Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực hải quan từ thực tiễn chi cục hải quan sân bay quốc tế đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TRONG LĨNH VỰC
HẢI QUAN TỪ THỰC TIỄN CHI CỤC HẢI QUAN
SÂN BAY QUỐC TẾ ĐÀ NẴNG

TRẦN VĂN TUẤN

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TRONG LĨNH VỰC
HẢI QUAN TỪ THỰC TIỄN CHI CỤC HẢI QUAN
SÂN BAY QUỐC TẾ ĐÀ NẴNG
TRẦN VĂN TUẤN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THÁI MAI


HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
tôi; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

TRẦN VĂN TUẤN


LỜI CẢM ƠN

Bản luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của
Tiến sĩ Nguyễn Thái Mai, thuộc Khoa Luật - Đại học Luật Hà Nội, các cấp lãnh
đạo Cục Hải quan thành phố Đà Nẵng, Chi cục Hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế
Đà Nẵng, bạn bè đồng nghiệp công tác tại Cục Điều tra chống buôn lậu - Tổng cục
Hải quan, Trường Hải quan Việt Nam.

Tác giả luận văn

TRẦN VĂN TUẤN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................................... 2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 3

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu........................................................... 4
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................ 5
6. Cấu trúc của luận văn .......................................................................................... 5
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN ................................................. 6

1.1. Khái niệm nhãn hiệu ............................................................................. 6
1.1.1 Định nghĩa về nhãn hiệu ................................................................................. 6
1.1.2 Các loại nhãn hiệu: ....................................................................................... 10
1.1.3. Quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu ........................................................ 12

1.2 . Thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu........................................... 14
1.2.1. Khái niệm .................................................................................................... 14
1.2.2. Các biện pháp thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu ................................ 16

1.3. Thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải quan... 18
1.3.1. Đặc điểm của việc thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải
quan ...................................................................................................................... 21
1.3.2. Vai trò của việc thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải
quan ...................................................................................................................... 24
1.3.3. Cơ sở pháp lý của việc thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực
Hải quan ................................................................................................................ 28
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN TẠI CHI CỤC HẢI QUAN
SÂN BAY QUỐC TẾ ĐÀ NẴNG ....................................................................... 33


2.1. Khái quát về hoạt động thực thi quyền SHTT đối nhãn hiệu trong
lĩnh vực hải quan ........................................................................................ 33
2.1.1. Kiểm tra, giám sát hàng hoá XK, NK liên quan đến SHTT đối với nhãn hiệu

trong lĩnh vực Hải quan ......................................................................................... 33
2.1.2. Xử lý hàng hóa xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải
quan ...................................................................................................................... 35
2.1.3. Cơ quan Hải quan phối hợp với các cơ quan thực thi và chủ thể quyền, hợp
tác quốc tế về thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu........................................... 38

2.2. Thực trạng xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực
Hải quan tại Chi cục Hải quan sân bay quốc tế Đà Nẵng ........................ 42
2.2.1. Khái quát về Chi cục Hải quan sân bay quốc tế Đà Nẵng ............................ 42
2.2.3. Các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu thường xảy
ra tại địa bàn Hải quan thành phố Đà nẵng............................................................. 47

2.3. Những tồn tại và nguyên nhân đối với hoạt động thưc thi quyền
SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải quan .................................... 50
2.3.1. Các quy định pháp luật còn nhiều bất cập .................................................... 50
2.3.2. Nguồn lực và năng lực thực tế của cơ quan Hải quan còn nhiều hạn chế ...... 54
2.3.3. Cơ chế phối hợp giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan liên quan chưa
thường xuyên và sâu rộng, hiệu quả phối hợp còn thấp .......................................... 56
2.3.4. Công tác phối hợp giữa cơ quan Hải quan với các chủ sở hữu nhãn hiệu còn
hạn chế, chưa thật sự gắn kết ................................................................................. 57
2.3.5. Nhận thức của xã hội về công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong
lĩnh vực Hải quan còn hạn chế ............................................................................... 59
Chương 3. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN
SHTT ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN ..................... 61
3.1. Hoàn thiện khung pháp lý ............................................................................... 61
3.2. Nâng cao năng lực thực thi của cơ quan Hải quan ........................................... 67
3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đăng ký giám sát Hải quan về
SHTT .................................................................................................................... 72



3.4. Củng cố tổ chức bộ máy chuyên trách thực thi quyền SHTT tại cơ quan Hải
quan từ trung ương đến địa phương ....................................................................... 73
3.5. Tăng cường phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan thực thi . 75
3.6. Hợp tác với chủ thể quyền trong công tác thực thi quyền SHTT đối với nhãn
hiệu ....................................................................................................................... 76
3.7. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nhận thức cộng đồng .................................. 78
3.8. Tăng cường hợp tác quốc tế về thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong
lĩnh vực Hải quan quốc gia .................................................................................... 80
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 86
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

