Quy chuẩn kỹ thuật môi trường

QHMT

Quy hoạch môi trường


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc lựa chọn, nghiên cứu đề tài
Theo thống kê của Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và môi trường),
tính đến tháng 5/2016, cả nước có 313 khu công nghiệp được thành lập với hàng
trăm ngàn doanh nghiệp đang hoạt động, giải quyết việc làm và tạo ra thu nhập cho
hàng triệu người lao động trực tiếp và gián tiếp. Thực tiễn cho thấy, các khu công

nghiệp có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Các khu công nghiệp là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng, công nghiệp, tăng
khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp, đẩy
mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động
Trong đó mới chỉ có 212 khu công nghiệp đang hoạt động đã hoàn thành
việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tỷ lệ 75% với 102 hệ thống đã
được lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động theo quy định; 24 khu công nghiệp
đang xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung; 615 cụm công nghiệp đang hoạt
động nhưng chỉ có khoảng hơn 5% đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập
trung1. Bên cạnh những đóng góp tích cực về kinh tế - xã hội, quá trình phát triển
các khu công nghiệp nghiệp ở Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn
về ô nhiễm môi trường do các loại chất thải thải ra từ hoạt động sản xuất công
nghiệp của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, trong đó có nước thải công
nghiệp
Có thể nói, việc quản lý và xử lý nước thải ở các khu công nghiệp ở nước ta
còn lỏng lẻo và chưa được quan tâm. Hoạt động của hệ thống xử lý nước thải tập
trung tại một số khu công nghiệp không hiệu quả do chủ đầu tư không tính đến tiến
độ thu hút đầu tư, dẫn đến lượng nước thải thu gom quá ít, không đủ để vận hành
thường xuỵên hệ thống xử lý nước thải. Bên cạnh đó, một số khu công nghiệp
không vận hành hệ thống xử lý nước thải do các cơ sở không thực hiện việc đấu nối.

1

Bảo đảm hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tại các khu, cụm công nghiệp xây dựng mới trước khi đi vào
hoạt động; />
1


Hầu hết các khu công nghiệp chưa lập kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi
trường theo quy định của Luật bảo vệ môi trường năm 2014.

Trước thực trạng về ô nghiễm môi trường từ nước thải khu công nghiệp,
trong thời gian qua Đảng đã ban hành nhiều văn bản về chiến lược bảo vệ môi
trường như: Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 Bộ Chính trị (Khóa IX)
“Về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Nghị quyết số 41-NQ/TW là một bước quan trọng trong việc thể hiện các
quan điểm của Đảng về Bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 21/1/2009 Ban bí thư
đã ban hành Chỉ thị số 29-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41NQ/TW. Chỉ thị số 29-CT/TW yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện triệt để các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị
quyết số 41-NQ/TW nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác Bảo vệ môi
trường. Chỉ thị một lần nữa nhấn mạnh một số nhiệm vụ quan trọng cần tập trung
thực hiện, trong đó có nhiệm vụ như: “Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường...”; “Quy định các chế tài xử lý
nghiêm các vi phạm pháp luật về Bảo vệ môi trường; Không phê duyệt chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi
trường; Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao,
khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về
Bảo vệ môi trường”
Các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X và mới đây là Hội nghị
Trung ương 7 Khóa XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định phát triển
kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ môi trường đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW
về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và Bảo
vệ môi trường”
Về phía Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, khuyến khích các
thành phần kinh tế, các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho

2



người lao động và lợi nhuận cho nhà đầu tư. Các địa phương xây dựng các KCN và
tạo ra chính sách thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặc
dù vậy các địa phương xây dựng các chính sách thu hút đầu tư thông thoáng nhưng
phải bảo đảm việc đầu tư kinh doanh phải tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật
Bảo vệ môi trường nói riêng. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2013 quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có
nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Để bảo đảm phát triển bền vững, Nhà nước đã ban
hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cùng với hàng loạt Nghị định, Thông tư
hướng dẫn thi hành về các đạo luật này. Pháp luật và việc thực thi pháp luật Bảo vệ
môi trường quản lý nước thải khu công nghiệp còn nhiều vấn đề tồn tại, bất cập
trong các nội dung như:trách nhiệm của các chủ đầu tư khu công nghiệp, các doanh
nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp đối với nước thải công nghiệp, các quy
định liên quan đến hoạt động quản lý nước thải khu công nghiệp như quy chuẩn kỹ
thuật nước thải công nghiệp… vấn đề về nghĩa vụ tài chính của các chủ nguồn thải
nước thải, các quy định về thanh tra, kiểm tra về hoạt động quản lý nước thải nước
thải khu công nghiệp …cần phải nghiên cứu đánh giá. Những bất cập, hạn chế trên
là nguyên nhân cơ bản trên làm giảm hiệu quả quản lý nước thải khu công nghiệp.
Xuất phát từ thực tế đó, em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật quản lý
nước thải khu công nghiệp ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý có một số đề tài nghiên cứu như:
-

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2009 “Hoàn thiện Pháp luật về

quản lý chất thải” do tác TS. Nguyễn Văn Phương là chủ nhiệm, trường Đại học
Luật Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2011 “Pháp luật về bảo vệ môi trường đối
với khu công nghiệp và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Tây Ninh” của tác giả Phan Thị
Trúc Linh, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra có một số bài viết trên các tạp chí Luật học, Tạp chí Cộng sản, tạp

