Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm đặc sản của địa phương Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp Cà phê Buôn Ma Thuột khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.24 KB, 102 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Thương mại quốc tế
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI CÁC
SẢN PHẨM ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG
VIỆT NAM – NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
CÀ PHÊ BUÔN MA THUỘT
Họ và tên sinh viên : Vũ Thị Minh Trang
Mã sinh viên : 0851020201
Lớp : Anh 15 – Khối 7 KT
Khóa : 47
Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Thị Thu Hà
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
i
MỤC LỤC
MỤC LỤC i
ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT iii
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
CHO CÁC SẢN PHẨM ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG 4
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 4
1.1.1. Quyền sở hữu trí tuệ 4
1.1.2. Bảo hộ quyền SHTT 5
1.2. BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CHO CÁC SẢN PHẨM ĐẶC SẢN
CỦA ĐỊA PHƯƠNG 7
1.2.1. Đặc điểm các sản phẩm đặc sản của địa phương 7
1.2.2. Lựa chọn hình thức bảo hộ quyền SHTT cho các sản phẩm đặc sản của địa


phương 8
1.2.3. Nội dung bảo hộ quyền SHTT cho các sản phẩm đặc sản của địa phương 11
1.2.4. Vai trò của bảo hộ quyền SHTT đối với các sản phẩm đặc sản của địa phương
22
CHƯƠNG II 26
THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI CÁC SẢN
PHẨM ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM – NGHIÊN CỨU TRƯỜNG
HỢP CÀ PHÊ BUÔN MA THUỘT 26
2.1. THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN SHTT ĐỐI VỚI CÁC SẢN PHẨM ĐẶC
SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM 26
2.1.1. Đặc điểm của sản phẩm đặc sản của địa phương Việt Nam 26
2.1.2. Hoạt động bảo hộ SHTT cho các sản phẩm đặc sản Việt Nam 27
2.2. THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN SHTT CÀ PHÊ BUÔN MA THUỘT 43
2.2.1. Giới thiệu về Cà phê Buôn Ma Thuột và vị trí Cà phê Buôn Ma Thuột trên thị
trường cà phê trên thế giới 43
2.2.2. Hoạt động bảo hộ quyền SHTT đối với Cà phê Buôn Ma Thuột 46
ii
2.2.3. Đánh giá 52
CHƯƠNG III 55
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI
VỚI CÁC SẢN PHẨM ĐẶC SẢN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM 55
3.1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CÁC MẶT HÀNG ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA
PHƯƠNG VIỆT NAM 55
3.1.1. Triển vọng về sản xuất 55
3.1.2. Triển vọng về kinh doanh 56
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG BẢO HỘ QUYỀN SHTT
ĐỐI VỚI SẢN PHẨM ĐẶC SẢN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM 57
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT TĂNG CƯỜNG BẢO HỘ QUYỀN SHTT
ĐỐI VỚI CÁC SẢN PHẨM ĐẶC SẢN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM 59
3.3.1. Nhóm giải pháp dành cho các sản phẩm đặc sản địa phương Việt Nam đã

được đăng bạ bảo hộ quyền SHTT 59
3.3.2. Nhóm các giải pháp dành cho mặt hàng đặc sản chưa được đăng bạ bảo hộ
quyền SHTT 70
3.3.3. Giải pháp phối hợp hoạt động của các tổ chức có liên quan 74
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
PHỤ LỤC 1 85
Danh sách đặc sản thiên nhiên nổi tiếng ở Việt Nam 85

iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng nước ngoài Tiếng Việt
EU European Union Liên minh Châu Âu
TRIPs Trade Related Intellectual
Property Rights
Hiệp định về khía cạnh
liên quan đến thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ
UPOV Union internationale pour
la protection des
obtentions vegetables
Liên minh quốc tế về bảo
hộ giống cây trồng mới
WIPO World Intellectual
Property Organization
Tổ chức Sở hữu trí tuệ
Thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế
giới
BMT Buôn Ma Thuột

KH&CN Khoa học&Công nghệ
NHCN Nhãn hiệu chứng nhận
NHTT Nhãn hiệu tập thể
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển
nông thôn
SHCN Sở hữu công nghiệp
SHTT Sở hữu trí tuệ
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh
UBND Uỷ ban Nhân Dân
XNK Xuất nhập khẩu
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của thương mại thế giới, sở hữu trí tuệ ngày càng trở
thành một vấn đề quốc tế và nhận được nhiều quan tâm trong mối quan hệ xuyên
biên giới giữa các quốc gia. Có thể nói sở hữu trí tuệ là một động lực thúc đẩy quan
trọng khuyến khích sáng tạo và ngoại thương nhưng đồng thời cũng có những tác
động phức tạp trong đời sống kinh tế xã hội của từng quốc gia. Như một ví dụ điển
hình, trở thành thành viên chính thức của WTO từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt
Nam không thể đứng ngoài luật chơi chung của thế giới về Sở hữu trí tuệ. Yêu cầu
hội nhập đã tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong hệ thống pháp lý của Việt
Nam trong lĩnh vực này.
Đối với mặt hàng là các sản phẩm đặc sản của địa phương, vấn đề bảo hộ các
quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lí đã trở thành một vấn
đề hết sức quan trọng, đó không chỉ là yêu cầu tất yếu khi hội nhập mà còn là cơ sở
pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp Việt Nam bảo vệ quyền lợi, uy tín của các
sản phẩm mang tính đặc sắc vùng miền nước Việt Nam ta trên thị trường nước
ngoài. Tuy nhiên, vấn đề bảo hộ cho các sản phẩm đặc sản này vẫn chưa được quan
tâm nhiều dẫn đến hàng loạt các sản phẩm đặc sản của địa phương nước ta đã bị các

doanh nghiệp nước ngoài dành quyền đăng kí bảo hộ. Điển hình năm 2011 vừa qua
đã có hàng loạt các chỉ dẫn địa lý nổi tiếng của Việt Nam như cà phê Buôn Ma
Thuột, Cà phê Đắk Lắk, Nước mắm Phan Thiết, Nước mắm Phú Quốc,… tiếp tục bị
đánh cắp thương hiệu. Và mặc dù câu chuyện bị đánh cắp thương hiệu của các
Doanh Nghiệp Việt Nam là không mới, nhưng cho đến nay việc xử lý của chính
quyền địa phương , cơ quan chức năng vẫn còn khá lung túng và phản ứng chậm.
Sự thật rằng việc chủ thể nước ngoài sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đồng
nghĩa với việc tài sản sở hữu trí tuệ của Việt Nam bị chiếm đoạt. Các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực có thể bị kiện khi xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài-
những nước đã bảo hộ độc quyền cho các nhãn hiệu nói trên. Thậm chí các doanh
nghiệp còn có thể bị ngăn chặn xuất khẩu ngay tại cửa khẩu biên giới do xâm phạm
độc quyền nhãn hiệu đã bảo hộ (Thanh Lương, 2011). Ngoài ra nếu là thương hiệu
của Doanh nghiệp bị đánh cắp thì họ sẽ phản ứng nhanh hơn vì nó là tài sản riêng
của Doanh nghiệp, còn đối với các chỉ dẫn địa lý như cà phê Buôn Ma Thuột hay
2
nước mắm Phú Quốc, là tài sản chung của địa phương và nhà nước, rất nhiều cá
nhân được hưởng lợi từ các thương hiệu này nên khi xảy ra sự cố, phản ứng của cơ
quan chức năng cũng chậm do vướng cơ chế đòi hỏi phải có giải pháp đề ra khắc
phục. Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ với các sản
phẩm đặc sắc của địa phương Việt Nam mình, em đã quyết định chọn đề tài: “ Bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm đặc sản của địa phương Việt Nam –
Nghiên cứu trường hợp Cà phê Buôn Ma Thuột” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm đặc sắc địa phương, thực trạng bảo hộ quyền
SHTT với những sản phẩm đặc sản của Việt Nam và nghiên cứu cụ thể trường hợp
Cà phê Buôn Ma Thuột, khóa luận đề ra những giải pháp nhằm tăng cường bảo hộ
quyền SHTT cho những sản phẩm đặc sản của địa phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động bảo hộ quyền SHTT với các sản