CHỮ VIẾT TẮT

Ý NGHĨA

1

APEC

Tổ chức kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

2

ASEAN


Tổ chức các nước Đông Nam Á

3

CCHQ

Chi cục Hải quan

4

CHQ

Cục Hải quan

5

DN

Doanh nghiệp

6

GATT

Hiệp định trị giá hải quan

7

HQ


Hải quan

8

HQCK

Hải quan cửa khẩu

9

KSHQ

Kiểm soát hải quan

10

KTHQ

Kiểm tra hải quan

11

KTSTQ

Kiểm tra sau thông quan

12

LHQ


Luật Hải quan

13

NK

Nhập khẩu

14

QC

Quá cảnh

15

QLRR

Quản lý rủi ro

16

QLT

Quản lý thuế

17

SAFE


Khung an ninh

18

SXKD

Sản xuất kinh doanh

19

TCHQ

Tổng cục Hải quan

20

TTHQ

Thủ tục hải quan

21

WCO

Tổ chức hải quan thế giới

22

WTO


Tổ chức thương mại thế giới.

23

XK

Xuất khẩu

24

XNC

Xuất nhập cảnh

25

XNK

Xuất nhập khẩu

26

SHTT

Sở hữu trí tuệ


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, SHTT là một công cụ đắc lực để phát triển
kinh tế - xã hội của các quốc gia. Thực tế cho thấy, nhiều công ty, doanh nghiệp đã
rất thành công nhờ khai thác có hiệu quả quyền SHTT. Xu thế này đã khẳng định tài
sản trí tuệ và quyền sở hữu tài sản trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Thực tế này
đã đặt ra yêu cầu phải gia tăng mối quan tâm tới vấn đề SHTT cả trên phương diện lý
luận lẫn thực tiễn cho mỗi quốc gia nếu muốn hội nhập thành công.
Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế (song phương và đa phương) về
bảo vệ quyền SHTT. Hiện nay, chúng ta đã là thành viên của các Điều ước quốc tế
quan trọng như Công ước Paris về bảo hộ SHCN, Hiệp ước hợp tác sáng chế (PCT),
Công ước Benre về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật… đặc biệt là Hiệp
định TRIPs khi nước ta gia nhập WTO năm 2007 là những cơ sở pháp lý quan trọng
để Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thương mại quốc tế.
Là một trong những đối tượng quan trọng của quyền SHTT, nhãn hiệu đóng
một vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, XK, NK của
các doanh nghiệp. Thông qua nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp có thể được người
tiêu dùng biết đến và sử dụng các sản phẩm do mình sản xuất ra, từ đó đáp ứng yêu
cầu mở rộng thị trường hàng hoá ra khu vực và thế giới.
Trong hoạt động XNK hàng hoá, cơ quan Hải quan đóng một vai trò quan
trọng trong việc thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại biên giới. Với chức
năng là cơ quan “gác cửa nền kinh tế đất nước”, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát, kiểm soát về Hải quan đối với hàng hoá XK, NK, phương tiện xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh Việt Nam. Trên phương diện khách quan và chủ quan, Hải quan
Việt Nam là cơ quan có đủ năng lực và điều kiện nhất để thực thi có hiệu quả quyền
SHTT đối với nhãn hiệu hàng xuất, nhập khẩu qua biên giới. Tuy nhiên thực tế hiện

1


nay, cơ quan Hải quan các cấp còn gặp nhiều vướng mắc cần làm rõ cả về lý luận
và thực tiễn.

