Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 91 trang )

NGÔ QUANG TRUNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG NHÃN HIỆU – MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

NGÔ QUANG TRUNG

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG NHÃN HIỆU – MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

NGÔ QUANG TRUNG


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn “ Pháp luật về tên miền liên quan đến nhãn hiệu”
Xin cam đoan:
- Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
- Luận văn được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Đình Nghị
- Những thông tin, số liệu, bản án được trích dẫn trong luận văn đầy đủ,
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
- Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong
các luận văn khác.

Xác nhận của GVHD

Tác giả luận văn

TS. Lê Đình Nghị

Ngô Quang Trung


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả quý thầy
cô đã giảng dạy trong chương trình Cao học Luật Kinh tế - Viện Đại học Mở

Hà Nội, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở
cho tôi thực hiện tốt luận văn này.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Lê Đình Nghị đã
tận tình hướng dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Thầy đã hướng
dẫn, chỉ bảo cho tôi rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, cô Khoa đào tạo Sau đại học
- Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học
tập. Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè những người
đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa
nhiều nên luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của
Thầy/Cô và các bạn học viên./.
Hà Nội, ngày … tháng… năm 2018
Học viên

Ngô Quang Trung


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU VÀ CHUYỂN GIAO QUYỀN
SỬ DỤNG ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU ............................................................. 8
1.1. Nhãn hiệu và khái quát quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu ............................................................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm về nhãn hiệu ................................................................. 8

1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu ................................................................................... 14
1.1.3. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu................ 19
1.1.3.1. Quyền của chủ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ........... 19
1.1.3.2. Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu ....................................... 23
1.2. Khái quát chung về chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu ...24
1.2.1. Khái niệm chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu ............ 24
1.2.2. Nội dung và hình thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu ...... 26
1.2.2.1. Nội dung chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu .................... 26
1.2.2.2. Hình thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu ................... 27
1.2.3. Ý nghĩa của việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu .............. 27
1.2.4. So sánh chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với chuyển nhượng
quyền sở hữu nhãn hiệu và với chuyển giao quyền sử dụng đối với một số
đối tượng SHCN khác............................................................................ 29
1.2.4.1. So sánh chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với chuyển
nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu ......................................................... 29


1.2.4.2. Phân biệt chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với chuyển
nhượng tên thương mại ...................................................................... 30
1.2.4.3. Phân biệt chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với nhượng
quyền thương mại ............................................................................... 32
1.2.4.4. Phân biệt chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với chuyển
quyền sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp ........... 34
1.2.4.5. Phân biệt chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với chuyển
giao công nghệ ................................................................................... 35
1.3. Các quy định về chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong các
điều ước quốc tế và pháp luật ở một số nước ........................................ 36
1.4. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về chuyển giao quyền sử
dụng nhãn hiệu tại Việt Nam.................................................................. 40

Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG NHÃN HIỆU ................................ 45
2.1. Khái niệm quyền sử dụng nhãn hiệu............................................... 45
2.1.1. Phân biệt quyền sử dụng nhãn hiệu với quyền sử dụng chỉ dẫn địa
lý ........................................................................................................... 45
2.1.2. Phân biệt quyền sử dụng nhãn hiệu với quyền sử dụng tên thương
mại ........................................................................................................ 47
2.2. Cách thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu .......................... 48
2.2.1. Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu độc lập ............................ 49
2.2.2. Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đi cùng với các đối tượng
khác ....................................................................................................... 49
2.3. Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu........................... 50
2.3.1. Khái niệm hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu ......... 51
2.3.2. Chủ thể của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu ...... 52
2.3.3. Đối tượng của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu... 53


2.3.4. Nội dung của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu .... 53
2.3.5. Phân loại hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu .......... 60
2.3.6. Hiệu lực của hợp đồng ................................................................. 61
Chương 3: THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG NHÃN
HIỆU TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................ 63
3.1. Thực trạng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam .. 63
3.1.1. Vấn đề xác định giá trị sử dụng của nhãn hiệu trong hoạt động
chuyển giao quyền sử dụng.................................................................... 69
3.1.2. Vấn đề khai thác, duy trì và phát triển nhãn hiệu sau khi chuyển
giao........................................................................................................ 70
3.1.3. Tính nghiêm túc trong hoạt động chuyển giao quyền sử dụng nhãn
hiệu........................................................................................................ 72
3.1.4. Về số phận của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

trong trường hợp bên chuyển giao là doanh nghiệp phá sản ................... 73
3.1.5. Về vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong trường hợp
nhãn hiệu đó trùng với tên thương mại .................................................. 74
3.1.6. Về vấn đề giải quyết tranh chấp trong quan hệ hợp đồng chuyển
giao quyền sử dụng nhãn hiệu................................................................ 74
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển giao quyền
sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam ............................................................. 75
KẾT LUẬN ................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