phẩm đặc sắc của địa phương, cụ thể là của trường hợp Cà phê Buôn Ma Thuột.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian, khóa luận nghiên cứu cụ thể trường hợp Cà phê Buôn Ma
Thuột.
- Về thời gian, khóa luận nghiên cứu hoạt động bảo hộ quyền SHTT cho
trường hợp Cà phê Buôn Ma Thuột từ năm 2005 đến nay. Các giải pháp được đưa
ra dựa trên tầm nhìn đến 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài khóa luận để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra đã sử dụng các phương
pháp như so sánh, phân tích tổng hợp, phân tích tình huống, kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn, tìm hiểu về lý thuyết cũng như tình hình thực thi vấn đề bảo hộ SHTT đối
với các sản phẩm đặc sắc của địa phương thông qua các tài liệu sưu tầm như sách ,
tài liệu lí thuyết, báo chí, nghiên cứu, chuyên đề đã thực hiện của thế giới và Việt
Nam.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài lời nói đầu, danh mục các bảng biểu, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của khóa luận bao gồm 3 chương:
3
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho
các sản phẩm đặc sản của địa phương
- Chương 2: Thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm đặc
sản của địa phương Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp cà phê Buôn Ma Thuột
- Chương 3: Một số giải pháp tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với
các sản phẩm đặc sản địa phương Việt Nam
4
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ CHO CÁC SẢN PHẨM ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ SỞ HỮU TRÍ
TUỆ

Trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế tri thức, hàm lượng trí tuệ trong sản
phẩm và dịch vụ ngày càng lớn lên, trở thành một yếu tố quyết định tính cạnh tranh.
Trên thực tế có rất nhiều sản phẩm của trí tuệ được tạo thành thông qua hoạt động
sáng tạo của con người. Tuy nhiên, không phải mọi thứ “trí tuệ” đều được bảo hộ
dưới dạng quyền sở hữu trí tuệ, và ngược lại không phải mọi quyền sở hữu trí tuệ
đều là sản phẩm của trí tuệ.
1.1.1. Quyền sở hữu trí tuệ
Tính đến nay, mặc dù có rất nhiều hiệp định và công ước quốc tế về Sở hữu trí
tuệ, nhưng có thể nói hiện vẫn chưa có một văn kiện nào đề cập đến một định nghĩa
cụ thể về thế nào là quyền sở hữu trí tuệ, có chăng thì cũng chỉ là liệt kê ra các nội
dung của sở hữu trí tuệ một cách khái quát.
Theo Điều 2 (viii), Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO) được ký tại Stockholm vào ngày 14 tháng 7 năm 1967, quy định rằng:
“ “Sở hữu trí tuệ” (intellectual property) bao gồm các quyền đối với:
- các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học,
- chương trình biểu diễn của các nghệ sỹ biểu diễn, các bản ghi âm và chương
trình phát thanh, truyền hình,
- sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người,
- các phát minh khoa học,
- kiểu dáng công nghiệp,
- nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn thương mại và tên
thương mại,
- bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh
Và tất cả các quyền khác từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp,
khoa học, văn học và nghệ thuật.”
1
Tuy nhiên, xét trong chừng mực nhất dịnh, những đối tượng nêu trên được
Công ước thành lập tổ chức WIPO bảo hộ đã không còn phù hợp với yêu cầu hiện
nay. Hiệp định TRIPs (Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT)
được ký tại Marrakesh, ngày 15/4/1994 có hiệu lực từ 1/1/1995 ra đời đã khắc phục

1
Convention Establishing the World Intellectual Property Organization 1967, Stockholm.
5
và giúp hoàn thiện hơn những hạn chế của Công ước WIPO với một danh mục đầy
đủ hơn về các quyền SHTT được liệt kê với danh nghĩa là các đối tượng của Hiệp
định này (Bùi Thiện Phú, 2006, tr. 6), cụ thể là: Quyền tác giả và Quyền liên quan
(Copyright and related rights), nhãn hiệu (Trademarks), chỉ dẫn địa lý
(Geographical indications), kiểu dáng công nghiệp (Industrial deisgns), sáng chế
(Patents), thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (Layout-designs(topographies) of
intergrated circuits) và thông tin bí mật (Protection of undisclosed information)
(TRIPS Agreement, 1994, tr. 6-16).
Ở Việt Nam, Sở hữu trí tuệ hiện nay vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ. Đề
cập đến quyền SHTT, tại Điều 4 (1), Luật SHTT nêu ra khái niệm quyền SHTT như
sau: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao
gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và
quyền đối với giống cây trồng.” Trong đó:
- Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu.
- Quyền liên quan đến tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của
tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống
cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng
quyền sở hữu (Luật SHTT 2005, Điều 4).
Tóm lại, dựa trên các cơ sở lý luận trên, quyền SHTT bao gồm các quyền với
ba nhóm đối tượng chính là: Quyền sở hữu công nghiệp (gồm sáng chế, giải pháp

hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, thiết kế
bố trí mạch tích hợp); Quyền tác giả và quyền liên quan (gồm các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học) và Quyền đối với giống cây trồng.
1.1.2. Bảo hộ quyền SHTT
Mặc dù hiện nay, trên thế giới có rất nhiều quan điểm về khái niệm của bảo hộ
quyền SHTT, tuy nhiên hiện vẫn chưa có một khái niệm cụ thể dành riêng cho vấn
6
đề này. Nguyễn Phan Minh Hằng (2005, tr. 20-21) cho rằng “cách định nghĩa phổ
biến nhất có thể hiểu bảo hộ quyền SHTT là việc Nhà nước, thông qua hệ thống
pháp luật – xác lập quyền của các chủ thể (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) đối với
các đối tượng sở hữu trí tuệ tương ứng và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ sự vi
phạm nào của bên thứ ba. Chủ thể các quyền đó sẽ được bảo đảm các điều kiện
thuận lợi nhất định vô thời hạn hoặc trong một thời gian nhất định đủ để khai thác
nhằm không những bù đắp các chi phí đầu tư tạo ra giá trị của các đối tượng đó mà
còn có thể thu được lợi nhuận để tiếp tục tạo ra các thành tựu mới. Việc xác lập
quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện dưới hình thức cấp văn bằng bảo hộ cho chủ thể
của quyền sở hữu đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ tương ứng.”
Từ khái niệm trên, có thể thấy bản chất của bảo hộ quyền SHTT là sự bảo hộ
từ phía Nhà nước đối với các cơ quan thực thi theo luật định và các cam kết ràng
buộc trên cơ sở đáp ứng các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã kí kết hoặc gia nhập.
Tuy nhiên, cũng phải biết, trên thực tế, bảo hộ quyền SHTT không chỉ là trách
nhiệm của mình Nhà nước mà còn là trách nhiệm, quyền lợi của các cá nhân, tổ
chức những đối tượng được hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ tài sản trí tuệ,
thường được hiểu là hành động tự bảo vệ của chủ sở hữu. Do vậy khi đề cập đến
vấn đề bảo hộ quyền SHTT không nên bỏ qua những chủ thể này.
Đứng trên phương diện của các chủ thể nắm giữ quyền sở hữu (chủ sở hữu
quyền SHTT hoặc người được chủ sở hữu quyền SHTT chuyển nhượng, chuyển
giao quyền SHTT), có thể hiểu bảo hộ quyền SHTT là việc chủ thể đó dựa trên các
quyền SHTT đã được pháp luật thừa nhận, thực hiện quyền của mình trong phạm vi
đã được xác lập theo quy định của pháp luật và phù hợp với bản chất của đối tượng