Thực thi quyền SHTT do cơ quan Hải quan thực hiện đang là vấn đề mới được
triển khai thực hiện. Do đó, cần phải nghiên cứu một cách chuyên sâu về lý luận
khoa học đối với các vấn đề liên quan, giúp các nhà hoạch định chính sách cũng
như các nhà làm luật và các cơ quan thực thi có cơ sở triển khai thực hiện có hiệu
quả trên thực tế.
Việc xâm phạm các đối tượng quyền SHTT diễn ra phổ biến và nhiều nhất là
nhãn hiệu hàng hoá ở tất các các khâu trong dây chuyền cung ứng thương mại. Do
vậy, việc thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu đang là một vấn đề cấp bách được
cộng đồng các doanh nghiệp cũng như các cơ quan thực thi pháp luật đặc biệt quan
tâm. Đặc biệt là khi lưu lượng hàng hoá XNK ngày càng gia tăng, đòi hỏi cơ quan
Hải quan phải nỗ lực thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm.
Cơ quan Hải quan là cơ quan chủ quản được giao nhiệm vụ thực thi quyền
SHTT trong lĩnh vực Hải quan bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy
nhiên, kết quả đạt được còn hạn chế, thực tiễn áp dụng còn nhiều vướng mắc chưa
đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Do vậy, cần phải nghiên cứu, đánh giá một cách tổng
thể thực trạng thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải quan để có
giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác công tác này trên thực tế.
Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập cả về mặt lý luận và thực tiễn nêu
trên, tác giả đã chọn đề tài “Thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trong
lĩnh vực Hải quan từ thực tiễn Chi cục Hải quan sân bay Quốc tế Đà Nẵng” làm đề
tài nghiên cứu luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhưng rất ít bài viết, đề tài nghiên cứu về
các vấn đề liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền SHCN trong lĩnh vực Hải quan
như đề tài “Hoàn thiện các giải pháp thực thi SHCN đối với hàng hoá XNK ở Việt
2


Nam của Vũ Ngọc Anh (2001), đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành Hải quan

năm 2001. Tuy nhiên, đề tài trên nghiên cứu theo quy định của Luật Hải quan năm
2001 và các văn bản dưới luật về SHTT trước đây đã hết hiệu lực thi hành. Nhiều
vấn đề về lý luận và thực tiễn đề cập tại đề tài đã không còn phù hợp với tình hình
thực tiễn hiện nay. Một số bài viết liên quan được đăng tải rải rác trên báo, tạp chí.
Nhưng đối tượng nghiên cứu của đề tài, các bài viết trên là toàn bộ các đối tượng
của quyền SHCN, không đi sâu nghiên cứu một đối tượng quyền SHTT nào cụ thể.
Mặc dù, hàng hoá XNK có vi phạm quyền SHTT chủ yếu là vi phạm đối với
nhãn hiệu. Nhưng hiện nay chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu
một cách tổng thể vấn đề thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải
quan quốc gia, từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa, đấu tranh và xử lý các vi phạm về SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh
vực Hải quan. Vì vậy, đề tài “Thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trong
lĩnh vực hải quan từ thực tiễn Chi cục Hải quan sân bay Quốc tế Đà Nẵng” là vấn
đề tương đối mới mẻ và có nhiều khía cạnh để khai thác.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam về thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh
vực Hải quan; pháp luật và kinh nghiệm thực thi pháp luật của một số quốc gia điển
hình trên thế giới để từ đó rút ra một số bài học cho Việt Nam. Đồng thời, Luận văn
còn nghiên cứu sâu thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam thông qua hoạt động thực
tiễn của cơ quan Hải quan để làm sáng tỏ các quy định pháp luật Việt Nam.
Thông qua việc phân tích, luận giải và đánh giá về pháp luật và thực tiễn áp
dụng của Việt Nam, luận văn đã chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế trong việc áp dụng vào thực tế các quy định pháp luật Việt Nam. Từ đó đưa
ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi
quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải quan.
3



3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Luận văn là vấn đề thực thi quyền SHTT
đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải quan quốc gia theo quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật quốc tế, kinh nghiệm của một số quốc gia điển hình trên thế giới.
Hoạt động thực tiễn của Hải quan Việt Nam về thực thi quyền SHTT đối với nhãn
hiệu trong lĩnh vực Hải quan để có đánh giá một cách tổng thể, toàn diện về vấn đề
này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại chi cục
Hải quan sân bay Quốc tế Đà Nẵng trên cơ sở các quy định của điều ước quốc tế
điều chỉnh trực tiếp vấn đề thực thi quyền SHTT trong lĩnh vực Hải quan, các tài
liệu nghiên cứu, tài liệu nghiệp vụ của WTO, WCO và các quy định pháp luật của
Việt Nam.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sưu tầm và sử dụng các thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau tại kho dữ liệu của Tổng cục Hải quan, Cục Điều tra chống buôn
lậu - Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan thành phố Đà Nẵng, Chi cục Hải quan cửa
khẩu sân bay quốc tế Đà Nãng, Cục SHTT, các bài báo, tạp chí liên quan và các tài
liệu thu thập qua mạng Internet.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát
triển kinh tế, cải cách hành chính và hiện đại hoá ngành Hải quan. Tác giả đã dựa
trên các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu là: phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, kết hợp với các phương pháp đối chiếu so sánh,
4


thống kê, quy nạp để rút ra bản chất của các sự vật, hiện tượng thuộc đối tượng

nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
“Thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực hải quan từ