3


chí Lý luận chính trị, nghiên cứu pháp luật môi trường dưới nhiều góc độ, khía cạnh
pháp lý khác nhau. Trên các trang tin điện tử internet có nhiều bài viết về vấn
đề quản lý nước thải công nghiệp hoặc tình trạng xả thải không qua xử lý gây ô
nhiễm của một số khu công nghiệp …
Về các bài viết đánh giá hay gợi mở một số khía cạnh của pháp luật bảo vệ
môi trường tại khu công nghiệp, có thể kể đến như: Bài viết của tác giả Vũ Thị
Duyên Thủy đăng trên tạp chí Luật học số 9/2011"Thực trạng pháp luật về bảo vệ
môi trường trong hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam"; bài "Môi trường
khu công nghiệp, khu chế xuất các tỉnh Phía Bắc thực trạng và bài học kinh
nghiệm" của tác giả Phương Nhung đăng trên tạp chí quản lý Nhà nước số 174
(tháng 7/2010). Về công tác quản lý môi trường KCN , tác giả Ngô Sỹ Trung có bài
viết: "Quản lý môi trường các khu công nghiệp hiện nay" được đăng trên Tạp chí
Tổ chức Nhà nước số 6/2010; tác giả Hoàng Thị Hường với bài viết: "Tăng cường
quản lý môi trường đối với các Khu công nghiệp" đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà
nước số 157( tháng 2/2009); tác giả Lê Thị Kim Tuyên với bài viết: "Thực trạng và
giải pháp bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam
hiện nay" đăng trên Tạp chí Công nghiệp Việt Nam, tháng 7 năm 2012; tác giả
Nguyễn Thị Bình với bài viết "Trách nhiệm bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
của Ban quản lý khu công nghiệp" đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử
tháng 7 năm 2016; tác giả Hồ Anh Tuấn với bài viết "Hoàn thiện pháp luật bảo vệ
môi trường nước trong khu công nghiệp ở Việt Nam" đăng trên VNU Journal of
Science: Legal Studies - Vol. 32, No. 4 (2016)…
Những nghiên cứu trên đây đề cập đến pháp luật về Bảo vệ môi trường nói
chung, như đề tài của tác giả Nguyễn Văn Phương nghiên cứu đánh giá chung về
Pháp luật quản lý các loại chất thải, trong đó có nước thải.

Đề tài “Pháp luật quản lý nước thải khu công nghiệp ở Việt Nam” mà tác giả
lựa chọn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của Pháp luật
về quản lý nước thải khu công nghiệp và thực trạng thực hiện Pháp luật quản lý
nước ở thải khu công nghiệp trong các địa phương trên cả nước.

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận về quản lý
nước thải KCN và pháp luật quản lý nước thải KCN; đánh giá các quy định của
pháp luật về quản lý nước thải KCN và việc thực hiện pháp luật trên thực tế, từ đó
chỉ ra những nguyên nhân, hạn chế, bất cập của pháp luật về quản lý nước thải đối
với các KCN, trên cơ sở đó, đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện Pháp
luật về quản lý nước thải ở KCN dưới góc độ khoa học pháp lý cũng như trên thực
tiễn thực hiện.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định là:
- Nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về nước thải, quản lý nước thải
KCN, pháp luật quản lý nước thải KCN;
- Khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật quản lý nước thải
KCN ở Việt Nam hiện nay để tìm ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc
thi hành pháp luật quản lý nước thải KCN ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận pháp luật, hệ
thống các quy định pháp luật hiện hành về quản lý nước thải KCN và thực tiễn thi
hành ở Việt Nam. Luận văn đặc biệt chú trọng nghiên cứu các quy định pháp luật
nhằm ngăn ngừa nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường do nước thải KCN mà
không nghiên cứu các vấn đề liên quan đến khắc phục, phục hồi ô nhiễm môi
trường do nước thải KCN (vì đây là vấn đề thiên về yếu tố kỹ thuật môi trường)

Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận pháp luật, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật KCN, từ đó, xác
định phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này ở Việt
Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5


Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, luận văn
áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống, có độ tin cậy để nghiên cứu đề
tài như: Phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, lịch sử…, trong đó, phương pháp
tổng hợp, phân tích là những phương pháp được sử dụng chủ yếu.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm phong phú
và sâu sắc hơn các vấn đề lý luận pháp luật quản lý nước thải KCN, góp một phần
nhỏ vào việc xây dựng các luận cứ khoa học để hoàn thiện pháp luật quản lý nước
thải KCN ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật, luận văn chỉ
ra các ưu điểm, hạn chế, bất cập là cơ sở thực tiễn để hoàn thiện pháp luật quản lý
nước thải KCN ở Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có
thể là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo
pháp luật môi trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương.
-

Chương 1. Những vấn đề lý luận về quản lý nước thải khu công nghiệp và

pháp luật quản lý nước thải khu công nghiệp

-

Chương 2. Thực trạng Pháp luật về quản lý nước thải khu công nghiệp

-

Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về quản lý nước thải khu công nghiệp,

6


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN
LÝ NƢỚC THẢI KHU CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP
LUẬT QUẢN LÝ NƢỚC THẢI KHU CÔNG NGHIỆP
1.1 Những vấn đề lý luận về quản lý nƣớc thải khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm khu công nghiệp và nước thải khu công nghiệp
* Khái niệm Khu công nghiệp
Theo quy định tại khoản 20 Điều 3 Nghị định 38/2015 NĐ-CP ngày 24 tháng
4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu thì “Khu công nghiệp là
tên gọi chung cho khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công
nghiệp”.
Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 05 năm 2018
của Chính phủ quy định về KCN, KCX và KKT thì khái niệm về khu công nghiệp
được hiểu như sau: Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định,
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Cũng tại Điều 2 Nghị định 82/2018/NĐ-CP nêu trên, “Khu chế xuất là khu

công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng
xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục
áp dụng đối với khu công nghiệp; Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là
khu công nghiệp, trừ trường hợp quy định cụ thể”.
Như vậy, giữa pháp luật môi trường và pháp luật thương mại hiểu về phạm
vi của khái niệm KCN là khác nhau.
Trong luận văn này, khái niệm Khu công nghiệp được hiểu theo khoản 20
Điều 3 Nghị định 38/2015 NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về
quản lý chất thải và phế liệu nêu trên, KCN bao gồm khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp.