sở hữu trí tuệ trong thời hạn bảo hộ, đồng thời có quyền và trách nhiệm áp dụng các
biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền SHTT của mình (Nguyễn Phan
Minh Hằng, 2005, tr. 22).
Bên cạnh đó, nội dung của hoạt động bảo hộ quyền SHTT sẽ bao gồm ba hoạt
động chính là hoạt động xác lập quyền SHTT của các chủ thể, khai thác - quản lý
quyền SHTT và hoạt động bảo vệ quyền SHTT chống lại bất kì hành vi xâm phạm
nào của bên thứ ba. Trong đó:
- Hoạt động xác lập quyền SHTT là hoạt động chủ thể đủ điều kiện nắm giữ
quyền làm thủ tục đăng ký, xác lập quyền SHTT theo quy định của pháp luật cho
đối tượng SHTT.
7
- Hoạt động khai thác – quản lý quyền SHTT là hoạt động khai thác, sử dụng
và quản lý đối tượng SHTT dựa trên quyền SHTT đã được xác lập cho đối tượng
SHTT đó.
- Hoạt động bảo vệ quyền SHTT là hoạt động sử dụng các biện pháp pháp lý
ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền SHTT nhằm mục đích bảo vệ quyền SHTT
đối với đối tượng SHTT đã xác lập quyền.
Tóm lại, bảo hộ quyền SHTT có thể hiểu là một phương thức bảo hộ tài sản vô
hình, một tài sản có giá trị, dễ bị xâm phạm và khó tự bảo vệ, nhằm đảm bảo cho
chủ thể sở hữu có thể khai thác giá trị kinh tế từ các đối tượng SHTT đó. Việc bảo
hộ quyền SHTT không chỉ là trách nhiệm của mình Nhà nước mà còn là trách
nhiệm, quyền lợi của các cá nhân, tổ chức những đối tượng được hưởng lợi ích trực
tiếp và gián tiếp từ tài sản trí tuệ. Nội dung hoạt động bảo hộ quyền SHTT bao gồm
ba hoạt động chính là hoạt động xác lập quyền SHTT của các chủ thể, quản lý và
bảo vệ quyền đó, chống lại bất kì hành vi xâm phạm nào của bên thứ ba.
1.2. BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CHO CÁC SẢN PHẨM ĐẶC
SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG
1.2.1. Đặc điểm các sản phẩm đặc sản của địa phương.
Trên thế giới có rất nhiều những quan điểm nêu ra liên quan đến khái niệm đặc
sản địa phương, tuy nhiên hiện chưa có một tài liệu chính thống nào đề cập riêng

đến khái niệm này. Theo khái niệm chung nhất, có thể hiểu “Đặc sản địa phương” là
cách gọi nói chung dành cho những sản phẩm, mặt hàng mang tính chất đặc thù, có
những đặc điểm riêng nổi trội do điều kiện tự nhiên, con người và truyền thống nơi
xuất xứ là vùng, miền, địa phương nhất định, và chỉ có thể mang những đặc tính đó
khi sản xuất tại chính vùng miền, địa phương đó.
Đề cập đến khái niệm này, Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục SHTT (2007, tr4)
có nêu ra khái niệm về đặc sản như sau: “ “Đặc sản” là sản phẩm có nguồn gốc từ
một khu vực, địa phương, vùng địa lý cụ thể, có những tính chất đặc thù về hình
thái và chất lượng không giống các sản phẩm cùng loại khác; và các đặc tính này
chủ yếu có được là do các điều kiện tự nhiên, con người vùng sản xuất, chế biến sản
phẩm tạo ra.”
Thêm vào đó, cũng phải hiểu khái niệm đặc sản không nhất thiết chỉ về những
sản phẩm, sản vật được ra đời đầu tiên tại vùng, miền hay địa phương nhưng nó
mang tính chất thông dụng, phổ biến tại địa phương hay có chất lượng cao hơn hẳn
8
những sản phẩm cùng loại và được nhân dân địa phương coi như sản phẩm truyền
thống của địa phương mình.
Qua đó có thể hiểu những sản phẩm đặc sản của địa phương là những sản
phẩm có nguồn gốc từ một khu vực, địa phương, vùng địa lý cụ thể, có những tính
chất đặc thù về hình thái và chất lượng so với các sản phẩm cùng loại khác. Các đặc
thù đó chủ yếu có là do sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, truyền thống, văn hóa,
con người vùng sản xuất, chế biến sản phẩm tạo ra. Nó là một loại sản phẩm đặc
biệt chỉ có thể sản xuất, chế biến để có đặc tính vượt trội đó tại các vùng, miền, địa
phương nhất định. Chính vì thế, các sản phẩm đặc sản thường được người tiêu dùng
ưa chuộng hơn trên thị trường mua bán. Chúng đóng vai trò không nhỏ trong nền
kinh tế các nước, đặc biệt trong quá trình hội nhập ngày nay, các sản phẩm đặc sản
này chiếm một khối lượng không ít trong kim ngạch xuất nhập khẩu của nhiều quốc
gia trên thế giới.
1.2.2. Lựa chọn hình thức bảo hộ quyền SHTT cho các sản phẩm đặc sản
của địa phương

Như đã nêu ở trên, các sản phẩm đặc sản địa phương là những sản phẩm có
chất lượng, giá trị cao, được người tiêu dùng ưa thích. Chính vì tính kinh tế của nó,
những mặt hàng này rất dễ bị bày bán thiếu tổ chức trên thị trường, rất nhiều sản
phẩm kém chất lượng bị trà trộn, mượn danh đánh lừa người tiêu dùng. Một giải
pháp giúp cho những mặt hàng này có chỗ đứng vững vàng hơn trên thị trường là
người sản xuất phải được bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp bởi pháp luật là
đăng ký bảo hộ quyền SHTT cho các sản phẩm đặc sản này.
Dựa vào đặc tính đặc biệt của các sản phẩm đặc sản địa phương là chất lượng
vượt trội liên quan và gắn liền với địa danh nên việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối
với tên địa danh là giải pháp bảo hộ tốt nhất dành cho các sản phẩm này. Theo đó,
các hình thức bảo hộ phù hợp cho các sản phẩm đặc sản địa phương là chỉ dẫn địa
lý, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể. Từ đó, căn cứ theo đặc điểm bảo hộ
của ba hình thức nêu trên, ta sẽ chọn ra hình thức phù hợp đối với từng loại sản
phẩm.
1.2.2.1. Bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận
9
Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục SHTT (2007, tr16-17) nêu ra các điều kiện
áp dụng cho hình thức bảo hộ quyền SHTT cho các đặc sản địa phương bằng
NHCN như sau:
Đối với các sản phẩm áp dụng hình thức bảo hộ này, yêu cầu phải có thị
trường, tiềm năng phát triển; có nhiều nhà sản xuất kinh doanh trong cùng một khu
vực với chất lượng, nhãn hiệu, mẫu mã khác nhau và chưa được kiểm soát; danh
tiếng, uy tín sản phẩm giảm; có tình trạng hàng giả, hàng nhái
Đa số các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm sử dụng hình thức bảo hộ
NHCN thường chưa nhận thức được sự cần thiết phải giữ gìn uy tín chất lượng sản
phẩm từ địa phương mình. Các nhà sản xuất này thường gặp khó khăn trong việc
tập hợp các nhà sản xuất cùng tình nguyện xây dựng nhãn hiệu chung cho loại sản
phẩm nhất định bảo đảm các tiêu chuẩn, yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng và khó
khăn trong việc huy động kinh phí để cùng nhau xây dựng và phát triển nhãn hiệu
chung.