thực tiễn Chi cục Hải quan sân bay Quốc tế Đà Nẵng” là công trình khoa học đầu
tiên nghiên cứu một cách toàn diện về các khía cạnh pháp lý của công tác thực thi
quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải quan tại Chi cục Hải quan sân
bay quốc tế Đà Nẵng. Trên cơ sở kinh nghiệm thực thi pháp luật của một số quốc
gia điển hình trên thế giới, các văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia liên
quan cũng như thực tiễn công tác này tại Việt Nam, luận văn đã chỉ ra những hạn
chế, bất cập của pháp luật và thực tế thực thi pháp luật của Việt Nam, từ đó đề xuất
các giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, nâng cao
hiệu quả công tác này của Hải quan Việt Nam trên thực tế.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục kèm
theo, Luận văn bao gồm 03 chương với cấu trúc như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn
hiệu trong lĩnh vực Hải quan.
Chương 2: Thực trạng thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trong
lĩnh vực Hải quan tại Chi cục Hải quan sân bay quốc tế Đà Nẵng.
Chương 3: Một số dự báo và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền
SHTT đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực Hải quan.

5


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI
VỚI NHÃN HIỆU TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN


1.1. Khái niệm nhãn hiệu
1.1.1 Định nghĩa về nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã có từ thời cổ đại, thậm chí từ lúc con người còn tự cung cấp
những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những người thợ thủ công.
Thời đó, có những thương gia sáng tạo đã biết bán hàng hoá ra bên ngoài vùng sinh
sống của họ và thậm chí có khi tới những vùng rất xa xôi. Cách đây 3000 năm,
những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng chạm khắc chữ ký của mình trên các tác
phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất Trung Quốc đã bán
hàng hoá mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm trước và cùng
thời gian đó hàng ngàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã được sử dụng, kể cả
nhãn hiệu FORTIS mà sau này đã trở nên nổi tiếng đến nỗi bị sao chép và làm giả.
Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời Trung cổ mà việc sử dụng các dấu hiệu để phân
biệt hàng hoá của các thương gia và các nhà sản xuất đã khá phát triển. Tuy vậy,
tầm quan trọng về mặt kinh tế của chúng vẫn còn hạn chế. [29, tr.65]
Công nghiệp hoá và sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các
nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa
dạng cho hàng hoá cùng chủng loại. Thường nếu không có sự khác biệt rõ ràng đối
với người tiêu dùng, chúng thường chỉ khác nhau về chất lượng, giá cả và các đặc
tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được hướng dẫn, giúp họ suy xét các lựa
chọn và đi đến quyết định lựa chọn cho riêng mình trong số các hàng hoá cạnh
tranh. Do vậy, hàng hoá cần phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hoá trên
thị trường chính là nhãn hiệu hàng hoá.[29, tr.66]
Bằng việc giúp người tiêu dùng có quyết định lựa chọn giữa những hàng hoá
6


đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu hàng hoá khuyến khích chủ sở
hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm bán ra dưới nhãn
hiệu đó, để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng và không ngừng nâng cao uy
tín của mình trên thị thường đối với các sản phẩm do mình sản xuất ra. Bởi vậy,

nhãn hiệu “thưởng công” cho những người sản xuất hàng hoá chất lượng cao có
nguồn thu nhập một cách ổn định và kết cục là nhãn hiệu kích thích và thúc đẩy sự
phát triển kinh tế. [29, tr.66]
Theo cách tiếp cận được quy định tại Mục 1(1) của Luật Mẫu WIPO về nhãn
hiệu thì một nhãn hiệu hàng hoá là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng
hoá của doanh nghiệp này với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh [10].
Cho đến nay đã có khá nhiều các điều ước quốc tế song phương và đa phương
điều chỉnh các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu. Trong số này, có thể kể đến một số
điều ước quốc tế tiêu biểu như Công ước Paris 1883 về bảo hộ SHCN, Hệ thống
đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa Madrid (Thoả ước Madrid 1891và Nghị định
thư Madrid 1989), Hiệp định TRIPs 1994 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền SHTT. Tuy nhiên Công ước Paris, Hệ thống Madrid chưa
đưa ra được khái niệm về nhãn hiệu. Riêng Hiệp định TRIPs đã có quy định về khái
niệm nhãn hiệu như sau:
“Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt
hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ,
kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình học và tổ hợp các mầu sắc
cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký làm
nhãn hiệu” [35, 15].
Châu Âu bao gồm nhiều các quốc gia khác nhau nên có sự khác nhau trong
luật về nhãn hiệu của các quốc gia thành viên. Do sự khác nhau này và sự ảnh
hưởng của nó đến thị trường chung Châu Âu nên cần thiết phải có sự điều chỉnh hài
hoà ở cấp độ cộng đồng. Định nghĩa về nhãn hiệu được quy định ở Điều 2 Chỉ thị
7


