Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thực thi pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch tại tỉnh phú thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.17 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

TÊN ĐỀ TÀI
THỰC THI PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG TRONG
LĨNH VỰC DU LỊCH TẠI TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
MÃ SỐ: 8380107

HỌC VIÊN: Trần Thị Thu Phương
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS Lưu Ngọc Tố Tâm

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là luận văn nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Lưu Ngọc Tố Tâm. Các số liệu trích dẫn có nguồn gốc rõ
ràng, các kết quả nghiên cứu của luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất cứ công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam
đoan này./.

Hà Nội, ngày tháng 10
năm 2018
Tác giả

Trần Thị Thu Phương



LỜI CẢM ƠN
Bảo vệ môi trường nói chung, trong đó có bảo vệ môi trường trong hoạt động
du lịch là một trong những nhiệm vụ cấp bách không chỉ của ngành du lịch mà của
các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội, thậm chí của các quốc gia để tiến tới
phát triển du lịch bền vững, nâng cao đời sống xã hội của từng địa phương, từng
ngành và của từng người dân sống trong xã hội.
Đề tài “Thực thi pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch tại tỉnh Phú
Thọ hiện nay” nhằm xác lập cơ sở khoa học và thực tiễn, những tồn tại bất cập
trong quá trình thực thi pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch tại tỉnh Phú
Thọ; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch của địa phương.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, với trình độ và kinh nghiệm còn hạn
chế về pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch, nội dung đề tài không tránh khỏi
những khiếm khuyết, tồn tại; rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của các
quý thầy, cô giáo, các đồng nghiệp để tôi có điều kiện học hỏi, hoàn thiện kiến thức
hơn nữa, giúp tôi có thể góp phần thiết thực trong việc thực hiện áp dụng pháp luật
trong thực tiễn công tác của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho
tôi trong quá trình học tập tại nhà trường, đặc biệt xin chân thành cảm ơn PGS.TS
Lưu Ngọc Tố Tâm – Học Viện Báo chí và Tuyên truyền đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi nghiên cứu hoàn thành luận văn này.

Tác giả

Trần Thị Thu Phương


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .............................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ....................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 7
6. Những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn ................................ 8
7. Cơ cấu của luận văn............................................................................................. 8
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VÀ
PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH .......................... 9
1.1. Du lịch và những ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới môi trường ................... 9
1.1.1. Khái niệm du lịch ........................................................................................... 9
1.1.2. Những tác động của hoạt động du lịch tới môi trường ................................. 13
1.2. Một số vấn đề cơ bản về pháp luật môi trường trong hoạt động du lịch........... 20
1.2.1. Khái niệm .................................................................................................... 20
1.2.2. Sự cần thiết phải xây dựng hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường
trong hoạt động du lịch ......................................................................................... 23
1.2.3. Nguyên tắc của pháp luật môi trường trong hoạt động du lịch..................... 28
1.2.4. Một số qui định cơ bản của pháp luật môi trường hiện hành trong hoạt
động du lịch........................................................................................................... 35


Chương 2: THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG TRONG
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY............................... 53
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ ..................................... 53
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................................ 53
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................................. 54
2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động du
lịch tại tỉnh Phú Thọ hiện nay ................................................................................ 56

2.2.1. Những thành tựu đã đạt được ...................................................................... 57
2.2.2. Những hạn chế, khó khăn trong công tác bảo vệ môi trường trong hoạt
động du lịch tại tỉnh Phú Thọ hiện nay .................................................................. 74
2.2.3. Nguyên nhân dẫn tới những khó khăn, hạn chế trong công tác bảo vệ
môi trường trong hoạt động du lịch tại tỉnh Phú Thọ hiện nay............................... 80
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT
ĐỘNG DU LỊCH TẠI TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY ........................................... 85
3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật môi trường trong hoạt động du lịch ................................... 85
3.1.1. Đảm bảo thể chế hóa chủ trường, chính sách của Đảng; đồng bộ,
thống nhất với hế thống pháp luật môi trường Việt Nam về phát triển bền
vững ...................................................................................................................... 85
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch
tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế ......................................................... 86
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật môi trường về bảo vệ môi trường trong hoạt
động du lịch cần phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn của Việt Nam
hiện nay................................................................................................................. 88


3.2. Nhóm các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch tại tỉnh Phú Thọ hiện nay .................. 89
3.2.1. Nhóm các giải pháp pháp lý........................................................................ 89
3.2.2. Nhóm các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao tính hiệu
quả của việc áp dụng pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch
tại Phú Thọ ............................................................................................................ 96
KẾT LUẬN......................................................................................................... 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 107



MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Phú Thọ là tỉnh nằm ở vị trí trung tâm miền Bắc Việt Nam, là cửa ngõ nối
liền giữa các tỉnh miền núi phía Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ. Với địa hình chuyển tiếp giữa đồng bằng, trung du và miền núi, Phú Thọ có
địa hình rất đa dạng: có núi non hiểm trở, có đồi trung du san sát, có đồng bằng phì
nhiêu nên có thể phát triển nhiều loại hình du lịch có sức hấp dẫn du khách như
tham quan, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng chữa bệnh, du lịch sinh thái tại các khu du
lịch tự nhiên như Đầm Ao Châu (Hạ Hoà), Rừng Quốc gia Xuân Sơn (Thanh Sơn),
mỏ nước khoáng nóng Thanh Thuỷ (huyện Thanh Thuỷ), Ao Giời – Suối Tiên
(huyện Hạ Hoà), Bến Gót – Bạch Hạc (Việt Trì )…
Đặc biệt, Phú Thọ - vùng đất phát tích của dân tộc Việt Nam. Theo truyền
thuyết, đây là nơi các vua Hùng chọn làm đất đóng đô, đặt tên là Kinh đô Văn Lang
(kinh đô đầu tiên của dân tộc Việt Nam). Khu di tích lịch sử Đền Hùng hiện nay là
di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của Quốc gia. Hát Xoan Phú Thọ, tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của
nhân loại. Phú Thọ trở thành tỉnh một điểm đến hai di sản thế giới…Đó là những
tiềm năng lớn để tỉnh đầu tư, khai thác, phát triển các loại hình du lịch.
Tuy nhiên, ở góc độ là ngành kinh tế mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội
hoá cao, sự phát triển của du lịch Phú Thọ cũng tạo ra những tác động ngày càng mạnh
và ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tại những khu vực diễn ra hoạt động du lịch.
Sức ép của quá trình phát triển kinh tế nói chung và hoạt động du lịch nói chung đã và
đang đặt ra nhiều thách thức lớn trong công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh.
Xuất phát từ yêu cầu đó, bảo vệ môi trường trở thành một trong những vấn đề trọng
tâm của ngành du lịch, đặc biệt khi những yêu cầu về phát triển du lịch bền vững được
đặt lên hàng đầu trong các chính sách, chiến lược và chương trình hành động về phát
triển kinh tế của đất nước nói chung và địa phương nói riêng.

1



Trên thực tế, việc thực thi các quy định pháp luật môi trường trong lĩnh vực
du lịch còn bất cập, khả năng phối hợp giữa các chủ thể có nhiều điểm hạn chế.
Chính điều này đã làm gia tăng các ảnh hưởng tiêu cực từ hoạt động du lịch đến
môi trường ngày càng mạnh hơn, làm mất đi dần đi tính hấp dẫn của các tài nguyên,
sản phẩm du lịch; các tác động tích cực từ du lịch đến môi trường bị lu mờ, gây ảnh
hưởng không tốt đến hình ảnh của ngành du lịch.
Nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của con người hướng tới sự phát
triển bền vững của ngành du lịch,tỉnh Phú Thọ cần phải từng bước nâng cao hiệu
quả thực thi các quy định pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch, nhằm phòng
tránh và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm trong lĩnh vực môi trường du lịch,
là cơ sở vững chắc để tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài “Thực thi pháp luật môi trường
trong lĩnh vực du lịch tại tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
So với các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành khác, pháp luật môi trường vẫn
được xem là lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành mới và tác động đến nhiều mảng
khác nhau của đời sống xã hội. Hiện nay đã có nhiều các công trình nghiên cứu
khoa học về pháp lý môi trường dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Xuất
phát từ vai trò của “ngành công nghiệp không khói” tới chất lượng môi trường tự
nhiên cũng như giá trị cuộc sống của con người, pháp lý môi trường đã có những
nghiên cứu bước đầu về pháp luật môi trường trong hoạt động du lịch nhằm hướng
tới phát triển du lịch bền vững.
2.1. Đề tài nghiên cứu khoa học
- Vũ Tuấn Cảnh (2001), Đề tài"Hiện trạng và một số giải pháp bảo vệ môi
trường du lịch Việt Nam";

2



- Trịnh Quang Hảo (2004), “Cơ sở khoa học cho các chính sách, giải pháp
quản lý khai thác tài nguyên du lịch Việt Nam”, Viện Nghiên cứu Phát triển Du
lịch;
- PGS.TS Phạm Trung Lương (2010), “Bảo vệ môi trường du lịch”, Viện
Nghiên cứu Phát triển Du lịch;
2.2. Sách
- PGS.TS Phạm Trung Lương chủ biên (2001), “Tài nguyên môi trường du
lịch Việt Nam”, Nhà xuất bản Giáo dục;
- Đinh Trung Kiên (2004) “Một số vấn đề về du lịch Việt Nam”, Nhà xuát bản
Đại học Quốc gia Hà Nội;
- “Quy hoạch môi trường” (2005), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Viện nghiên cứu phát triển du lịch - Tổng cục Du lịch (2013) “Cẩm nang
thực tiễn phát triển du lịch nông thôn Việt Nam”;
- TS. Nguyễn Thị Tố Uyên (2014) “Trách nhiệm pháp lý trong pháp luật bảo
vệ môi trường”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Nguyễn Hoàng Phượng; Trần Thanh Thủy; Trịnh Lê Nguyên - Trung tâm
con người và thiên nhiên (2015) “Thực thi chính sách pháp luật bảo vệ môi trường
ở Việt Nam nhìn từ khía cạnh tư pháp”;
- PGS.TS. Nguyễn Phạm Hùng biên khảo (2017), "Văn hóa du lịch", Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.3. Luận án, luận văn
- Nguyễn Tuấn Ngọc (2004), Luận văn “Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý
Nhà nước về môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ môi trường của Việt Nam”;
- Trần Phong Bình (2009), Luận văn “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong
lĩnh vực du lịch ở Việt Nam”, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Vũ Thị Trà My (2009), Luận văn “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp

3



bảo vệ môi trường hướng đến phát triển bền vững khu du lịch Mũi Né-Phan Thiết”,
Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Thị Hoài Phương (2009), Luận văn “Thực hiện Pháp luật môi
trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội;
- Nguyễn Văn Hùng (2011), Luận văn “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi
trường ở Việt nam trong điều kiện hiện nay”;
- Đinh Phượng Quỳnh (2011), Luận văn “Pháp luật về bảo vệ môi trường ở
Việt Nam -Thực trạng và giải pháp”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
2.4. Bài báo khoa học
- Trần Hồng Hà (2009), “Quản lý Nhà nước về môi trường - thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 157/2009;
- PGS.TS Vũ Thị Duyên Thủy (2011), “Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi
trường trong hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, số 09/2011;
- Hồng Hạnh (2012), “Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”, Tạp chí Tài
nguyên và Môi trường, số 05/2012, tr 18-20.
- Hoàng Lê Thanh (2012), “Giải pháp bảo vệ môi trường khu công nghiệp”,
Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 06/2012.
- TS. Nguyễn Thế Đồng (2015), “Bảo vệ môi trường và phát triển du lịch bền
vững” TS. Nguyễn Thế Đồng, Tổng cục Môi trường, Tạp chí Môi trường số 7 - 2015.
- Th.S Nguyễn Anh Dũng (2017), “Bàn về nguyên tắc phát triển bền vững của
ngành Du lịch Việt Nam”, Tạp chí Môi trường Du lịch ngày 07/03/2017;
- PGS.TS. Phùng Chí Sỹ (2017), “Các công cụ phòng ngừa, ứng phó với sự cố
môi trường và thiên tai - từ chính sách đến áp dụng thực tế”, Tạp chí Môi trường số
1/2017;

4



- TS.Bùi Đức Hiển (2017),“Thực trạng chính sách, pháp luật về sự tham gia
của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Môi
trường số 8/2017.
Có thể thấy, pháp luật môi trường nói chung và pháp luật bảo vệ môi trường
trong hoạt động du lịch nói riêng đã có những nghiên cứu bước đầu về hoạt động
bảo vệ môi trường du lịch theo hướng phát triển bền vững. Tuy nhiên, xuất phát từ
những hạn chế trong các quy định của hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường
trong hoạt động du lịch trước thời điểm Luật Du lịch năm 2017 (có hiệu lực từ ngày
01 tháng 01 năm 2018) nên các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động du
lịch còn thiếu những cơ chế, công cụ pháp lý cụ thể để bảo vệ môi trường trong hoạt
động du lịch cũng như quá trình đảm bảo thực thi pháp luật trên thực tế. Tuy nhiên
cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
diện về các vấn đề lý luận cũng như quá trình thực thi pháp luật môi trường trong
lĩnh vực du lịch tại tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay. Nói cách khác đề tài
“Thực thi pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch tại tỉnh Phú Thọ hiện nay”
là một đề tài mới cần được nghiên cứu một cách toàn diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về thực thi pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch
tại tỉnh Phú Thọ hiện nay. Theo đó, bảo vệ môi trường nói chung, trong đó có bảo
vệ môi trường trong hoạt động du lịch là một trong những nhiệm vụ cấp bách không
chỉ của ngành du lịch mà của các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội, thậm
chí của các quốc gia để tiến tới phát triển du lịch bền vững, nâng cao đời sống xã
hội của từng địa phương, từng ngành và của từng người dân sống trong xã hội. Một
trong những biện pháp hiệu quả nhằm tiến tới xây dựng một “nền công nghiệp
không khói” phát triển bền vững – đó chính là xây dựng và hoàn thiện hành lang
pháp lí vững chắc về vấn đề này. Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm xác lập cơ
sở khoa học và thực tiễn, những tồn tại bất cập trong quá trình thực thi pháp luật

5



môi trường trong lĩnh vực du lịch tại tỉnh Phú Thọ; từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật môi trường trong lĩnh vực
du lịch của địa phương.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quan các vấn đề lý luận về bảo vệ môi
trường trong hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay; phân tích cơ sở lý luận của
pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch và hệ thống các quy định
pháp luật về kiểm soát vấn đề này.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ để từ đó tìm ra những tồn tại, vướng mắc; và tìm ra nguyên nhân dẫn tới những
hạn chế trong việc thực thi pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch của tỉnh; làm
cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật môi trường trong hoạt động du lịch nói riêng và
bảo vệ môi trường nói chung.
- Đề xuất các yêu cầu và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm
- Hệ thống lý luận, hệ thống quan điểm về hoạt động du lịch và pháp luật về
bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch
- Hệ thống văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về bảo vệ môi trường
trong hoạt động du lịch và nội dung quy định pháp luật về vấn đề này
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay

6



Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động du lịch thuộc phạm vi nghiên cứu tương đối
rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học pháp lí khác nhau như kinh tế, hành
chính, dân sự, thương mại,… Đồng thời, được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp
luật khác nhau như các điều ước quốc tế có liên quan, pháp luật thương mại quốc tế,
pháp luật quốc gia,…nhằm điều chỉnh tác động của hoạt động du lịch đến tình hình
và chất lượng môi trường chung. Đối với mỗi ngành luật khác nhau, vấn đề được
nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau. Trong phạm vi luận văn, tôi tập trung
nghiên cứu vấn đề thực thi pháp luật môi trường trong hoạt động du lịch trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.
- Phạm vi của đối tượng nghiên cứu: Là hệ thống văn bản pháp luật của Việt
Nam về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch và các điều ước quốc tế liên
quan đến bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch mà Việt Nam là quốc gia thành
viên. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu về quá trình thực thi, áp dụng pháp
luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Thời gian nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian
từ năm 2012 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên những nghiên cứu lý luận đã được công nhận
và bảo vệ thành công trong các luận án tiến sĩ, luận văn, đề tài nghiên cứu và báo
cáo khoa học; các quan điểm khoa học đã được thừa nhận.
Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lenin về Nhà nước pháp quyền.
- Các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, chứng minh, tổng - phân hợp được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ đề tài.
- Phần kết luận được sử dụng phương pháp quy nạp nhằm đưa ra kết luận
chung nhất giải quyết những vấn đề được đặt ra trong phần mở đầu của đề tài.

7



6. Những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn
Như trên đã phân tích, khoa học pháp lý môi trường đã bước đầu có những
nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật môi trường trong hoạt động du lịch. Tuy nhiên
với vai trò và tầm quan trọng của du lịch – “ngành công nghiệp không khói” trong
cơ cấu GDP của cả nước; tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển một ngành
công nghiệp du lịch bền vững càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết; trong đó có
vai trò của hệ thống các quy định pháp luật. Đặc biệt, với việc ban hành Luật Du
lịch năm 2017 càng cho thấy tầm quan trọng của pháp luật môi trường trong việc
định hướng, xây dựng và phát triển du lịch bền vững. Xuất phát từ ý nghĩa đó, luận
văn đã làm rõ và hệ thống hóa các quy định hiện hành của pháp luật môi trường
Việt Nam về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch; từ đó nhận xét và đánh giá
quá trình thực thi pháp luật trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay. Từ đó chủ động đề
xuất và đưa ra những ý kiến, kiến nghị nhằm tiến tới bổ sung và hoàn thiện các quy
định pháp luật về vấn đề này.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo. Phần nội dung được phân chia với bố cục ba chương, cụ thể như sau:
Chương1: Một số vấn đề cơ bản về hoạt động du lịch và pháp luật môi trường trong
lĩnh vực du lịch
Chương 2:Thực tiễn thực thi pháp luật môi trường trong lĩnh vực du lịch ở tỉnh Phú
Thọ hiện nay
Chương 3:Yêu cầu và giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật môi trường
trong lĩnh vực du lịch ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG

DU LỊCH VÀ PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG
TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
1.1. Du lịch và những ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới môi trường
1.1.1. Khái niệm du lịch
Với tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú, trong những năm qua, du lịch
Việt Nam đang trên đà phát triển và đang dần khẳng định được vị trí của mình trong
sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. Nghị quyết 08 – NQ/TW
của Bộ Chính trị được ban hành ngày 16/01/2017, trong đó xác định đến năm 2020
du lịch cơ bản là ngành kinh tế mũi nhọn với tổng thu 35 tỷ USD, đóng góp 10%
cho GDP. Trong vòng 10 năm sau đó, du lịch cần thực sự là ngành kinh tế mũi
nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các lĩnh vực khác, đưa Việt Nam vào
nhóm các nước có ngành du lịch phát triển hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Ngành
du lịch phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của một loạt các ngành khác như vận tải,
bưu điện, thương nghiệp, tài chính, các hoạt động phục vụ sinh hoạt cá nhân, các
dịch vụ phục vụ nhu cầu giải trí, các hoạt động văn hoá thể thao...Mặt khác, hoạt
động du lịch còn có tác dụng tăng cường các mối quan hệ xã hội, tình hữu nghị và
sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, các quốc gia. Bên cạnh những tác động tích
cực tới cơ cấu nền kinh tế quốc dân, sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch trong
thời gian qua cũng đã và đang đặt ra những thách thức lớnvà cũng tạo ra những tác
động mạnh mẽ trong hoạt động bảo vệ môi trường tại các vùng du lịch nói riêng và
trên địa bàn cả nước nói chung.
Theo Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourist Organization – WTO)“Du
lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường
xuyên của con người và ở lại đó để thăm quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay

9


các mục đích khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên
tục ít hơn 1 năm”.