7


* Khái niệm, đặc điểm nước thải khu công nghiệp
Chất thải được hiểu là các vật chất mà con người thải ra từ nhà sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác. Trong cuộc sống, chất thải được
hình dung là những chất không còn được sử dụng cùng với những chất độc được
xuất ra từ chúng. Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học định nghĩa “Chất thải là
rác và những đồ vật bị bỏ đi nói chung”.
Khái niệm này đưa ra hai tiêu chí để phân biệt chất thải với vật chất tồn tại
dưới dạng khác, đó là Thứ nhất, chất thải tồn tại dưới dạng vật chất; Thứ hai, các
vật chất đồ vật không có giá trị, không có tác dụng và không bị chiếm hữu, sử dụng
nữa.
Từ điển môi trường Anh - Việt và Việt Anh định nghĩa “chất thải (watste) là
bất kỳ chất gì, rắn, lỏng hoặc khí mà cơ thể hoặc hệ thống sinh ra nó không còn sử
dụng được nữa và cần có biện pháp thải bỏ” Theo khái niệm này các yếu tố để phân
biệt chất thải, đó là: Thứ nhất, chất thải là vật chất tồn tại dưới dạng rắn, lỏng, khí;
Thứ hai, vật chất đó không còn giá trị sử dụng đối với cơ thể hoặc hệ thống sinh ra
nó; Thứ ba, phải có biện pháp thải bỏ đối với vật chất đó.

Dưới giác độ pháp lý, chất thải được định nghĩa tại khoản 12 Điều 3 Luật bảo
vệ môi trường năm 2014 như sau: Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.
Như chúng ta biết chất thải tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau.
i) Căn cứ vào tính chất của chất thải, chất thải được chia thành chất thải lỏng,
chất thải khí, chất thải rắn, chất thải ở dạng mùi, chất phóng xạ và các dạng hỗn hợp
khác;
ii) Căn cứ vào nguồn phát sinh chất thải, chất thải được chia thành chất thải
sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế;
iii) Căn cứ vào mức độ tác động của chất thải đến môi trường xung quanh,
chất thải được chia thành chất thải thông thường và chất thải nguy hại, trong đó chất
thải nguy hại là chất thải chứa chất yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn

8


mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác.
Khi nghiên cứu một số khái niệm chất thải được quy định của pháp luật Việt
Nam cũng như của công ước Basel có thể rút ra một số kết luận như sau:
+) Chất thải là vật chất, có thể tồn tại dưới những dạng như rắn, lỏng, khí
hoặc các dạng khác. Những yếu tố phi vật chất không thể là chất thải. Điều này
cũng hoàn toàn phù hợp với những yếu tố cấu thành môi trường theo pháp luật môi
trường.
+) Vật chất bị chủ sở hữu thải ra trong các hoạt động của mình, cả trường
hợp chủ động và bị động, sẽ trở thành chất thải.
+) Trong trường hợp không rõ ràng về ý chí của chủ sở hữu, một vật chất có
thể trở thành chất thải thông qua ý chí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
+) Một vật chất sẽ tồn tại dưới dạng chất thải kể từ khi chủ sở hữu hoặc người
sử dụng hợp pháp thải ra hoặc buộc phải từ bỏ cho tới khi con người đưa nó vào sử
dụng vào một chu trình sản xuất hoặc chu trình sử dụng khác2.

Như vậy, nước thải cũng là một trong các loại chất thải và có các nguồn gốc
khác nhau.
Theo quy định tại khoản 7 Điều 2 Nghị định 80/2014 NĐ-CP ngày 06 tháng
8 năm 2014 của Chính phủ về thoát nước và xử lý nước thải thì: “Nước thải là nước
đã bị thay đổi đặc điểm, tính chất do sử dụng hoặc do các hoạt động của con người
xả vào hệ thống thoát nước hoặc ra môi trường”, và theo quy định tại khoản 5 Điều
3 Nghị định 38/2015 NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý
chất thải và phế liệu thì: “Nước thải là nước đã bị thay đổi đặc điểm, tính chất được
thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”. Từ các
định nghĩa trên cho thấy khái niệm nước thải khu công nghiệp như sau: Nước thải
khu công nghiệp là nước bị thay đổi đặc điểm, tính chất được thải ra từ sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ tại các khu công nghiệp. Nước thải khu công nghiệp có nguồn
2

Nguyễn Văn Phương (2007), Pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam. Luận án tiến sỹ Luật
học, tr. 20.