89/104 và Điều 4 Quy định 40/94 của Cộng đồng chung Châu Âu (EC) như sau:
“Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày một
cách rõ ràng và chi tiết (represented graphically), đặc biệt là các từ, bao gồm tên

riêng, các phác hoạ hình ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng của hàng hoá hoặc của
bao bì sản phẩm, với điều kiện là những dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt
hàng hoá hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hoá, dịch vụ của các
chủ thể kinh doanh khác”.
Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ được điều chỉnh bằng đạo luật Lanham. Khác với Việt
Nam và Châu Âu, Lanham Act định nghĩa riêng biệt hai loại nhãn hiệu: nhãn hiệu
hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu hàng hoá được giải thích như sau:
“Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay
hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà:
(1) Được sử dụng bởi một người, hoặc nhiều người
(2) Được một người có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương mại và
xin đăng ký theo quy định tại luật này để xác định và phân biệt hàng hoá của người
đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với hàng hoá được sản xuất hoặc được
bán bởi những người khác và chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá thậm chí cả khi không
xác định được nguồn gốc đó.”[57].
Việt Nam là thành viên của nhiều điều ước quốc tế về nhãn hiệu bao gồm
Công ước Paris về SHCN và Hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế (Thoả ước
Madrid và Nghị định thư Madrid), Hiệp định TRIPs... Trước khi có Luật SHTT,
quyền SHTT ở Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau
như Bộ luật Dân sự, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, thậm chí bởi rất nhiều các
Quyết định của Cục SHTT. Luật SHTT năm 2005 là một đạo luật chuyên ngành đầu
tiên của Việt Nam về SHTT trên cơ sở pháp điển hoá các quy định của pháp luật về
SHTT đã được ban hành trước đó. Luật SHTT 2005 của Việt Nam không có điều
khoản cụ thể nào về định nghĩa nhãn hiệu mà khái niệm nhãn hiệu được quy định
trong phần giải thích từ ngữ. Theo đó, “nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt
8


hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” [13, 4]. Tuy nhiên, không
phải bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt cũng có thể trở thành nhãn hiệu vì

điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ được quy định tại Luật SHTT năm
2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009) như sau:
“Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1 - Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh,
kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều mầu sắc;
2 - Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.”[13, 72].
Như vậy, một nhãn hiệu có thể được bảo hộ nếu đáp ứng được hai điều kiện:
Thứ nhất, dấu hiệu phải “nhìn thấy được”, quy định này hẹp hơn quy định của
TRIPs “bất kỳ dấu hiệu nào”. Điều này có nghĩa rằng, các dấu hiệu như âm thanh,
mùi vị… không thể được đăng ký là nhãn hiệu theo quy định của pháp luật SHTT
Việt Nam.
Thứ hai, “khả năng phân biệt” là điều kiện bắt buộc của nhãn hiệu. Đây cũng
là chức năng chính của nhãn hiệu. Đặc điểm này là đặc điểm chung của nhãn hiệu
và do đó, nó giống với các điều ước quốc tế cũng như luật về nhãn hiệu của các
nước trên thế giới.
Nói tóm lại, “khả năng phân biệt” luôn luôn là đặc điểm cơ bản của nhãn hiệu.
Cả luật Việt Nam, luật Châu Âu và luật Hoa Kỳ đều không có điều khoản định
nghĩa nhãn hiệu. Khái niệm nhãn hiệu được hiểu qua các điều khoản khác, chẳng
hạn như quy định ở phần giải thích thuật ngữ (Việt Nam, Hoa Kỳ), hay trong điều
khoản quy định về “Các dấu hiệu là nhãn hiệu” (Châu Âu). Các điều khoản này
thường liệt kê các dấu hiệu thông thường có khả năng đăng ký nhãn hiệu. Mặc dù
các quy định còn có những điểm khác nhau, song chúng đều giống nhau ở cách tiếp
cận khái niệm theo chức năng phân biệt của nhãn hiệu.