Như vậy theo định nghĩa của tổ chức du lịch thế giới về du lịch và trong
khuôn khổ của thống kê du lịch thì lượng khách du lịch sẽ được tính gồm:
(i). Những chuyến đi đến nơi khác môi trường sống thường xuyên của họ, do
đó sẽ ít hơn những chuyến đi lại thường xuyên giữa những nơi mà người đó đang ở
hoặc nghiên cứu đến một nơi khác nơi cư trú thường xuyên của họ;
(ii). Nơi mà người đó đi đến phải dưới 12 tháng liên tục, nếu từ 12 tháng liên
tục trở lên sẽ trở thành người cư trú thường xuyên ở nơi đó (theo quan điểm của
thống kê);
(iii). Mục đích chính của chuyến đi sẽ không phải đến đó để nhận thù
lao (hay là để kiếm sống) do đó sẽ loại trừ những trường hợp chuyển nơi cư trú cho
mục đích công việc. Vì thế những người đi với các mục đích sau đây sẽ được tính
vào khách du lịch như: đi vào dịp thời gian rỗi, giải trí và các kỳ nghỉ; đi thăm bạn
bè, họ hàng; đi công tác; đi điều trị sức khoẻ; đi tu hành hoặc hành hương; đi theo
các mục đích tương tự khác.
Dựa theo khái niệm này mà khách du lịch được chia làm hai loại là: khách du
lịch quốc tế và khách du lịch trong nước. Theo đó, khách du lịch quốc tế là bất kỳ
một người nào đó đi ra khỏi nước người đó cư trú thường xuyên và ngoài môi
trường sống thường xuyên của họ với thời gian liên tục ít hơn 12 tháng với mục
đích của chuyến đi là không phải đến đó để dược nhận thù lao (hay nói cách khác là
không phải để kiếm sống), không bao gồm các trường hợp sau:
(i) Những người đến và sống ở nước này như một người cư trú thường xuyên
ở nước đó kể cả những người đi theo sống dựa vào họ;
(ii) Những người công nhân cư trú ở gần biên giới nước này nhưng lại làm
việc cho một nước khác ở gần biên giới nước đó;

10


(iii) Những nhà ngoại giao, tư vấn và các thành viên lực lượng vũ trang ở
nước khác đến theo sự phân công bao gồm cả những người ở và những người đi

theo sống dựa vào họ;
(iv) Những người đi theo dạng tị nạn hoặc du mục;
(v) Những người quá cảnh mà không vào nước đó (chỉ chờ chuyển máy bay
ở sân bay) thông qua kiểm tra hộ chiếu như những hành khách transit ở lại trong
thời gian rất ngắn ở ga sân bay. Hoặc là những hành khách trên thuyền đỗ ở cảng
mà không được phép lên bờ.
Trong đó, khách du lịch trong nước là bất kỳ một người nào đó đi ra khỏi
môi trường sống thường xuyên của họ và trong phạm vi nước sở tại với thời gian
liên tục dưới 12 tháng và mục đích của chuyến đi là không phải đến đó để dược
nhận thù lao (hay nói cách khác là không phải để kiếm sống), như vậy khách trong
nước không bao gồm các trường hợp sau:
(i) Những người cư trú ở nước này đến một nơi khác với mục đích là cư trú ở
nơi đó;
(ii) Những người đến một nơi khác và nhận được thù lao từ nơi đó;
(iii) Những người đến và làm việc tạm thời ở nơi đó;
(iv) Những người đi thường xuyên hoặc theo thói quen giữa các vùng lân cận
để học tập hoặc nghiên cứu;
(v) Những người du mục và những người không cư trú cố định;
(vi) Những chuyến đi diễn tập của các lực lượng vũ trang.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội cũng như nỗ lực giữa các quốc
gia trong quá trình ngày càng thúc đẩy sự hợp tác, giao lưu phát triển; khái niệm du
lịch hiện nay theo quan điểm của WTO không chỉ bó hẹp trong phạm vi hoạt động
của con người đi ra khỏi môi trường sống thường xuyên với mục đích tham quan
các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử trong nước và quốc tế hoặc đi vui chơi

11


giải trí mà ngày càng được mở rộng thêm về quy mô và các loại hình du lịch. Tiếp
thu tinh thần đó, Luật Du lịch Việt Nam năm 2017 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01

năm 2018)đã đưa ra khái niệm về hoạt động du lịch tại khoản 1 Điều 3. Cụ thể: “1.
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp
với các mục đích hợp pháp khác”. Từ định nghĩa trên có thể thấy, hoạt động du lịch
bao gồm những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, nói tới du lịch là nói tới sự di chuyển của con người từ địa điểm
này sang địa điểm khác với những mục đích đa dạng và bằng các phương tiện khác
nhau. Sự di chuyển này của con người là liên tục. Vì vậy hoạt động du lịch là không
bao giờ ngừng.
- Thứ hai, có nhiều chủ thể liên quan tới hoạt động du lịch. Đó là khách du
lịch là các chủ thể tiến hành các dịch vụ liên quan đến du lịch. Xét về bản chất,
khách du lịch là những người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi
học, làm việc để nhận thu nhập ở nơi đến. Đó là những người di chuyển từ nơi ở
thường xuyên của mình đến những địa điểm khác nhau với mục đích tham quan,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Trong khi đó, các chủ thể
tiến hành các dịch vụ liên quan đến du lịch là những tổ chức, cá nhân tiến hành các
công việc nhằm tạo điều kiện cho hoạt động du lịch diễn ra quy mô, có tổ chức một
cách chuyên nghiệp hoặc đơn giản là trợ giúp, đáp ứng cho các nhu cầu của khách
du lịch nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
- Thứ ba, hoạt động du lịch thường diễn ra tại các khu, các điểm du lịch là
nơi có tài nguyên du lịch. Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Du lịch năm 2017,
tài nguyên du lịch là “cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa
làm cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng
nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch văn hóa”. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa

12



hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử
dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch văn hóa bao gồm truyền thống
văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ,
kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người là các di sản văn hóa vật
thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.
Có thể thấy nơi diễn ra các hoạt động du lịch thường là những khu vực có giá
trị cao về thẩm mĩ, sự đặc sắc về truyền thống văn hóa, về phong tục tập quán, sự đa
dạng về sinh thái hay là nơi diễn ra các sự kiến chính trị - kinh tế - văn hóa – xã hội.
Chính vì vậy, mặc dù được xác định là “ngành công nghiệp không khói” nhưng do
diễn ra tại các khu vực có giá trị cao về văn hóa, thẩm mĩ và môi sinh mà các hoạt
động du lịch đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường. Điều
này không chỉ xâm hại trực tiếp tới tình hình và chất lượng môi trường và còn gây
thiệt hại tới quá trình phát triển kinh tế, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của
người dân cũng như gây thiệt hại ngược trở lại cho hoạt động du lịch.
1.1.2. Những tác động của hoạt động du lịch tới môi trường
1.1.2.1. Những tác động tích cực của hoạt động du lịch tới môi trường
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, “Môi
trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự
tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”. Theo định nghĩa này, hệ thống môi
trường được tạo thành bởi các yếu tố thuộc về môi trường vật chất tự nhiên và các
yếu tố môi trường nhân tạo. Trong đó, các yếu tố môi trường vật chất tự nhiên là
những yếu tố tồn tại và phát triển dựa trên những quy luật khách quan vốn có của tự
nhiên mà con người chỉ có thể tác động tới chúng trong một chừng mực nhất định
(môi trường đất, nước, không khí,…). Trong khi đó, các yếu tố môi trường nhân tạo
là những yếu tố do con người tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển của mình để
phục vụ cho chính cuộc sống của con người. Do đó, khi nghiên cứu về những ảnh
hưởng của hoạt động du lịch tới môi trường, cần xét tới những ảnh hưởng này tới
chất lượng môi trường vật chất tự nhiên cũng như môi trường nhân tạo.

13



Thứ nhất, đối với môi trường vật chất tự nhiên
Mục đích của khách du lịch trong quá trình thực hiện hoạt động du lịch là
nhằm thụ hưởng các giá trị mà hoạt động du lịch đem lại trong quá trình khai thác
và sử dụng các giá trị các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sự tồn tại và phát triển của
du lịch với tư cách là một ngành kinh tế gắn liền với khả năng khai thác tài nguyên,
khai thác đặc tính của môi trường xung quanh. Các cảnh đẹp của thiên nhiên như
núi, sông, biển cả...các giá trị văn hoá như các di tích, công trình kiến trúc nghệ
thuật...hay những đặc điểm và tình trạng của môi trường xung quanh là những tiềm
năng và điều kiện cho phát triển du lịch. Cần nhận thức được rằng, không một quá
trình sản xuất nào không đòi hỏi phải khai thác tài nguyên thiên nhiên, các thành
phần môi trường. Đặc biệt đối với ngành du lịch, nơi mà tài nguyên thiên nhiên
đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các sản phẩm thu hút khách du lịch và
có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngành. Các thành phần của
môi trường tự nhiên cảnh quan, hệ sinh thái đều là những yếu tố hình thành nên tài
nguyên du lịch, tạo ra sức hấp dẫn du lịch. Du lịch chỉ có thể phát triển khi các yếu
tố này được bảo vệ, duy trì. Các điểm tham quan, du lịch chỉ có thể hấp dẫn khách
du lịch khi có một môi trường sạch đẹp, vệ sinh môi trường trong không khí, nước,
đất được đảm bảo, đáp ứng được mong muốn nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng và bảo vệ được
sức khoẻ cho du khách. Rõ ràng, cần phải thực hiện tốt các yêu cầu bảo vệ môi
trường để thực hiện mục tiêu thu hút khách du lịch đến lưu trú dài ngày tại các điểm
tham quan, du lịch. Trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển du
lịch, cần phải cân nhắc, tính toán tới vấn đề môi trường tương xứng với vị trí và vai
trò của nó, cần nhận thức một cách sâu sắc và đúng đắn bản chất, vai trò của môi
trường đối với sự phát triển của hoạt động du lịch.
Do đó, thông qua hoạt động du lịch, các yếu tố tài nguyên du lịch sẽ được
khai thác và sử dụng gắn liền với quá trình bảo tồn và phát triển giá trị của các
nguồn tài nguyên du lịch đó, góp phần đóng góp quan trọng vào nguồn thu của ngân
sách nhà nước cũng như đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu sử dụng dịch vụ du