Về chính quyền địa phương, chính quyền địa phương có chủ trương phát triển
sản phẩm và sẵn sàng hỗ trợ về chuyên môn, kinh phí cho việc xây dựng và phát
triển nhãn hiệu; đồng thời cho phép hoặc thành lập các tổ chức có đủ điều kiện để
đăng ký và quản lý nhãn hiệu chứng nhận các đặc tính nhất định (về nguồn gốc chỉ
dẫn địa lý, chất lượng ) của sản phẩm.
Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục SHTT cũng đã nhận định hình thức bảo hộ
này bao gồm công việc chuẩn bị các điều kiện để thực hiện không phức tạp, tốn
kém và không phụ thuộc nhiều vào các đơn vị chuyên môn như các hình thức bảo
hộ khác. Thời gian đòi hỏi khá ngắn và có thể quản lý được nguồn gốc, chất lượng
sản phẩm thông qua việc kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu và kiểm tra các đặc tính
của sản phẩm mang nhãn hiệu. Tuy nhiên, do sử dụng hình thức bảo hộ này, chất
lượng và các yêu cầu khác đối với sản phẩm mang nhãn hiệu sẽ do chủ NHCN đặt
ra và áp dụng nên hình thức này sẽ có thể không thể hiện đúng chất lượng đặc thù
của đặc sản địa phương. Khâu kiểm soát, chứng nhận đặc tính của sản phẩm trong
hình thức này không được tổ chức thực hiện đồng bộ từ khâu sản xuất đến đưa sản
phẩm ra thị trường; việc xác nhận các đặc tính và chất lượng của sản phẩm chỉ dựa
trên kết quả đánh giá xác xuất các đặc tính và chất lượng sản phẩm. Bởi thế, có thể
thấy đây là hình thức bảo hộ với thủ tục đơn giản nhất, tuy nhiên lại có tính bảo hộ
10
hạn chế, thấp nhất trong ba hình thức bảo hộ quyền SHTT cho các sản phẩm đặc
sản địa phương.
1.2.2.2. Bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu tập thể
Đối với hình thức bảo hộ bằng NHTT, sản phẩm áp dụng hình thức bảo hộ này
tương đối giống với các sản phẩm áp dụng hình thức bảo hộ NHCN đã nêu trên.
Khác với hình thức bảo hộ NHCN, các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm áp dụng
hình thức bảo hộ NHTT thường đã có nhận thức được sự cần thiết phải giữ gìn uy
tín chất lượng sản phẩm từ địa phương mình; tự nguyện tham gia cùng xây dựng
nhãn hiệu chung cho loại sản phẩm, bảo đảm các đặc tính nhất định (nguồn gốc,
tiêu chuẩn, yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng ); đóng góp kinh phí để cùng nhau xây
dựng và phát triển nhãn hiệu chung. Đồng thời chính quyền địa phương, ngoài chủ

trương phát triển sản phẩm và sẵn sàng hỗ trợ về chuyên môn, kinh phí cho việc xây
dựng và phát triển nhãn hiệu, còn hướng dẫn, hỗ trợ thành lập tổ chức tập thể và
tiến hành thủ tục đăng ký, quản lý NHTT (Bộ Khoa học và Công Nghệ, Cục SHTT,
2007, tr16).
Đánh giá hình thức này, nhìn chung hình thức bảo hộ quyền SHTT cho các
đặc sản địa phương bằng NHTT có thủ tục và việc chuẩn bị cho việc đăng ký bảo
hộ không quá phức tạp, tốn kém; và thời gian đòi hỏi khá ngắn. Với hình thức này,
tuy cơ quan nhà nước không tham gia nhiều vào công tác quản lý nhưng đã có tập
thể là chủ nhãn hiệu đứng ra đảm nhiệm; cho thấy hình thức bảo hộ này có tính bảo
hộ cao hơn hình thức bảo hộ dưới NHCN. Mặc dù vậy, hình thức bảo hộ này vẫn
chưa là hình thức bảo hộ tốt nhất cho các đặc sản địa phương do chất lượng và yêu
cầu khác đối với sản phẩm mang nhãn hiệu do tập thể thống nhất và áp dụng vẫn có
thể không thể hiện đúng với chất lượng đặc thù của sản phẩm; đặc biệt là lượng
người sử dụng sẽ bị hạn chế, và có thể sẽ ảnh hưởng tới khả năng đăng ký và sử
dụng chỉ dẫn đia lý.
1.2.2.3. Bảo hộ dưới hình thức chỉ dẫn địa lý
Có thể nói chỉ dẫn địa lý là hình thức bảo hộ cao nhất dành cho các sản phẩm
đặc sản địa phương. Hình thức bảo hộ này đòi hỏi phải có sự hợp tác, tham gia, phối
hợp của nhiều cơ quan quản lý và chuyên môn cũng như sự hợp tác tích cực của các
nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Áp dụng hình thức này đòi
11
hỏi công việc chuẩn bị các điều kiện để thực hiện khá phức tạp, tốn kém và phụ
thuộc nhiều vào các đơn vị chuyên môn, thêm vào đó, thời gian xác lập yêu cầu
thường khá dài (Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục SHTT, 2007, tr18), cho thấy hình
thức bào hộ này khá phức tạp cho việc áp dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng hình thức
bảo hộ này sẽ bảo đảm khả năng trao quyền sử dụng được cho tất cả các đối tượng
có khả năng sử dụng chỉ dẫn địa lý, tạo tiền đề cho việc quản lý chất lượng, nguồn
gốc sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý (Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục SHTT, 2007,
tr18).
Đối tượng sản phẩm đặc sản thường áp dụng hình thức bảo hộ này không