CGCN

: Chuyển giao công nghệ

HĐTM

: Hiệp định thương mại

KDCN

: Kiểu dáng công nghiệp

License


: Chuyển quyền sử dụng

LDN

: Luật Doanh nghiệp

NQTM

: Nhượng quyền thương mại

NHHH

: Nhãn hiệu hàng hóa

SHTT

: Sở hữu trí tuệ

SHCN

: Sở hữu công nghiệp

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG


Số thứ tự

Nội dung

Trang

Số lượng đơn đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử
Bảng 3.1

dụng đối tượng SHCN và hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đối tượng SHCN đã được đăng ký tại Cục
SHTT từ năm 2000 đến 2010

Trang 67


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo quan niệm truyền thống, tài sản hữu hình thường là bộ phận chủ
yếu trong tổng số tài sản và đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Tài sản hữu hình trong doanh nghiệp bao
gồm tiền mặt, nhà xưởng, máy móc, vật kiến trúc, nguyên nhiên vật liệu, bán
thành phẩm hoặc thành phẩm tồn kho…Ngày nay, dưới nhận thức của các nhà
kinh doanh trên thế giới, tài sản của mỗi một doanh nghiệp không chỉ còn là
các tài sản hữu hình mà còn là các tài sản vô hình như giá trị quyền sử dụng
đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kinh doanh, trình độ của người lao
động…Trong số các tài sản vô hình đó, với xu thế phát triển của nền kinh tế

tri thức như hiện nay, giá trị quyền sở hữu trí tuệ mà đặc biệt là giá trị quyền
sở hữu công nghiệp trong đó có giá trị của nhãn hiệu được các doanh nghiệp
và các nhà làm luật quan tâm hơn cả.
Cùng với sự tìm tòi, sáng tạo, cải tiến, đổi mới về công nghệ sản xuất,
các doanh nghiệp ngày càng tạo ra được các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu
mã đẹp, tiện ích cho người tiêu dùng. Ban đầu, để phân biệt sản phẩm, dịch
vụ do mình làm ra với các sản phẩm, dịch vụ của những chủ thể kinh doanh
khác, các doanh nghiệp đã gắn lên mỗi loại sản phẩm, dịch vụ của mình nhãn
hiệu đặc trưng riêng có. Khi sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp ngày càng
được nhiều người tiêu dùng biết đến và sử dụng thì cũng đồng nghĩa với việc
doanh thu của doanh nghiệp sẽ không ngừng tăng lên, thị phần doanh nghiệp
ngày càng lớn, uy tín doanh nghiệp ngày càng được khẳng định. Chính từ đó,
nhãn hiệu của sản phẩm, dịch vụ không còn chỉ đơn thuần là dùng để phân
biệt nữa mà giá trị của nó đã được định hình trong tâm trí người tiêu dùng,
trong các đối thủ cạnh tranh và nó có thể định giá được bằng tiền mặt. Thế


2

giới đã được biết đến những nhãn hiệu nổi tiếng, mang lại cho doanh nghiệp
sở hữu nhãn hiệu một giá trị tài sản khổng lồ như nhãn hiệu Google (132,1 tỷ
USD), Apple (182,8 tỉ USD), Microsoft (104,9 tỉ USD)1…Còn ở thị trường
Việt Nam, rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng cũng được nhắc đến như cà phê
Trung Nguyên, kem đánh răng P/S, võng xếp Duy Lợi, phở 24, VINATABA.
Trong rất nhiều thương vụ, giá trị của nhãn hiệu (thể hiện uy tín của
doanh nghiệp) lại được định giá cao hơn các tài sản cố định khác của doanh
nghiệp. Thí dụ, trong khi góp vốn liên doanh xây dựng nhà máy sản xuất kem
đánh răng Elida P/S, giá trị nhà xưởng và quyền sử dụng đất của phía Việt
Nam được định giá chưa đến 1 triệu USD, trong khi đó nhãn hiệu P/S được
mua với giá hơn 4 triệu USD. Tất cả những điều này đều thể hiện giá trị to lớn