lịch của khách du lịch. Tài nguyên du lịch được coi là một phân hệ du lịch quan

14


trọng, mang tính quyết định của hệ thống lãnh thổ du lịch, là mục đích khám phá
của du khách, là cơ sở quan trọng để hình thành, phát triển du lịch ở một khu, điểm
du lịch ở các địa phương hoặc quốc gia. Nói cách khác, hoạt động du lịch có mối
quan hệ mật thiết với môi trường, khai thác đặc tính của môi trường để phục vụ mục
đích phát triển và tác động trở lại góp phần làm thay đổi các đặc tính của môi
trường. Đây là cơ sở quan trọng để bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên du
lịch; giữ gìn giá trị của môi trường tự nhiên.
Mặt khác, trong quá trình thực hiện hoạt động du lịch, các chủ thể sẽ phải
thực hiện các nghĩa vụ tài chính về bảo vệ môi trường thông qua các quy định về
thuế, phí, kí quỹ, các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ trong hoạt động bảo vệ môi
trường…Đây là cơ sở quan trọng để tạo nguồn thu ngược trở lại cho công tác bảo vệ
môi trường; góp phần định hướng xây dựng nền du lịch phát triển theo hướng hiện
đại và thân thiện với môi trường hơn.
Thứ hai, đối với môi trường nhân tạo.
Du lịch đã và đang dần trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng
của nhiều nước công nghiệp phát triển. Mạng lưới du lịch đã được thiết lập ở hầu
hết các quốc gia trên thế giới. Các lợi ích kinh tế mang lại từ du lịch là điều không
thể phủ nhận, thông qua việc tiêu dùng của du khách đối với các sản phẩm của du
lịch. Nhu cầu của du khách bên cạnh việc tiêu dùng các hàng hoá thông thường còn
có những nhu cầu tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức, học hỏi, vãn cảnh,
chữa bệnh, nghỉ ngơi, thư giãn…Do đó, việc phát triển hoạt động du lịch sẽ kéo
theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, vì sản phẩm du lịch mang tính liên
ngành có quan bệ đến nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế như giao thông vận tải,
xuất nhập khẩu... Khi một khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách ở mọi
nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá dịch vụ tăng lên đáng kể. Xuất phát

từ nhu cầu này của du khách mà ngành kinh tế du lịch không ngừng mở rộng hoạt
động của mình thông qua mối quan hệ liên ngành trong nền kinh tế, đồng thời làm
biến đổi cơ cấu ngành trong nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa, các hàng hoá, vật tư

15


cho du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp,
hấp dẫn. Do đó, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng sáng tạo cải tiến,
phát triển các loại hàng hoá du lịch. Để làm được điều này, các doanh nghiệp bắt
buộc phải đầu tư trang thiết bị hiện đại, tuyển chọn và sử dụng công nhân có tay
nghề cao đáp ứng được nhu cầu của du khách thông qua việc xây dựng các công
viên vui chơi giải trí, các công viên cây xanh, hồ nước nhân tạo, các làng văn hoá
du lịch...Thông qua đó hoạt động du lịch sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện cơ sở
hạ tầng của địa phương nơi có tài nguyên du lịch theo hướng ngày càng hiện đại và
phát triển hơn.
Bên cạnh đó, phát triển hoạt động du lịch còn góp phần giải quyết vấn đề
việc làm cho người lao động tại chính địa phương nơi có tài nguyên du lịch cũng
như những người lao động từ nơi khác tới cung ứng dịch vụ du lịch. Bởi các ngành
dịch vụ liên quan đến du lịch đều cần một lượng lớn lao động. Từ đây, hoạt động du
lịch góp phần tạo ra nguồn thu nhập cho người lao động, giải quyết các vấn đề xã
hội, đảm bảo các chính sách về việc làm và an sinh xã hội ngày càng được đáp ứng
một cách tốt hơn cho người dân.
Như vậy, rõ ràng rằng hoạt động du lịch và môi trường có tác động qua lại,
tương hỗ lẫn nhau và nếu khai thác, phát triển hoạt động du lịch không hợp lý có thể
sẽ là nguyên nhân làm suy giảm giá trị của các nguồn tài nguyên, suy giảm chất
lượng môi trường và cũng có nghĩa là làm suy giảm hiệu quả của chính hoạt động
du lịch.
1.1.2.2. Những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch tới môi trường
Những tác động của hoạt động du lịch làm ảnh hưởng tới chất lượng môi

trường không chỉ phát sinh trong quá trình các tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt
động du lịch; mà nó sẽ phát sinh ngay tại thời điểm chuẩn bị cho việc thực hiện các
hoạt động du lịch cũng như quá trình sau khi các hoạt động du lịch đó kết thúc. Cụ
thể, trong giai đoạn xây dựng các khu du lịch, các hoạt động chủ yếu được tiến hành
bao gồm san lấp chuẩn bị mặt bằng; khai thác vật liệu để xây dựng các công trình

16


hạ tầng và dịch vụ du lịch; xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, hệ thống
cung cấp nước và năng lượng, hệ thống thu gom và xử lý chất thải...); xây dựng các
công trình dịch vụ du lịch; các hoạt động vận chuyển; v.v. Các hoạt động này khi
được thực hiện sẽ tác động làm ảnh hưởng trực tiếp đến cảnh quan, môi trường sống
(nơi cư trú) của nhiều loài sinh vật, làm tăng nguy cơ mất cân bằng trong phát triển
các hệ sinh thái,... Tác động này thường nhận thấy rõ khi phát triển xây dựng các
khu du lịch ở những khu vực có môi trường nhạy cảm như rừng ngập mặn ven biển,
các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. Bên cạnh đó, trong quá trình tiến hành
các hoạt động du lịch – nếu không có những biện pháp nhằm bảo tồn và giữ gìn các
giá trị, thành phần môi trường, nguy cơ để xảy ra các vấn đề về ô nhiễm môi
trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường là luôn hiện hữu. Sau khi tiến
hành các hoạt động du lịch, các giá trị và lợi ích của thành phần môi trường tất
yếu sẽ bị ảnh hưởng. Do đó, nếu không kịp thời tiến hành các biện pháp nhằm
khôi phục và cải thiện tình hình môi trường thì sẽ dẫn tới những hậu quả về ô
nhiễm môi trường rất khó khôi phục, thậm chí không khôi phục được. Tóm lại,
những ảnh hưởng, tác động tiêu cực của hoạt động du lịch tới tình hình môi
trường tự nhiên và chất lượng cuộc sống của con người có thể được nhìn nhận
dựa trên một số nội dung cụ thể sau:
- Thứ nhất, hoạt động du lịch làm tăng sức ép đối với vấn đề khai thác và
sử dụng tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên du lịch nói riêng
Như trên đã phân tích, hoạt động du lịch là một trong những ngành kinh tế