9


Nhãn hiệu có nhiều chức năng, trong đó chức năng cơ bản nhất là tính phân

biệt. Pháp luật của cả Việt Nam, Châu Âu và Hoa Kỳ phù hợp với pháp luật quốc tế
đều dựa trên chức năng phân biệt để đưa ra khái niệm nhãn hiệu. Luật SHTT Việt
Nam không có điều khoản riêng về khái niệm nhãn hiệu, nhưng qua các điều khoản
cụ thể có thể hiểu nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy được và có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể
khác. Luật Châu Âu và luật Hoa Kỳ quy định mở hơn đối với các dấu hiệu có thể
làm nhãn hiệu. Đó là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt chứ không chỉ bó
hẹp ở các dấu hiệu nhìn thấy được. Do đó, các dấu hiệu không thông dụng như mùi
vị, âm thanh… cũng có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa chung về nhãn hiệu như sau: Là
những dấu hiệu dùng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh, biểu trưng hoặc
sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Nhãn hiệu
được coi là một loại tài sản vô hình của cá nhân hoặc tổ chức và là một trong các
đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ.
1.1.2 Các loại nhãn hiệu:
Nhãn hiệu thường là các dấu hiệu như một từ, ngữ (một cụm từ), hình ảnh,
biểu tượng, lô gô hoặc sự kết hợp các yếu tố này được sử dụng trên hàng hóa hoặc
dịch vụ để giúp người tiêu dùng có thể phân biệt được các sản phẩm, dịch vụ khác
nhau trên thị trường.
+ Dựa vào dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu thì có 3 loại nhãn hiệu:
* Nhãn hiệu chữ: bao gồm các chữ cái (có thể kèm theo cả chữ số), từ (có
nghĩa hoặc không có nghĩa; có thể là tên gọi, từ tự đặt…), ngữ (một cụm từ, có thể
là một khẩu hiệu trong kinh doanh)…VD: Nike, Vital.
* Nhãn hiệu hình: bao gồm hình vẽ, ảnh chụp, biểu tượng, hình khối (hình
không gian ba chiều);

10



* Nhãn hiệu kết hợp: kết hợp cả từ ngữ và hình ảnh. Những nhãn hiệu này có
thể được thể hiện đen trắng hoặc kết hợp cả màu sắc.
+ Dựa vào tính chất, chức năng của nhãn hiệu:
* Nhãn hiệu hàng hóa (trademarks): là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của
những người sản xuất khác nhau;
* Nhãn hiệu dịch vụ (service marks): là dấu hiệu để phân biệt dịch vụ do các
chủ thể kinh doanh khác nhau cung cấp.
* Nhãn hiệu tập thể (collective marks): Nhãn hiệu tập thể thường thuộc sở
hữu của một hiệp hội hoặc hợp tác xã mà các thành viên có thể sử dụng nhãn hiệu
tập thể để tiếp thị các sản phẩm của mình. Hiệp hội đó thường xây dựng tập hợp các
tiêu chuẩn về sử dụng nhãn hiệu tập thể (chẳng hạn tiêu chuẩn chất lượng) và cho
phép các thành viên sử dụng nhãn hiệu đó nếu họ đáp ứng các tiêu chuẩn đó. Nhãn
hiệu tập thể có thể là xem như một hình thức liên kết hiệu quả trong việc tiếp thị sản
phẩm, dịch vụ của một nhóm doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật khái niệm
về nhãn hiệu tập thể được hiểu như sau: Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để
phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu
đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức
đó.
* Nhãn hiệu chứng nhận (certification marks): Nhãn hiệu chứng nhận là
nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên
hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ,
nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất
lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang
nhãn hiệu. Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu do các tổ chức có chức năng kiểm
soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính… của hàng hóa, dịch vụ đăng ký, sau đó tổ
chức này có quyền cấp phép sử dụng cho bất kỳ chủ thể sản xuất, kinh doanh nào
nếu hàng hóa, dịch vụ của họ đáp ứng các tiêu chuẩn do chủ sở hữu nhãn hiệu
chứng nhận đặt ra.
11



* Nhãn hiệu liên kết: Nhãn hiệu liên kết là nhãn hiệu do cùng một chủ thể
đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc
tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau. Việc đăng ký nhãn hiệu liên kết mang lại
nhiều lợi ích cho chủ sở hữu nhãn hiệu. Chủ sở hữu các nhãn hiệu liên kết được độc
quyền sử dụng dấu hiệu có khả năng phân biệt cho nhiều loại hàng hóa, dịch vụ.
Bên cạnh đó, việc sử dụng nhãn hiệu liên kết tạo uy tín cho những sản phẩm, dịch
vụ mới của doanh nghiệp bởi nhãn hiệu đã từng được biết đến và chiếm được sự tín
nhiệm của người tiêu dùng.
* Nhãn hiệu nổi tiếng (famous marks): Những nhãn hiệu này là sự kết tinh
nỗ lực kinh doanh của doanh nghiệp cả về trí tuệ và vật chất, vì vậy nhãn hiệu nổi
tiếng là tài sản có giá trị rất lớn. Một số quốc gia phân biệt hai cấp độ: nhãn hiệu nổi
tiếng (well – known marks) là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi trong phạm vi quốc
gia và nhãn hiệu rất nổi tiếng (famous marks) là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi
trên thị trường quốc tế, mang tính toàn cầu. Những nhãn hiệu được coi là nổi tiếng
toàn cầu có thể kể đến như: CocaCola, NOKIA, Iphone, Google, Microsoft.
1.1.3. Quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
Theo Luật SHTT Việt Nam, quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng. [13]
Trong đó, quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại,
chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống
cạnh tranh không làm mạnh.
Với các định nghĩa trên, nhãn hiệu là một trong những đối tượng của quyền
SHTT nói chung và một trong những đối tượng của quyền SHCN nói riêng. Như
vậy, quyền SHTT đối với nhãn hiệu là quyền của tổ chức, cá nhân đối với nhãn hiệu
do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Đối với tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu toàn diện đối với tài sản trí tuệ của
12