những đòi hỏi các điều kiện phải có như hai hình thức bảo hộ NHCN và NHTT nêu
trên, mà còn phải có danh tiếng hoặc chất lượng đặc thù do điều kiện tự nhiên và
chính con người tại vùng địa danh sản xuất mang lại; sản phẩm thuộc các ngành sản
xuất phải có truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một và cần duy trì, phát
triển (Bộ KH&CN, Cục SHTT, 2007, tr17).
Bên cạnh đó, điều kiện áp dụng hình thức này đòi hỏi nhà sản xuất phải tự
nhận thức được sự cần thiết của việc giữ gìn uy tín chất lượng sản phẩm địa phương
của mình, có khả năng tập hợp các nhà sản xuất cùng tình nguyện xây dựng chỉ dẫn
địa lý cho sản phẩm của địa phương và có khả năng huy động kinh phí cùng nhau
xây dựng và phát triển chỉ dẫn địa lý. Thêm vào đó, chính quyền địa phương sẽ là
đơn vị thay mặt Nhà nước quản lý chỉ dẫn địa lý để quản lý chất lượng sản phẩm
của các nhà sản xuất địa phương đòi hỏi phải có chủ trương phát triển sản phẩm và
sẵn sàng hỗ trợ về chuyên môn, kinh phí cho việc xây dựng và phát triển chỉ dẫn địa
lý; đầu tư xây dựng hệ thống quản lý chỉ dẫn địa lý (Bộ KH&CN, Cục SHTT, 2007,
tr18).
Như vậy, việc đăng ký bảo hộ quyền SHTT cho các đặc sản địa phương dưới
hình thức chỉ dẫn địa lý sẽ đòi hỏi nhiều thời gian, tiền và công sức chuẩn bị, yêu
cầu sự tham gia của cả chính quyền địa phương và người sản xuất nhưng là hình
thức bảo hộ cao nhất dành cho các sản phẩm đặc sản địa phương.
1.2.3. Nội dung bảo hộ quyền SHTT cho các sản phẩm đặc sản của địa
phương
Việc bảo hộ quyền SHTT cho một sản phẩm như đã nói ở trên luôn bao gồm
các bước xác lập quyền, quản lý và bảo vệ quyền SHTT. Đối với các sản phẩm đặc
12
sản địa phương cũng không phải là một ngoại lệ. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm
của các sản phẩm đặc sắc của địa phương là có chất lượng, đặc thù gắn liền với địa
danh, nên có thể nói việc bảo hộ quyền SHTT cho các sản phẩm này cũng dựa trên
các bước xác lập quyền, quản lý và bảo vệ quyền SHTT dưới ba hình thức bảo hộ
như đã nêu ở trên (chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận).
1.2.3.1. Xác lập quyền

Xác lập quyền sở hữu trí tuệ cho một sản phẩm là việc xác định các tính chất
đặc thù, uy tín, danh tiếng của sản phẩm đó để từ đó làm thủ tục xác lập quyền
SHTT cho sản phẩm. Các nội dung chính cần tiến hành để xác lập quyền SHTT cho
các sản phẩm đặc sản địa phương bao gồm chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến
hành đăng ký bảo hộ và tiến hành các thủ tục đăng ký bảo hộ.
a. Đối với trường hợp bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu
Như đã nói ở trên, bảo hộ nhãn hiệu cho các sản phẩm đặc sản địa phương bao
gồm 2 hình thức bảo hộ chủ yếu là nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Các
bước tiến hành xác lập quyền NHTT hay NHCN cho các sản phẩm đặc sản địa
phương đều bao gồm 2 thao tác chính là chuẩn bị các điều điện cần thiết để tiến
hành đăng ký bảo hộ quyền SHTT cho các đặc sản địa phương và tiến hành các thủ
tục đăng ký bảo hộ.
 Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đăng ký bảo hộ quyền SHTT
cho đặc sản địa phương dưới hình thức NHTT và NHCN
+) Xác định sản phẩm:
Đối với hình thức NHTT, thao tác này sẽ do tổ chức tập thể hoặc ban vận động
thành lập khảo sát thị trường, thống nhất giữa các nhà sản xuất để lập ra danh mục
sản phẩm dự kiến mang NHTT. Còn đối với khâu xác định sản phẩm có các đặc
tính nhất định cần được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận trong bước xác định
sản phẩm đăng ký bảo hộ tên địa danh dưới hình thức NHCN, người thực hiện bước
này sẽ là Chính quyền địa phương nơi sản xuất sản phẩm đặc sản. Tại đó, chính
quyền địa phương sẽ phải phỏng vấn, khảo sát về sản phẩm, sự cần thiết phải xác
nhận các đặc tính của sản phẩm (Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục SHTT, 2007,
tr32-33).
+) Xác định đặc tính (chất lượng, nguồn gốc địa lý, quy trình sản xuất, đóng
gói, bảo quản ) của sản phẩm
Theo hình thức bảo hộ NHTT, các tổ chức tập thể, Ban vận động thành lập sẽ
đảm nhiệm thực hiện nội dung này thông qua điều tra thị trường người kinh doanh,
13
tiêu dùng; phân tích mẫu sản phẩm; điều tra thực tiễn sản xuất đóng gói; bảo quản;

Thuê khoán chuyên gia để lập ra các chỉ tiêu, yêu cầu về chất lượng và quy trình
sản xuất sản phẩm; bao bì, ghi nhãn sản phẩm; bảo quản sản phẩm. Áp dụng với
hình thức NHCN, việc xác định đặc tính của sản phẩm (chất lượng, nguồn gốc địa
lý, quy tình sản xuất, đóng gói, bảo quản ) của sản phẩm cần chứng nhận hoàn
toàn giống với hình thức bảo hộ NHTT chỉ khác đơn vị thực hiện các thao tác nêu
trên sẽ là do đơn vị có chức năng chứng nhận đặc tính của sản phẩm (Bộ KH&CN,
Cục SHTT, 2007, tr32-33 )
+) Xác định mẫu nhãn hiệu
Nội dung này được tiến hành thông qua các phương pháp thuê thiết kế nhãn
hiệu, tra cứu nhãn hiệu; tổ chức lấy ý kiến góp ý cho các mẫu nhãn hiệu để lập ra
các mẫu nhãn hiệu; dựa trên kết quả tra cứu mà khẳng định mẫu đáp ứng yêu cầu
bảo hộ và lựa chọn mẫu. Với hình thức NHTT, đơn vị thực hiện sẽ là các tổ chức
tập thể, ban vận động thành lập; còn đối với NHCN, nhiệm vụ này sẽ do đơn vị có
chức năng chứng nhận đặc tính của sản phẩm đảm nhiệm (Bộ KH&CN, Cục SHTT,
2007, tr32-33 ).
 Tiến hành các thủ tục đăng ký bảo hộ
•Xây dựng hồ sơ, đơn đăng ký bảo hộ
Theo Điều 87.3, Luật SHTT 2005, quy định quyền đăng ký NHTT thuộc về tổ
chức tập thể được thành lập hợp pháp để các thành viên của mình sử dụng theo quy
chế sử dụng NHTT. Đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ
chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản
xuất, kinh doanh tại địa phương đó.
Còn đối với quyền nộp đơn đăng ký NHCN thuộc về tổ chức có chức năng
kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan
đến hàng hóa, dịch vụ với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ đó (Luật SHTT 2005, Điều 87.4).
Trong đó, Điều 100, 105 Luật SHTT; Điểm 37, Thông tư số 01/2007/TT-
BKHCN, tổng kết đơn đăng ký NHTT/NHCN bao gồm có: Tờ khai; Mẫu nhãn
hiệu; Quy chế sử dụng NHTT/NHCN và chứng từ lệ phí.
Tờ khai: Theo mẫu quy định, trong đó có mẫu nhãn hiệu, danh mục hàng hóa,