9


gốc được sinh ra trong quá trình sản xuất công nghiệp từ các công đoạn sản xuất và
các hoạt động phục vụ cho sản xuất như nước thải khi tiến hành vệ sinh công nghiệp
hay hoạt động sinh hoạt của công nhân viên.
Đặc điểm cơ bản của nước thải khu công nghiệp (mà doanh nghiệp phát thải)
là:
- Nước thải là loại chất thải có tính vận động, tính lan truyền cao bởi vì đây
là chất thải lỏng, thường được thải trực tiếp vào các nguồn nước mặt như ao, hồ,
sông, suối v.v… nên mức độ ảnh hưởng thường diễn ra trên diện rộng, theo sự lưu
thông của các nguồn nước mặt tiếp nhận nước thải. Mặt khác thì ngay cả khi
không thải trực tiếp vào các nguồn nước mặt bản thân nước thải vẫn có tính vận

động, lan truyền cao làm ảnh hưởng tới các thành phần môi trường khác.
- Nước thải khu công nghiệp do doanh nghiệp thải ra thường chứa nhiều chất
gây ô nhiễm, kể cả chất nguy hại. Tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động của các cơ sở
công nghiệp, sản xuất nông, lâm, thuỷ sản mà các chất gây ô nhiễm trong nước
thải của các cơ sở này sẽ khác nhau về mức độ và chủng loại. Song trên thực tế
hiện nay hầu hết các loại nước thải công nghiệp đều có chứa nhiều chất gây ô
nhiễm như Pb, H2SO4, Asen, Zn, thậm chí các chất nguy hại như Cianua, Hg v.v…
- Nước thải của các doanh nghiệp thường được thải với khối lượng lớn,
mang tính tập trung và hầu như không thể vận chuyển tới nơi khác để xử lý. Do
vậy, nước thải, không được xử lý hoặc đã được xử lý thì thường được thải trực
tiếp ra môi trường xung quanh nguồn thải (ao, hồ, sông, kênh, rạch). Việc xả thải
này phải thông qua hệ thống đường dẫn. Chính do đặc điểm này mà hầu như các
cơ sở sản xuất kinh doanh thường được xây dựng gần các hồ, sông, ngòi để có thể
thải nước thải ra các nguồn nước mặt này.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quản lý nước thải khu công nghiệp
Theo từ điển Tiếng Việt, quản lý được hiểu là việc “tổ chức và điều khiển các

10


hoạt động theo những yêu cầu nhất định”3. Bản chất của hoạt động quản lý là cách
thức tác động (tổ chức, điều khiển, kiểm tra) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả
mong muốn và đạt mục tiêu đã đề ra. Trong Từ điển tiếng Việt có nêu: Quản lý là
“tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người không chỉ tiêu thụ và sử dụng một số
lượng lớn các nguyên liệu, sản phẩm từ thiên nhiên, từ sản xuất để tồn tại và phát
triển đồng thời cũng vứt, thải lại cho thiên nhiên và môi trường sống các phế thải,
rác thải. Nền kinh - tế xã hội càng phát triển, dân số tại các vùng đô thị, trung tâm
công nghiệp càng tăng nhanh thì phế thải và rác thải càng nhiều và ảnh hưởng trực

tiếp trở lại đời sống của con người nó làm cho môi trường bị ô nhiễm, con người
mắc bệnh tật, giảm sức khoẻ cộng đồng, đất đai bị biến thành bãi rác, làm mất cảnh
quan tại các khu đô thị. Trong lĩnh vực quản lý chất thải, những hoạt động tổ chức
và điều khiển của các cơ quan nhà nước cũng như việc tổ chức quản lý chất thải của
các tổ chức, cá nhân có liên quan, nhằm giảm bớt những tác động xấu của chất thải
đối với môi trường và sức khỏe con người được hiểu là hoạt động quản lý chất thải.
Đây là tổng hợp các biện pháp, cách thức nhằm kiểm soát quá trình phát sinh, vận
chuyển, xử lý chất thải và những ảnh hưởng, tác động của chất thải đến môi trường.
Để quản lý hiệu quả loại các loại chất thải (bao gồm cả nước thải khu công
nghiệp), trên thế giới hiện có ba phương thức quản lý, với ba cách tiếp cận không
giống nhau. Đó là phương thức quản lý cuối đường ống sản xuất, phương thức quản
lý dọc theo đường ống sản xuất và phương thức quản lý nhấn mạnh vào khâu tiêu
dung. Ưu điểm của quản lý chất thải cuối đường ống sản xuất là thuận tiện, ít chi
phí về tài chính và tiết kiệm thời gian, nhưng phương thức này lại không tạo được
sự chủ động trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Theo phương thức này, vấn đề
quản lý chất thải chỉ đặt ra khi chất thải đã phát sinh tại nguồn thải, nên hiệu quả
quản lý tuỳ thuộc chủ yếu vào công đoạn xử lý chất thải. Nếu công đoạn này không
3 Vũ Thị Duyên Thuỷ, Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại, Luận án Tiến sỹ Luật học, Hà nội, 2009, tr 17