mình "nhãn hiệu", vừa là người sáng tạo ra đồng thời là người sở hữu nó thì tổ
chức, cá nhân đó có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài
sản của mình. Theo quy định của Luật SHTT Việt Nam, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng
hoá có các quyền tài sản sau đây:
- Sử dụng, cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu của mình như: Gắn nhãn
hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương
tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông, chào bán,
quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ; NK hàng
hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
- Ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của mình, trừ các trường hợp sau
đây:
+ Việc lưu thông, NK, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị
trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải do
chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra
thị trường nước ngoài.
+ Sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu
nhãn hiệu đó đã đạt được sự bảo hộ một cách trung thực trước ngày nộp đơn đăng
ký chỉ dẫn địa lý đó.
Theo quy định chung, nội dung của quyền SHTT bao gồm quyền nhân thân và
quyền tài sản đối với các đối tượng quyền SHTT. Tuy nhiên, đối với nhãn hiệu Luật
SHTT không có quy định về quyền nhân thân đối với tác giả tạo ra nhãn hiệu mà
không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu, người tạo ra nhãn hiệu trong trường hợp này là
người được chủ sở hữu nhãn hiệu thuê để thiết kế, pháp luật không quy định cho họ
có quyền nhân thân nào đối với nhãn hiệu do mình tạo ra, họ chỉ được hưởng quyền
tài sản là nhận tiền thù lao thiết kế từ người chủ sở hữu nhãn hiệu.
Về căn cứ phát sinh, xác lập quyền SHTT đối với nhãn hiệu, quyền SHTT đối
với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật quốc gia

13


nơi đăng ký, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi nhãn hiệu đó được cơ quan có
thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ, đối với nhãn hiệu đã được đăng ký quốc tế chỉ
được bảo hộ tại quốc gia đó khi được cơ quan có thẩm quyền tại quốc gia đó công
nhận.
1.2 . Thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu
1.2.1. Khái niệm
Trước hết cần phân biệt giữa hai khái niệm: bảo hộ quyền SHTT và thực thi
quyền SHTT.
Bảo hộ quyền SHTT bao gồm ba nội dung: ban hành các quy định pháp luật
về SHTT (xây dựng pháp luật), cấp văn bằng bảo hộ hoặc giấy chứng nhận đăng ký
cho các chủ thể khác nhau khi đáp ứng các yêu cầu theo quy định (xác lập quyền)
và thực hiện các phương thức, biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể quyền (bảo vệ quyền).
Thuật ngữ “thực thi quyền SHTT” được sử dụng khá phổ biến trong khoa học
pháp lý, tuy nhiên xung quanh khái niệm này có nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong tiếng việt, thực thi có thể được hiểu như thực hiện, có nghĩa là làm cho
vấn đề hiện ra thành sự thực. Như vậy theo cách hiểu này thực thi quyền SHTT có
nghĩa là làm cho quyền SHTT của các chủ thể được thực hiện, có hiệu lực trên thực
tế.
Dưới góc độ pháp lý, thực thi quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) có thể được hiểu
theo nghĩa rộng, theo đó thực thi - quyền SHTT không chỉ là hoạt động áp dụng
pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà còn bao gồm hoạt động tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật, vận dụng pháp luật của các chủ thể liên quan để
đảm bảo cho quyền SHTT được tôn trọng.
Tác giả nước ngoài - Christopher Heath trong cuốn “Thực thi quyền sở hữu trí
tuệ” đã giải thích “thực thi không liên quan đến các hoạt động xác lập quyền SHTT
mà chỉ nhằm chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT để bảo đảm quyền SHTT đã