dịch vụ mang nhãn hiệu. Đối với NHCN cần có thêm mục đích, nội dung và
phương thức của việc chứng nhận đó ( 37.4c, thông tư 01/2007/TT-BKHCN).
14
Mẫu nhãn hiệu: 9 mẫu; kích thước không lớn hơn 80mm và không nhỏ hơn
8mm, đúng màu sắc yêu cầu bỏa hộ, có ảnh chụp hoặc hình vẽ phối cảnh nếu nhãn
hiệu là hình ba chiều (37.5, thông tư 01/2007/TT-BKHCN).
Quy chế sử dụng NHTT/NHCN: quy chế phải có đủ nội dung tối thiểu theo
quy định (Điều 105 Luật SHTT và điểm 37.6 thông tư 01/2007/TT-BKHCN) đối
với từng hình thức đăng ký.
Ngoài ra, đơn phải có tính thống nhất. Mỗi đơn chỉ được yêu cầu đăng ký 1
nhãn hiệu dùng cho 1 hoặc nhiều hàng hóa, dịch vụ. Nếu nhãn hiệu xin đăng ký có
chứa chỉ dẫn nguồn gốc địa lý, đối với hình thức đăng ký NHTT, chủ đơn phải nộp
kèm theo đơn tài liệu xác nhận tổ chức đăng ký NHTT là tổ chức của các hộ gia
đình, cá nhân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tại địa phương tương ứng với chỉ
dẫn địa lý; đối với hình thức đăng ký NHCN, chủ đơn phải nộp kèm theo đơn giấy
phép của chính quyền địa phương cho phép người nộp đơn đăng ký NHCN mang
dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý là địa danh, biểu tượng, bản đồ của vùng, địa
phương (Điểm 37.7 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN).
•Tiến hành thủ tục nộp đơn và theo dõi đơn
Đối với cả hai hình thức bảo hộ NHTT/NHCN, thao tác này sẽ do Đơn vị có
quyền nộp đơn phối hơp với Cục Sở hữu trí tuệ hoàn thành phiếu tiếp nhận đơn;
quyết định đăng bạ nhãn hiệu (Bộ KH&CN, Cục SHTT 2007, tr32-33)
b. Đối với trường hợp bảo hộ dưới hình thức chỉ dẫn địa lý
Cũng giống như việc xác lập quyền nhãn hiệu cho các sản phẩm đặc sản địa
phương, việc xác lập quyền chỉ dẫn địa lý tuy phức tạp hơn nhưng vẫn bao gồm hai
nội dung chính là chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đăng ký bảo hộ và
tiến hành các thủ tục đăng ký bảo hộ.
 Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đăng ký bảo hộ quyền SHTT
cho đặc sản địa phương dưới hình thức chỉ dẫn địa lý
Như đã biết, cơ chế đăng ký hình thức chỉ dẫn địa lý khá phức tạp hơn so với

hình thức NHTT và NHCN. Đặc biệt là đối với các sản phẩm đặc sản luôn gắn liền
với tên địa danh, việc đăng kí chỉ dẫn địa lý sẽ là phương pháp bảo hộ cao nhất. Để
được bảo hộ chỉ dẫn địa lý, các sản phẩm đặc sản địa phương phải được chứng
minh có chất lượng đặc trưng, có danh tiếng, uy tín do nguồn gốc địa danh của nó
mang lại. Bởi thế mà thao tác chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đăng ký
bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc sản địa phương sẽ phức tạp và chi tiết
15
hơn so với 2 hình thức đăng ký bảo hộ NHTT và NHCN đã nêu trên, cụ thể bao
gồm các nội dung sau:
Bước 1:Khảo sát, thu thập tài liệu về sản phẩm và vùng sản xuất sản
phẩm
Việc khảo sát, thu thập tài liệu về sản phẩm và vùng sản xuất sản phẩm được
tiến hành nhằm xác định rõ thực trạng uy tín, danh tiếng của sản phẩm, các yếu tố
tạo nên chất lượng đặc thù của sản phẩm cũng như lý do khiến người tiêu dùng ưa
chuộng sản phẩm. Việc này sẽ do các cơ quan chức năng của địa phương cùng với
sự giúp đỡ của các bên có liên quan tiến hành, bao gồm khảo sát, thu thập các thông
tin về sản phẩm ( lịch sử, chất lượng, dấu hiệu nhận biết, đặc thù,…), quy trình sản
xuất (kỹ năng, kinh nghiệm người sản xuất,…); điều tra, thăm dò, tìm hiểu lý do
khiến người tiêu dùng ưa chuộng; yếu tố con người, tự nhiên vùng địa lý. Tiếp đó sẽ
tiến hành thu thập các kết quả nghiên cứu đã có về sản phẩm và vùng sản xuất tại
các thư viện, cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ quan quản lý liên quan và từ các
nguồn thông tin khác (Phạm Thị Ngoan, 2007, tr28). Khâu này tương ứng với khâu
xác định đặc tính sản phẩm của sản phẩm dành cho hình thức đăng ký bảo hộ
NHTT,NHCN, tuy nhiên đòi hỏi ở mức chi tiết hơn.
Bước 2:Xác định các chỉ tiêu thể hiện chất lượng đặc thù của sản phẩm
Việc xác định sẽ dựa trên các chỉ tiêu định tính và định lượng (cảm quan, đặc
tính lý, hóa, sinh,…). Tùy thuộc vào từng loại sản phẩm, cơ quan chuyên ngành sẽ
lựa chọn các phương pháp xác định tính đặc thù của mỗi sản phẩm một cách phù
hợp bằng các phương tiện kỹ thuật hoặc các phương pháp chuyên gia. Qua đó, ta sẽ
xác định được tính đặc thù của sản phẩm để xây dựng Bản mô tả và lập Hồ sơ yêu

cầu đăng ký chỉ dẫn địa lý.
Thứ nhất, cơ quan chủ trì xây dựng chỉ dẫn địa lý phải tiến hành xác định tên
các tiêu chí mô tả tính chất, chất lượng sản phẩm. Sau đó, xây dựng phương án lấy
mẫu sản phẩm đặc sản và một số sản phẩm cùng loại khác để so sánh. Thứ ba là xây
dựng quy chế lấy mẫu sản phẩm phù hợp và tiến hành lấy mẫu. Tiếp theo, chọn và
áp dụng phương pháp phân tích, đánh giá tính đặc thù của sản phẩm để xác định giá
trị các tiêu chí về chất lượng. Cuối cùng là so sánh kết quả phân tích mẫu sản phẩm
đặc sản và các sản phẩm cùng loại khác để rút ra tiêu chí chỉ có nơi mang chỉ dẫn
địa lý (Phạm Thị Ngoan, 2007, tr29).
16
Bước 3:Xác định các yếu tố tự nhiên, con người ảnh hưởng đến đặc thù
của sản phẩm
Hoạt động này nhằm mục tiêu xác định và mô tả các đặc trưng về điều kiện tự
nhiên, con người quyết định tính đặc thù của sản phẩm. Các công việc cần tiến hành
bao gồm: xác định tên các tiêu chí đặc thù về tự nhiên, con người có khả năng ảnh
hưởng quyết định đến đặc thù của sản phẩm, chọn và áp dụng phương pháp xác
định giá trị hoặc mô tả các tiêu chí đặc thù về điều kiện tự nhiên, con người đặc thù
của vùng tương ứng với chỉ dẫn địa lý, xác định các tiêu chí đặc thù về điều kiện tự
nhiên, con người vùng địa phương có sản phẩm bằng phương pháp lựa chọn (Phạm
Thị Ngoan, 2007, tr30).
Bước 4:Xác định mối liên hệ giữa đặc thù về điều kiện tự nhiên, con
người với đặc thù về chất lượng sản phẩm
Sau khi đã chỉ ra được những nét đặc thù về tự nhiên và con người có ảnh
hưởng đến chất lượng của sản phẩm đặc sản, tiếp theo ta phải chỉ rõ được các yếu tố
đó ảnh hưởng đến tính đặc thù riêng của sản phẩm đặc sản như thế nào. Thứ nhất,
bằng phương pháp phân tích, so sánh mô tả mối tương quan giữa giá trị đặc thù của
tự nhiên, con người với những giá trị đặc thù của sản phẩm. Sau đó, định tính, định
lượng từng tiêu chí đặc thù về điều kiện tự nhiên, con người ảnh hưởng như thế nào
đến đặc thù của sản phẩm (Phạm Thị Ngoan, 2007, tr32). Qua đó, có thể chứng
minh được các giá trị yếu tố đặc thù về tự nhiên, con người vùng địa danh đó có ảnh