11


được thực hiện tốt thì việc phòng ngừa và giảm thiểu những tác động tiêu cực của
chất thải hầu như không thực hiện được. Ngược lại, phương thức quản lý chất thải
dọc theo đường ống sản xuất lại khắc phục được hạn chế này. Nó đảm bảo chất thải
được kiểm soát tại từng công đoạn của quy trình sản xuất, nên nếu có vấn đề phát
sinh tại bất kỳ công đoạn nào cũng có thể được xử lý mà không bị phụ thuộc vào
hiệu quả hoạt động của riêng một công đoạn như phương thức quản lý cuối đường
ống. Cùng với hai phương thức này, hiện nay, một số quốc gia, chủ yếu là các nước
phát triển đã bắt đầu tiếp cận với phương thức quản lý chất thải nhấn mạnh vào

khâu tiêu dùng. Phương thức này cho phép các loại chất thải được quản lý trên cơ
sở nâng cao nhận thức của người tiêu dùng để khuyến khích họ lựa chọn những sản
phẩm thân thiện với môi trường, qua đó khuyến khích các doanh nghiệp hướng tới
sản xuất các sản phẩm đó để đáp ứng nhu cầu của thị trường4.
Khái niệm về quản lý chất thải được định nghĩa đầu tiên tại thông tư số
1590/TTLT-BKHCN&MT ngày 17 tháng 10 năm 1997 của Bộ Khoa học Công
nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành chỉ thị số 199/TTg ngày 3 tháng 4 năm
1997 của Thủ tướng Chính Phủ về các biện pháp cấp bách trong quản lý chất thải
rắn ở các đô thị và khu công nghiệp đưa ra định nghĩa về quản lý chất thải: quản lý
chất thải là các hoạt động nhằm kiểm soát toàn bộ quá trình từ khâu sản xuất đến
thu gom, vận chuyển, xử lý (tái sử dụng, tái chế), tiêu huỷ (thiêu đốt, chôn lấp…)
chất thải và giám sát các địa điểm tiêu huỷ chất thải.
Theo quy định tại khoản 15 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014 “quản lý
chất thải là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận
chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải”. Đây là khái niệm quản lý chất thải
được hiểu theo nghĩa rộng và chung nhất cho các loại chất thải khác, Trong lĩnh vực
quản lý nước thải khu công nghiệp, những hoạt động của tổ chức, cá nhân có liên
quan có tác động giảm bớt những tác động xấu của nước thải đối với môi trường và
sức khỏe con người, đây là biện pháp nhằm kiểm soát quá trình phát sinh, dẫn
chuyển nguồn nước, xử lý và ảnh hưởng, tác động của nước thải khu công nghiệp
4

Vũ Thị Duyên Thuỷ, Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại, Luận án Tiến sỹ Luật học, Hà nội 2009, tr 18

12


đến môi trường.
Theo đó có thể hiểu khái niệm quản lý nước thải khu công nghiệp như sau:
quản lý nước thải khu công nghiệp là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát,

phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý nước thải phát sinh từ hoạt động của khu
công nghiệp. Nội dung khái niệm chỉ rõ nội dung quản lý nước thải gồm:
-

Chủ thể thực hiện quản lý nước thải khu công nghiệp là Nhà nước, doanh

nghiệp, các tổ chức xã hội.
-

Mục đích quản lý nước thải khu công nghiệp là phòng ngừa nguy cơ gây ô

nhiễm môi trường và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, khắc phục ô nhiễm và phục hồi
môi trường.
-

Công cụ quản lý nước thải khu công nghiệp được thực hiện trên cơ sở kết

hợp đồng bộ nhiều công cụ, biện pháp khác nhau như công cụ kinh tế, các biện
pháp kỹ thuật, các yếu tố xã hội…
-

Nội dung quản lý nước thải khu công nghiệp gồm các hoạt động mà chủ

thể quản lý thực hiện phù hợp với từng giai đoạn quản lý như: phòng ngừa, giảm
thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái xử dụng, tái chế và quản lý.
1.2 Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý nƣớc thải khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm, nội dung điều chỉnh của pháp luật quản lý nước thải khu công
nghiệp
Theo cách hiểu chung nhất thì pháp luật là hệ thống các quy tắc hành vi, quy
tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước đảm bảo thực hiện

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Theo đó,
quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong đời sống xã hội. Từ những phân tích
trên có thể định nghĩa pháp luật về quản lý nước thải khu công nghiệp như sau:
“Pháp luật quản lý nước thải khu công nghiệp là một bộ phận của pháp luật môi
trường, bao gồm các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật điều chỉnh những mối
quan hệ phát sinh trong quá trình con người tiến hành các hoạt động phòng ngừa,

13


giảm thiểu, thu gom và xử lý nước thải tại các khu công nghiệp”
Pháp luật quản lý nước thải khu công nghiệp bao gồm các nội dung chủ yếu
sau:
Thứ nhất, các quy định về công cụ quản lý nước thải tại KCN.
Để thực hiện quản lý nước thải tại các KCN, cần sử dụng kết hợp nhiều loại
công cụ khác nhau, trong đó có hai loại công cụ không thể thiếu là công cụ kỹ thuật
(cụ thể là hệ thống quy chuẩn kỹ thuật về nước thải) và công cụ kinh tế (cụ thể là
phí bảo vệ môi trường đối với nước thải). Cụ thể như sau:
- Quy chuẩn kỹ thuật môi trường về nước thải của các khu công nghiệp: Quy
chuẩn được hiểu trước hết là chuẩn mực mang tính pháp quy. Tất cả các chủ thể, từ
cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức và cá nhân, phải tuân thủ. Theo nghĩa rộng, quy
chuẩn kỹ thuật môi trường bao gồm tất cả những thông số về thành phần của một
môi trường chuẩn được coi là trong sạch, phù hợp với cuộc sống con người và có
những phương pháp nhất định để xác định chúng 5. Việc ban hành các loại quy
chuẩn kỹ thuật môi trường liên quan đến nước thải và nguồn nước là cơ sở để các
doanh nghiệp trong KCN, chủ cơ sở đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp và
các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến quản lý nước
thải khu công nghiệp.
- Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải khu công nghiệp: Đối với nước

thải, dịch vụ được thực hiện đó chính là dịch vụ thu gom, nước thải, thực hiện việc
phòng ngừa, hạn chế, kiểm soát ô nhiễm môi trường do nước thải; tổ chức thực hiện
các giải pháp, phương án công nghệ, kỹ thuật xử lý nước thải.
Nội dung của quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải khu công
nghiệp bao gồm đối tượng trả phí, căn cứ tính phí và mức phí. Mức phí BVMT
được quy định trên cơ sở: i) Khối lượng chất thải ra môi trường, quy mô ảnh hưởng
tác động xấu đối với môi trường; ii) Mức độ độc hại của chất thải, mức độ gây hại
đối với môi trường; iii) Sức chịu tải của môi trường tiếp nhận chất thải. Nguồn thu
5