14


được xác lập được bảo vệ một cách có hiệu quả”. Theo cách hiểu này thì thực thi
quyền SHTT được hiểu theo nghĩa hẹp, không bao gồm việc xác lập quyền SHTT
mà đơn giản chỉ là các cách thức các biện pháp để ngăn chặn các hành vi xâm phạm
quyền SHTT.
Trong các điều ước quốc tế, thực thi quyền SHTT là thuật ngữ lần đầu tiên
được quy định trong Hiệp định TRIPs (đây là tiêu đề Phần III của Hiệp định TRIPs
- Enforcement of Intellectua Property Rights). Mặc dù Hiệp định không đưa ra sự
giải thích về thực thi quyền SHTT, nhưng tại nội dung phần này Hiệp định đã quy
định các yêu cầu chung và hệ thống các biện pháp (biện pháp hành chính, dân sự,
hình sự và các biện pháp kiểm soát biên giới) cũng như các chế tài tương ứng được
thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm ngăn chặn, xử lý các hành vi
xâm phạm quyền SHTT.
Cũng theo quy định của Hiệp định TRIPs, thực thi quyền SHTT được xem là
một lĩnh vực, một nội dung của hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể tại
Chú thích 3 của Hiệp định TRIPs, thuật ngữ “bảo hộ quyền SHTT” được giải thích là
“bảo hộ phải bao gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng đạt được, việc đạt được,
phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi các quyền SHTT”.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu như
sau, là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thông qua các thủ tục và
chế tài luật định để ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT đối với
nhãn hiệu, bảo đảm quyền SHTT đối với nhãn hiệu có hiệu lực trên thực tế.
Theo yêu cầu của Hiệp định TRIPS, pháp luật quốc gia của các Thành viên
WTO phải quy định các thủ tục thực thi cho phép hành động một cách có hiệu quả
chống lại hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được đề cập trong Hiệp định,
trong đó bao gồm các chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và
các chế tài nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm tiếp theo. Các thủ tục thực thi
phải được áp dụng theo cách thức nhằm tránh tạo ra những rào cản cho hoạt động

thương mại hợp pháp và nhằm quy định những biện pháp chống lạm dụng các thủ
15


tục thực thi (Điều 41.1). Hơn nữa, các thủ tục thực thi phải đúng đắn và công bằng,
không phức tạp và tốn kém một cách không cần thiết, không bao gồm những thời
hạn bất hợp lý hoặc những trì hoãn không có lý do chính đáng (Điều 41.2).
1.2.2. Các biện pháp thực thi quyền SHTT đối với nhãn hiệu
Đối với từng quốc gia, để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của các doanh nghiệp, người tiêu dùng và toàn xã hội và để xây dựng một môi
trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo sự cạnh tranh công bằng, tạo môi trường
đầu tư thuận lợi thì cần có cơ chế pháp lý đồng bộ bảo vệ có hiệu quả các quyền
SHTT trong quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá nhằm xử lý kịp
thời và nghiêm minh các hành vi xâm phạm quyền SHTT. Việc sử dụng các biện
pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT chính là nội dung của việc thực thi
quyền SHTT.Trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền
SHTT, theo phạm vi và nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan Nhà nước theo Luật
định, các cơ quan sẽ áp dụng một số biện pháp như sau:
- Biện pháp dân sự
Đây là các biện pháp do cơ quan Tòa án áp dụng để giải quyết các tranh chấp
giữa tổ chức, cá nhân liên quan đến quyền SHTT, bao gồm: Buộc chấm dứt hành vi
xâm phạm; Buộc xin lỗi, cải chính, công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
Buộc bồi thường thiệt hại; Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử
dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và
phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm
quyền SHTT với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của
chủ thể quyền SHTT. Ngoài ra cơ quan Tòa án còn có quyền được áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền
SHTT, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá bao
gồm: Thu giữ; Kê biên; Niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển;

Cấm chuyển dịch quyền sở hữu.
- Biện pháp hành chính
16


Việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh
tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp nhằm xử lý tổ
chức, cá nhân thực hiện các hành vi xâm phạm quyền SHTT bao gồm: xâm phạm
quyền SHCN gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về SHTT; sản xuất,
nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang
nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi
này.
- Biện pháp hình sự
Đây là biện pháp được cơ quan Tòa án áp dụng để xử lý cá nhân thực hiện
hành vi xâm phạm quyền SHTT có yếu tố cấu thành tội phạm. Theo nội dung tại
Điều 226. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp quy định tại Bộ luật hình sự số
100/2015/QH113 ngày 25/11/2015 quy định như sau:
Người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc
chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất chính từ 100.000.000
đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc
chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi
phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
Gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý 500.000.000 đồng trở
lên; Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên. Người phạm tội còn có thể
bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ,

cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Pháp nhân
thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: Pháp nhân thương
mại thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, đã bị xử phạt vi phạm hành

17


×