hưởng quyết định đến chất lượng đặc thù của sản phẩm đặc sản.
Bước 5:Khoanh vùng khu vực tương ứng với chỉ dẫn địa lý
Khác với hình thức NHTT và NHCN, việc đăng ký bảo hộ sẽ là đăng ký để
được chứng nhận, hay phê chuẩn bảo hộ nhãn hiệu của một tập thể hay một doanh
nghiệp, việc khoanh vùng khu vực sẽ là thao tác có thể không cần thiết; đối với hình
thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý, đây là một yêu cầu bắt buộc với tất cả các sản phẩm nói
chung và đặc sản của địa phương nói riêng vì nó có ảnh hưởng đến quyền sử dụng
tên địa danh hay không của các đối tượng sản phẩm. Do đó, việc khoanh vùng cần
có những cơ sở khoa học để chứng minh tính chất đặc thù về mặt điều kiện tự nhiên
và con người. Công việc của bước này bao gồm: xây dựng Bản đồ vùng thích hợp
cho sản xuất sản phẩm, xây dựng Bản đồ vùng có các yếu tố tự nhiên và con người
quyết định tính đặc thù về chất lượng của sản phẩm, xây dựng Bản đồ vùng tương
ứng với chỉ dẫn địa lý (Phạm Thị Ngoan, 2007, tr33).
17
 Tiến hành các thủ tục đăng ký bảo hộ
• Xây dựng hồ sơ đơn đăng ký bảo hộ
Tổ chức tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý
hành chính địa phương nơi có chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký sẽ đứng ra
tiến hành chuẩn bị hồ sơ đăng ký. Ngoài tờ khai , hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý còn
có hai tài liệu quan trọng là bản mô tả tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm
mang chỉ dẫn địa lý và bản đồ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý (Vũ
Trọng Bình, Đào Đức Huấn, 2006, điều 7.1.a(ii)).
+) Bản mô tả đặc thù tính chất, chất lượng sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý
Việc xây dựng bản mô tả là công việc tập thể, đòi hỏi sự đầu tư trí tuệ, thời
gian và tài chính của nhiều cá nhân, tổ chức. Trong đó, không thể thiếu được vai trò
của các nhà sản xuất trong khu vực và những người gắn bó với sản phẩm và khu
vực địa lý đó (Lê Thị Thu Hà, 2010, tr49). Bản mô tả đặc thù tính chất, chất lượng
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý phải được dựa trên việc xác định các chỉ tiêu thể hiện
chất lượng đặc thù của sản phẩm với các bước tiến hành các phương pháp định tính,
đinh lượng như trên đã nói.

+) Lập bản đồ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý
Thao tác này được dựa trên cơ sở bước khoanh vùng khu vực tương ứng với
chỉ dẫn địa lý ở trên. Nó có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng đến các đối tượng có
quyền được sử dụng chỉ dẫn địa lý. Vì vậy, vùng địa lý được bảo hộ cần được xác
định dựa trên những cơ sở khoa học để chứng minh tính chất đặc thù về mặt điều
kiện tự nhiên và con người. Việc xác định ranh giới địa lý chỉ nên được thực hiện
trên cơ sở bản thân sản phẩm và danh tiếng của chúng chứ không nên xuất phát từ
lợi ích kinh tế của riêng một người hoặc một địa phương cụ thể nào đó (Bérard, L.,
P. Marchenay, 1996, trích dẫn trong Lê Thị Thu Hà, 2010, tr50).
Ngoài ra, đơn phải bảo đảm tính thống nhất, mỗi đơn chỉ được đăng ký một
chỉ dẫn địa lý dùng cho một sản phẩm. Trong trường hợp chỉ dẫn địa lý không phải
là từ ngữ, chủ đơn phải nộp kèm theo đơn 10 mẫu để thể hiện cách trình bày chỉ dẫn
địa lý sẽ được sử dụng (kích thước không lớn hơn 80mm x 80mm và không nhỏ
hơn 20mm x 20mm) (43.3, thông tư 01/2007/TT-BKHCN). Đối với chỉ dẫn địa lý
nước ngoài, phải nộp thêm tài liệu chứng minh chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại
nước có chỉ dẫn địa lý đó (Bộ KH&CN, Cục SHTT, 2007, tr11).
•Tiến hành thủ tục nộp và theo dõi đơn
18
Đối với hình thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý, bước này sẽ do Tổ chức chủ trì xây
dựng chỉ dẫn địa lý với mục đích chỉ dẫn địa lý được đăng ký mà tiến hành nộp đơn
tại Cục SHTT; đồng thời theo dõi tiến trình đơn và tiến hành các thủ tục cần thiết
nếu có yêu cầu (Bộ KH&CN, Cục SHTT, 2007, tr37).
Tóm lại, một cách tổng quát, theo Bộ KH&CN, Cục SHTT (2007, tr19) tổng
kết các bước tiến hành xác lập quyền SHTT cho các đặc sản địa phương (dưới hình
thức nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận hoặc chỉ dẫn địa lý) bao gồm các
bước như sau:
“Bước 1: Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đăng ký bảo hộ: Xác
định sản phẩm cần bảo hộ (đặc tính, nguồn gốc địa lý/chất lượng, quy trình sản xuất
được áp dụng/tính đặc thù ); chọn mẫu (nhãn hiệu tập thể/chứng nhận); khoanh
vùng địa lý (vẽ bản đồ/mô tả vùng sản xuất sản phẩm); xây dựng các quy chế quản

lý (nhãn hiệu tập thể/nhãn hiệu chứng nhận);
Bước 2: Tiến hành các thủ tục để đăng ký bảo hộ: Xác định chủ thể đứng tên
nộp đơn (chỉ định hoặc thành lập mới); xây dựng hồ sơ đơn (Tờ khai; mẫu nhãn
hiệu, quy chế sử dụng nhãn hiệu/thuyết minh đặc tính đặc thù của sản phẩm); tiến
hành thủ tục nộp và theo đuổi đơn đăng ký (nộp đơn, nộp lệ phí; tiến hành các thủ
tục sửa đổi, bổ sung đơn theo yêu cầu ).”
1.2.3.2. Quản lý quyền SHTT
Sau khi hoàn tất việc xác lập quyền SHTT cho các sản phẩm đặc sản nói
chung, hay đăng ký bảo hộ tên địa danh dưới ba hình thức chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu
tập thể, nhãn hiệu chứng nhận cho các sản phẩm đặc sản địa phương nói riêng, để
đảm bảo duy trì chất lượng sản phẩm và kiểm soát việc sử dụng tên địa danh hay
quyền SHTT cho các đặc sản địa phương, cần phải xây dựng và vận hành hệ thống
quản lý quyền SHTT đối với tên địa danh dành cho các sản phẩm đặc sản. Mục đích
của việc quản lý này là nhằm đảm bảo quyền sử dụng tên địa danh của đặc sản,
tránh các hành vi lợi dụng sử dụng trái phép tên địa danh, đồng thời đảm bảo sản
phẩm đặc sản khi đến tay người tiêu dùng có chất lượng đúng như đã được đăng ký
bảo hộ tên địa danh dưới một trong 3 hình thức bảo hộ nêu trên(Trung tâm hỗ trợ và
tư vấn, Cục SHTT Việt Nam, 2007).
 Đối tượng tham gia quản lý:
19
•Đối với hình thức bảo hộ NHTT: Tổ chức tập thể sẽ là chủ sở hữu nhãn hiệu
thực hiện việc quản lý nhãn hiệu căn cứ vào quy chế sử dụng nhãn hiệu đã được các
thành viên thống nhất áp dụng (Bộ KH&CN, Cục SHTT, 2007, tr7).
•Đối với hình thức bảo hộ NHCN: đối tượng tham gia quản lý bao gồm:
- Chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận: có quyền quản lý việc sử dụng nhãn
hiệu theo Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận, bao gồm: cấp phép sử dụng;
kiểm soát, kiểm tra việc sử dụng nhãn hiệu để bảo đảm chất lượng, uy tín của hàng
hoá, dịch vụ được xác nhân; đình chỉ việc sử dụng nhãn hiệu chứng nhận (Điểm
37.6, Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN).
- Người được cấp phép sử dụng nhãn hiệu chứng nhận: có nghĩa vụ tuân thủ