Viện Đại học mở h Hà Nội, Giáo trình Luật Môi trường, Hà Nội, 2012, trang 66, 67

14


từ phí BVMT được sử dụng cho hoạt động bảo vệ môi trường.
Thứ hai, các quy định về quản lý nước thải trước và trong quá trình hoạt
động tại các KCN. Các quy định này bao gồm:
- Các quy định về đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đối với khu công
nghiệp và doanh nghiệp hoạt động trong KCN
Theo kinh nghiệm chung của quốc tế, ĐTM là một quá trình chính thức được
sử dụng để dự báo những hệ quả về môi trường (tích cực hay tiêu cực) của một kế
hoạch, chính sách, chương trình, dự án trước khi quyết định thực hiện, đồng thời đề
xuất các biện pháp để điều chỉnh tác động đến mức chấp nhận hoặc để nghiên cứu
giải pháp công nghệ mới6.
Nếu nhìn nhận dưới góc độ là một định chế pháp lý, ĐTM là hệ thống các
quy tắc xử sự mà các chủ thể cần thực hiện khi tiến hành các dự án đầu tư có khả
năng tác động đến môi trường. Với cách tiếp cận này, có thể thấy rằng bản chất
pháp lý của ĐTM chính là nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ yêu cầu của quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường, từ nghĩa vụ hiến định của tất cả cá nhân, tổ chức về bảo

vệ môi trường
Thông qua ĐTM, các vấn đề liên quan đến tác động môi trường do hoạt động
của khu công nghiệp và doanh nghiệp khu công nghiệp nói chung và vấn đề nước
thải nói riêng sẽ được xem xét, cân nhắc để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hạn
chế hoặc có thể loại trừ các tác động xấu tới môi trường của nước thải khu công
nghiệp.
- Các quy định về giấy phép xả thải nước thải vào môi trường
Giấy phép xả nước thải là một loại giấy phép tài nguyên nước do nhà nước
cấp cho cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, cơ sở nuôi trồng thủy sản trước khi đi
vào hoạt động. Nội dung giấy phép là các yêu cầu về việc xả nước thải nhằm mục
đích bảo vệ nguồn nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
6

Mai Thế Toản, Đánh giá môi trường chiến lược, Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội
nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, Bộ tài nguyên và Môi trường, Hà Nội, 29/09/2015

15


nhân khác liên quan, không gây ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Giấy phép xả
thải nước thải giúp cơ quan nhà nước có thể quản lý, theo dõi nhằm để góp phần
bảo vệ môi trường nước cũng như đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh không ảnh
hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
Các nội dung quy định về giấy phép xả nước thải có thể có những nội dung
chính như: Nguồn nước tiếp nhận nước thải: giấy phép chỉ rõ nơi nước thải của cơ
sở được cấp phép được phép xả vào; Phương thức xả nước thải: giấy phép yêu cầu
cơ sở được cấp phép phải xả thải vào hệ thống dẫn nước thải sau khi đã xử lý cụ thể
đến vị trí xả vào nguồn nước và phương thức xả tại vị trí xả nước thải vào nguồn
nước; Chế độ xả nước thải: Giấy phép quy định cơ sở được xả nước thải liên tục
(24h/ngày đêm) hay gián đoạn; chu kỳ xả, thời gian xả trong một chu kỳ; xả theo

mùa vụ sản xuất hay theo các thời điểm trong ngày; Lưu lượng xả nước thải lớn
nhất: giấy phép giới hạn quy mô xả tối đa của cơ sở được cấp phép trong 1 ngày
đêm và 1 giờ; Chất lượng nước thải: Giấy phép ghi rõ Quy chuẩn Việt Nam về chất
lượng nước thải phải đạt, hệ số áp dụng; giới hạn các thông số và nồng độ chất ô
nhiễm chính có trong nước thải trước khi xả vào nguồn nước tiếp nhận; Các nghĩa
vụ và quyền lợi của tổ chức/cá nhân được cấp phép….
- Các quy định về hệ thống xử lý nước thải KCN: Khi xử lý nước thải khu
công nghiệp có thể sử dụng rất nhiều mô hình hệ thống xử lý nước thải khu công
nghiệp khác nhau tùy mỗi loại mà ta ứng dụng với rất nhiều loại nước thải công
nghiệp của các nhà máy bao gồm: nước thải của khu chế xuất nhà máy, nước thải
sản xuất mỹ phẩm, sắt-thép, xi măng, nước thải sản xuất giày dép đồ gia dụng…
Song, việc xây dựng và vận hành loại hệ thống hệ thống xử lý nước thải nào cũng
phải đảm bảo xử lý triệt để các chất gây ô nhiễm trong nước thải, đảm bảo quy
chuẩn kỹ thuật về môi trường trước khi xả nước thải thải vào nguồn tiếp nhận.
Thứ ba, các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quản
lý nước thải KCN.
Đây là nhóm quy phạm pháp luật về chế tài xử phạt các hành vi vi phạm
pháp luật về quản lý chất thải, trong đó có nước thải. Chế tài xử phạt vi phạm pháp