phụ thuộc lớn vào các yếu tố thuộc về chất lượng môi trường tự nhiên thông qua
quá trình khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên để phát triển du lịch. Do đó,
khi du lịch càng phát triển thì tất yếu nhu cầu khai thác giá trị, lợi ích của các nguồn
tài nguyên du lịch này càng tăng cao nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu
của khách du lịch khi tới điểm du lịch. Tuy nhiên, tài nguyên du lịch là tài nguyên
có giới hạn, chứ không phải dồi dào và vô hạn. Do đó, sức ép mà ngành du lịch đặt
ra cho các vấn đề bảo tồn và phát triển tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài
nguyên du lịch càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

17


- Thứ hai, hoạt động du lịch – nếu không được kiểm soát chặt chẽ - sẽ gây
tổn hại nghiêm trọng tới chất lượng môi trường và tài nguyên du lịch, gây ra các
vấn đề về ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và sự cố môi trường.
Việc phát triển du lịch thường đi kèm với sự gia tăng các các sức ép lên môi
trường; các nhu cầu tiêu dùng quá lớn và hoạt động du lịch thiếu tính bền vững của
một bộ phận khách du lịch là yếu tố góp phần tạo ra các hiện tượng ô nhiễm, suy
thoái môi trường và các hiện tượng này, đến lượt nó sẽ huỷ hoại ngành du lịch.
Trong nhiều trường hợp, do tốc độ phát triển quá nhanh của hoạt động du lịch vượt
ngoài nhận thức và năng lực quản lý nên đã tạo sức ép lớn đến khả năng đáp ứng
của tài nguyên và môi trường, gây ô nhiễm cục bộ và nguy cơ suy thoái lâu
dài. Những tác động trực tiếp có thể kể tới như: (i) Tăng áp lực ô nhiễm môi trường
do lượng chất thải (rác và nước thải) từ hoạt động của khách du lịch trong quá trình
tham quan du lịch và từ các cơ sở dịch vụ du lịch; (ii) Tăng khả năng ô nhiễm môi
trường không khí, nước, đất và các hệ sinh thái từ các phương tiện dịch vụ vận
chuyển, vui chơi giải trí, các cơ sở lưu trú...; (iii) Tăng khả năng phát sinh các dịch
bệnh do khách mắc phải từ nơi khác; (iv) Tăng nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học
do có nhu cầu về thực phẩm (đặc biệt là đặc sản), hàng lưu niệm (được làm từ các
loài sinh vật quý hiếm) của du khách; do sự tập trung lượng lớn du khách trong mùa

giao phối; v.v; (v) Tăng nguy cơ xói mòn vùng cát ven biển do phát triển các khu du
lịch biển; (vi) Tăng nguy cơ ùn tắc giao thông, tăng áp lực đối với hệ thống hạ tầng
xã hội, đặc biệt trong mùa du lịch, thời gian lễ hội, ngày nghỉ cuối tuần. Bên cạnh
đó, hoạt động du lịch còn kéo theo việc xây dựng kết cấu hạ tầng, khách sạn và
công trình dịch vụ du lịch. Điều này tất yếu dẫn đến việc xâm lấn những diện tích
đất trước đây là những cảnh quan thiên nhiên, những khu đất trồng trọt và chăn
nuôi. Hoạt động phát triển các khu du lịch thường dẫn đến việc giảm quỹ đất canh
tác nông nghiệp.

18


Bên cạnh những ảnh hưởng tới chất lượng môi trường tự nhiên, hoạt động du
lịch cũng là yếu tố không nhỏ tác động đến chất lượng cuộc sống của cộng đồng
dân cư nơi diễn ra các hoạt động du lịch. Có thể thấy, du lịch là tổng thể của những
hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại giữa khách du
lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương
khách du lịch. Trong quá trình thực hiện hoạt động du lịch, các chủ thể này tác động
qua lại lẫn nhau trong đó khách du lịch là yếu tố trung tâm. Đối với công đồng dân
cư địa phương, du lịch là một cơ hội để tìm việc làm, tạo thu nhập; đồng thời họ
cũng là những nhân tố hấp dẫn khách du lịch bởi lòng hiếu khách và phong tục tập
quán, bản sắc văn hoá. Tuy nhiên, trong một số các dự án phát triển du lịch, người
dân địa phương bị buộc phải rời khỏi nơi cư trú và rời bỏ các ngành nghề truyền
thống gắn bó với họ qua nhiều thế hệ. Nếu không có những phương án giải quyết
thỏa đáng, người dân sẽ rất khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn sinh kế mới do
không được chia sẻ hoặc chia sẻ không thoả đáng lợi nhuận từ việc phát triển du
lịch. Nói cách khác, từ đây những mâu thẫn xã hội sẽ nảy sinh giữa các thành viên
của cộng đồng do có sự tranh chấp các lợi thế để có được nguồn thu tốt hơn từ du
lịch, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ gắn bó đặc trưng cho cuộc sống truyền thống


19


×