Quy chế sử dụng nhãn hiệu như: bảo đảm chất lượng, uy tín của hàng hoá, dịch vụ;
chịu sự kiểm soát của chủ sở hữu nhãn hiệu; nộp phí quản lý nhãn hiệu (Bộ
KH&CN, Cục SHTT 2007, tr9)
• Đối với hình thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Bộ KH&CN, Cục SHTT (2007, tr12) cho biết các đối tượng tham gia quản lý
chỉ dẫn địa lý bao gồm:
- Nhà nước trực tiếp thực hiện quyền quản lý chỉ dẫn địa lý hoặc trao quyền
quản lý chỉ dẫn địa lý cho tổ chức đại diện quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân
được trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý (Điểm 4, Điều 121 - Luật SHTT).
- Cơ quan, tổ chức có quyền quản lý chỉ dẫn địa lý bao gồm (Điều 19 -Nghị
định 103):
+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có khu vực địa
lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý trong trường hợp chỉ dẫn địa lý thuộc một địa
phương;
+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là đại diện theo uỷ
quyền của các ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nơi có
khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý trong trường hợp chỉ dẫn địa lý thuộc
nhiều địa phương;
+ Cơ quan, tổ chức được ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý với điều kiện cơ quan, tổ chức đó đại
diện cho quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng chỉ dẫn
địa lý.
 Nội dung quản lý:
20
Việc quản lý NHTT và NHCN được chủ sở hữu nhãn hiệu tổ chức thực hiện
trên cơ sở các quy định trong quy chế quản lý nhãn hiệu đã được phê duyệt.
Đối với chỉ dẫn địa lý, việc quản lý đối tượng này là vấn đề phức tạp và cần có
sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức. Về tổng quan, để có thể quản lý
được chỉ dẫn địa lý, cần phải có các điều kiện sau:
Điều kiện về cơ sở pháp lý: Ngoài các văn bản pháp luật hiện hành về chỉ dẫn

địa lý, văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý thì còn cần có các văn bản của chính quyền
địa phương (về thẩm quyền quản lý, quy chế quản lý, trong đó có quy định về trao
quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý)
Điều kiện về tổ chức: Ngoài cơ quan quản lý việc đăng ký chỉ dẫn địa lý là
Cục Sở hữu trí tuệ, các cơ quan quản lý, bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở địa
phương, để quản lý được chỉ dẫn địa lý cần thiết lập bộ máy tổ chức chuyên để quản
lý với chức năng, nhiệm vụ cụ thể (Cơ quan quản lý; Cơ quan kiểm soát chất lượng
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý; Tổ chức tập thể của các nhà sản xuất, kinh doanh đặc
sản mang chỉ dẫn địa lý) (Bộ KH&CN, Cục SHTT, 2007, tr20).
1.2.3.3. Bảo vệ quyền SHTT cho các sản phẩm đặc sản địa phương
Việc bảo vệ quyền SHTT cho các sản phẩm đặc sản địa phương là việc hết sức
quan trọng để ngăn chặn, chấm dứt các hành vi vi phạm tên địa danh dành cho các
đặc sản. Việc này sẽ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ thể quyền căn
cứ vào các quy định pháp luật để ngăn ngừa. Các biện pháp cho bảo vệ quyền
SHTT bao gồm các biện pháp tự bảo vệ và các biện pháp do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thực hiện bao gồm biện pháp dân sự, hình sự hành chính và kiểm
soát hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến SHTT.
 Biện pháp tự bảo vệ
Các biện pháp tự bảo vệ là các biện pháp được nêu ra dựa trên quyền sở hữu
trí tuệ của các chủ thể nhằm mục đích tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Các
biện pháp này chủ yếu bao gồm các biện pháp công nghệ và các biện pháp về kinh
tế, tâm lí xã hội.
Theo Điều 198, Luật SHTT, “Chủ thể quyền SHTT có quyền áp dụng các biện
pháp sau đây để bảo vệ quyền SHTT của mình:
a) Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền
SHTT;
b) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền SHTT phải chấm dứt
hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
21
c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền

SHTT theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
d) Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.”
Biện pháp công nghệ thường áp dụng nhiều nhất cho hoạt động tự bảo vệ
quyền SHTT dành cho các đặc sản. Thực hiện biện pháp này, bên cạnh việc đăng ký
bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc sản giúp cho các sản phẩm này được
thừa nhận rộng rãi, cần xây dựng một hệ thống nhận diện sản phẩm mang chỉ dẫn
địa lý, bao gồm tem , nhãn , bao bì, catalogue, tờ rơi…
 Biện pháp dân sự
Đề cập đến quyền SHTT dưới góc độ pháp luật dân sự, TS. Lê Thị Thu Hà
(2010, tr62) cho biết: “Quyền SHTT được nhà nước công nhận như một quyền dân
sự của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản SHTT nhất định và do đó, nếu có vi
phạm xảy ra thì biện pháp dân sự cũng được áp dụng trước tiên để xử lý hành vi
xâm phạm đó”. Theo đó, biện pháp dân sự cũng sẽ được áp dụng để ngăn chặn các
hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung và các hành vi xâm phạm quyền SHTT
đối với các sản phẩm đặc sản địa phương nói riêng.
Theo Điều 202, Luật SHTT, quy định tòa án áp dụng các biện pháp dân sự sau
đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền SHTT: Buộc chấm dứt
hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân
sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử
dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và
phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất kinh doanh hàng hóa xâm phạm
quyền SHTT, với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của
chủ thể quyền SHTT.
 Biện pháp hành chính
Nếu như biện pháp dân sự nhằm giải quyết vấn đề xâm phạm quyền SHTT
giữa bên chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý và bên xâm phạm quyền SHTT của sản phẩm,
thì các biện pháp hành chính nhằm đưa ra các quy chế giải quyết việc xâm phạm
trên cơ sơ pháp lý giữa cơ quan thực thi quyền và bên xâm phạm quyền.
Theo Điều 211, Luật SHTT, quy định các hành vi xâm phạm quyền SHTT sau

đây bị xử phạt hành chính: Thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây
thiệt hại cho người tiêu dùng và cho xã hội; Không chấm dứt hành vi xâm phạm

×