16


luật về quản lý chất thải, trong đó có nước thải sẽ tác động trực tiếp đến thái độ,
hành vi của các chủ thể trong việc thực hiện pháp luật về quản lý chất thải, trong đó
có nước thải. Chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về quản lý chất thải, trong đó có
nước thải ở Việt Nam chủ yếu là chế tài phạt hành chính, trách nhiệm hình sự, trách
nhiệm bồi thường thiệt hai đối với các chủ thể không thực hiện đúng quy định về
quản lý nước thải. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nếu mức phạt nhẹ sẽ không đủ
sức răn đe chủ thể vi phạm nhưng ngược lại, nếu phạt quá nặng có thể gây phản ứng
tiêu cực từ phía chủ thể vi phạm. Việc quy định mức phạt cần được xem xét cân

nhắc kĩ lưỡng, cụ thể để đảm bảo hiệu quả và mục tiêu đặt ra.
1.2.2 Những nguyên tắc của pháp luật quản lý nước thải khu công nghiệp
Trên cơ sở quan điểm bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội, các
nhà khoa học luật môi trường Việt nam đưa ra 05 nguyên tắc của Luật Môi trường
Việt Nam gồm: i) Bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành; ii) Bảo
đảm phát triển bền vững; iii) Bảo đảm tính thống nhất trong quản lý và bảo vệ môi
trường; iv) và v) nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền7.
Có thể xem đó là những nguyên tắc cơ bản của Luật môi trường. Tuy nhiên,
trong phạm vi của Luận văn này tác giả muốn tiếp cận một số nguyên tắc cụ thể, có
thể nói là đặc thù của pháp luật quản lý chất thải, trong đó có nước thải của doanh
nghiệp khu công nghiệp với tư cách là một bộ phận quan trọng của pháp luật môi
trường, bao gồm các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, Nguyên tắc chi phí – lợi ích
Đây là một nguyên tắc tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khu công nghiệp. Có thể nói hầu hết các doanh nghiệp khu công
nghiệp hoạt động đều có mục đích lợi nhuận là chính. Và để đạt được lợi nhuận các
doanh nghiệp phải tiết kiệm các chi phí không cần thiết, tiết kiệm các nguồn vật
liệu, năng lượng để đạt được mục tiêu làm sao có lợi nhuận cao nhất. Trong đó, nếu
pháp luật về quản lý nước thải không có các quy định cụ thể thì một số doanh

7

Viện Đại học mở Hà Nội, Giáo trình Luật Môi trường, Hà Nội, 2012, từ trang 33

17


nghiệp sẵn sàng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để vi phạm môi trường. Tuy nhiên,
nếu một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh có đầy đủ các quy phạm pháp luật, quy định
trách nhiệm của doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường,

quản lý nước thải theo quy định như việc thu gom, phân loại, giảm thiểu, tái chế, tái
sử dụng và xử lý nước thải, thì buộc doanh nghiệp phải tuân theo. Nếu vi phạm thì
sẽ bị các chế tài của pháp luật, như các chế tài hành chính, dân sự và phải chịu hậu
quả bất lợi. Do đó, đây là nguyên tắc buộc doanh nghiệp phải cân nhắc giữa chi phí
phục hồi môi trường, phục hồi sức khoẻ con người... với chi phí quản lý nước thải,
chi phí và lợi ích kinh tế từ việc tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý.
Như chúng ta biết “đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư phát triển” . Tuy
nhiên, hiện nay do yếu tố khách quan và chủ quan nên nhận thức của doanh nghiệp
Việt Nam về vấn đề trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường
chưa cao, thậm chí nhiều doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật môi trường vì lợi
nhuận. Những yếu tố khách quan dẫn đến doanh nghiệp vi phạm pháp luật quản lý
nước thải gây ra ô nhiễm môi trường, đó có thể là do hầu hết các doanh nghiệp Việt
Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu, tiêu tốn năng
lượng, gây ô nhiễm môi trường, các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao, tiên tiến
chiếm tỷ lệ nhỏ so với công nghệ trung bình và lạc hậu 8; hệ thống pháp luật môi
trường nói chung và quản lý chất thải nói riêng chưa hoàn thiện, chưa theo kịp với
thực tiễn của sự phát triển của xã hội; đội ngũ cán bộ quản lý môi trường chưa đáp
ứng được đòi hỏi của xã hội, còn thiếu về nhân lực và yếu về trình độ. Về các yếu tố
chủ quan, chúng ta nhận thấy đó là sự vi phạm pháp luật quản lý chất thải cố ý của
các doanh nghiệp vì lợi nhuận, các doanh nghiệp bất chấp các quy định của pháp
luật quản lý chất thải, lợi dụng những sơ hở trong các quy định của pháp luật để vi
phạm pháp luật môi trường, nhằm mục đích lợi nhuận; là sự tắc trách, đùn đẩy, né
tránh trách nhiệm của một số cơ quan quản lý về môi trường; là việc xem trọng lợi
ích kinh tế trước mắt, tạo điều kiện cho nhà đầu tư, nhưng lại không chú trọng về
vấn đề môi trường của một số địa phương v.v.. Những vấn đề nêu trên có thể nói là
8

Chu Thái Thành (2009), “Bảo vệ môi trường yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, số 00, t , tr
55.


18


một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường trong thời gian qua của
các doanh nghiệp.
Nếu các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến các lợi ích kinh tế ngắn hạn, mà
không tính đến các chi phí dài hạn về môi trường và xã hội, thì khó mà có thể được
coi là một đầu tư đúng đắn9… Xét ở góc độ chi phí lợi ích thì nếu doanh nghiệp
tuân thủ nguyên tắc này doanh nghiệp sẽ đạt được hiệu quả trong sản xuất, kinh
doanh xét dưới gốc độ phát triển bền vững của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
tính toán bỏ ra một khoản tiền đầu tư về hệ thống xử lý chất thải, hoặc thay đổi công
nghệ sẽ hạn chế những rủi ro phát sinh trong trương lai. Những lợi ích mà doanh
nghiệp khi đầu tư công nghệ sạch, tiến tiến, hoặc lắp đặt hệ thống xử lý chất thải có
thể đạt được: một là, tiết kiệm được nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất (do
không bị lãng phí) phục vụ lại cho việc sản xuất, hoặc có thể bán các chất thải đã
được phân loại tại nguồn cho hoạt động sản xuất khác; hai là, không phải chịu các
chế tài của pháp luật hành chính, như bị xử phạt vi phạm hành chính, bị yêu cầu
khắc phục các yếu tố môi trường như đất, nước, không khí…do doanh nghiệp gây
ra, vì để khắc phục được những yếu tố này trở lại trạng thái tự nhiên của nó thì chi
phí bỏ ra là rất lớn; ba là, vì đã đầu tư cho hệ thống xử lý chất thải của mình cũng
như thực tốt trách nhiệm bảo vệ môi trường doanh nghiệp sẽ không phải bồi thường
cho những thiệt hại về sức khoẻ, bệnh tật, tinh thần, kinh tế …những khoản bồi
thường này thường là không nhỏ; bốn là, với việc bỏ ra chi phí đầu tư về hệ thống
xử lý chất thải, hoặc thay đổi công nghê thân thiện với môi trường, doanh nghiệp sẽ
được hưởng trợ cấp, ưu đãi về vay vốn, về đất đai và tạo các điều kiện thuận lợi
khác. Và cuối cùng có thể nói một lợi ích mang tính lâu dài và có ảnh hưởng đến sự
thành công của doanh nghiệp trên thương trường xét ở trong phạm vi trong nước và
cả nước ngoài đó chính là thương hiệu của doanh nghiệp.
Tóm lại, nếu nhìn một cách khách quan, toàn diện, thì việc bỏ ra một khoản
tiền nhất định để đầu tư cho hoạt động quản lý chất thải của mình như đầu tư hệ

thống xử lý chất thải, thay đổi công nghệ…, tuân thủ các quy định của pháp luật về
9

Xem: Quản lý chất thải (2007), Chương trình phát triển bền vững với phương thức hàng đầu trong ngành mỏ, tr.4 . Lấy
từ trang web: />
19


quản lý chất thải thì những khoản đầu tư này chính là đầu tư cho phát triển và mang
lại lợi ích cho doanh nghiệp.
Thứ hai, Nguyên tắc h n ch phát thải
Nguyên tắc này đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp với việc áp dụng các
biện pháp nhằm hạn chế phát thải chất thải vào môi trường.
Hạn chế phát thải được hiểu là trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh
doanh, doanh nghiệp phải thực hiện các phương pháp, biện pháp, công nghệ để hạn
chế đến mức thấp nhất lượng chất thải phải thải ra môi trường. Thông qua đó, làm
giảm các hoạt động quản lý chất thải tiếp theo của doanh nghiệp như phân loại, thu
gom, vận chuyển và xử lý chất thải. Nguyên tắc này khác nguyên tắc kiểm soát tại
nguồn, vì kiểm soát tại nguồn, nghĩa là các chất thải trước khi thải ra ngoài môi
trường đều được kiểm soát để xử lý. Còn hạn chế phát thải là làm giảm lượng chất
thải mà doanh nghiệp thải ra môi trường, nguyên tắc này đòi hỏi trong các hoạt
động, sản xuất đều phải hạn chế chất thải, chứ không phải để đến cuối công đoạn
sản xuất lúc này chất thải thải ra mới xử lý (chất thải cuối đường ống). Làm sao để
hạn chế được các chất thải gây ô nhiễm môi trường là một vấn đề quan trọng, không
chỉ là vấn đề của doanh nghiệp mà nó là vấn đề của toàn xã hội. Do đó, pháp luật
môi trường đã quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường là của toàn xã hội, chứ
không riêng gì một cá nhân, tổ chức nào.
Để thực hiện nguyên tắc này pháp luật yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng
hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái
tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải. Sử dụng hợp lý tài

nguyên thiên nhiên cũng là phương pháp hạn chế phát thải. Hạn chế phát thải nên
được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bất cứ một hoạt động nào có có sử dụng tài
nguyên, năng lượng làm nguyên liệu cho sản xuất, thì bên cạnh đó doanh nghiệp
cũng sẽ phát sinh một lượng chất thải nhất định. Do đó, thực hiện tốt nguyên tắc
này doanh nghiệp sẽ góp phần sử dụng năng lượng, tài nguyên thiên nhiên một cách
hiệu quả, không lãng phí. Bên cạnh đó để hạn chế phát thải, doanh nghiệp phải áp
dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường,

20


×