mà nhãn hiệu mang lại cho doanh nghiệp, từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết là vừa
phải bảo vệ nhãn hiệu không bị xâm phạm (đăng ký bảo hộ) vừa phải mở
rộng thị trường sử dụng sản phẩm, dịch vụ để tăng doanh thu và đặc biệt là
quảng bá nhãn hiệu một cách rộng rãi đến người tiêu dùng. Tuy nhiên, không
phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ năng lực về tài chính, nhân sự, thời
gian …để cùng lúc làm được các điều này. Do đó, một giải pháp được các
doanh nghiệp sử dụng đó là tiến hành chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
cho những doanh nghiệp mà mình tin tưởng. Với việc chuyển giao quyền sử
dụng nhãn hiệu của mình, bên chuyển giao sẽ có được một số lợi ích cơ bản
như: mở rộng được thị trường tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ của mình mà
không cần phải tốn nhiều tiền của, công sức đầu tư xây dựng mạng lưới chi
nhánh, văn phòng đại diện tại nhiều nơi (trong nước cũng như trên thế giới);
tăng doanh thu cho bên chuyển giao; nhãn hiệu được quảng bá ra nhiều thị
trường và được người tiêu dùng biết đến nhiều hơn; có khả năng bảo vệ nhãn
hiệu cho sản phẩm của mình tốt hơn trước các hành vi xâm phạm nhãn hiệu
bởi bên nhận chuyển giao sẽ là “tai mắt” cho bên chuyển giao trong việc thu
1

/>

3

thập các thông tin liên quan đến việc xâm phạm nhãn hiệu…Bên nhận chuyển
giao sẽ được hưởng lợi rất lớn từ việc các sản phẩm của mình được phép gắn
nhãn hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn: một chiếc áo sơ mi giá bình thường chỉ cỡ
100.000 đồng, khi được gắn nhãn hiệu Pierre Cardin thì giá của nó được
khách hàng toàn thế giới chấp nhận sẽ tương đương 60 – 70 USD (khoảng
hơn 1 triệu đồng). Các mặt hàng điện tử gia dụng ngày nay gần như tất cả đều
là Sanyo, Toshiba, … nhưng made in China, Thailand, Malaysia, Vietnam,…
phần lớn chúng được sản xuất từ các quốc gia đó nhưng được phép mang

những nhãn hiệu Nhật Bản nổi tiếng. Chất lượng của những sản phẩm này
nhìn chung là tốt (tuy có thể ít nhiều thua kém sản phẩm chính hãng). Tuy
nhiên, vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức được nhãn
hiệu cũng là một tài sản của doanh nghiệp, vì vậy không nhận thức được giá
trị của nhãn hiệu và việc chuyển giao nhãn hiệu nên ít đầu tư cho nó. Phần lớn
doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư số tiền rất lớn cho thiết bị hay công nghệ mới,
song còn rất khiêm tốn khi đầu tư cho việc xây dựng, bảo vệ và quảng bá
nhãn hiệu. Mặt khác, khoa học pháp lý của nước ta tuy có rất nhiều công trình
nghiên cứu về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp
nói riêng nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu
sắc về vấn đề chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu. Do đó, các vấn
đề lý luận cũng như các vấn đề pháp lý liên quan đến chuyển giao quyền sử
dụng đối với nhãn hiệu chưa được làm rõ, dẫn đến có nhiều cách hiểu không
thống nhất, nhiều doanh nghiệp còn nhầm lẫn nó với các hình thức chuyển
giao một số đối tượng sở hữu công nghiệp khác.
Trên cơ sở những phân tích nêu trên và với mong muốn tìm hiểu,
nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực chuyển giao
quyền sử dụng nhãn hiệu, tác giả lựa chọn thực hiện đề tài “Chuyển giao
quyền sử dụng nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam.”


4

2. Tình hình nghiên cứu
Đối với nước ngoài: Đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa như:
1. “Quyền sở hữu công nghiệp” của các giáo sư Albert Chavane và
Jean Jacques Burst (Cộng hòa Pháp, 1993);
2. “Nhãn hiệu hàng hóa - sự sáng tạo, giá trị và sự bảo hộ” của Francis
Le FEBVRE (Cộng hòa Pháp, 1994);

3. “Nhãn hiệu hàng hóa” của giáo sư Andrea Semprini Đại học
Montpellier III (Cộng hòa Pháp, 1995);
4. “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp” của Tiến sĩ Gordian N.
Hasselblatt (Cộng hòa Liên bang Đức, Beck Mỹnchen, 2001)… Các công
trình nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề luật nhãn hiệu hàng hóa của các
nước đó.
Đối với trong nước: Một số nhà khoa học, luật gia đã có những công
trình khoa học liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu hàng hóa như:
1. “Nâng cao vai trò và năng lực của Tòa án trong việc thực thi quyền
sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" TS. Đinh Ngọc
Hiện - Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, 1999.
2. “Ý nghĩa của Nghị định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp và vấn đề tổ chức thực hiện" của PGS.TS
Đoàn Năng.
3. "Pháp luật về sở hữu trí tuệ - Thực trạng và hướng phát triển trong
những năm đầu thế kỷ XXI" của PGS.TS Lê Hồng Hạnh - đề tài khoa học cấp
Bộ, Bộ Tư pháp, 2000.
4. "Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự" của PGS.TS Đinh Văn
Thanh, Luật gia Đinh Thị Hằng) ...; trong các hội thảo khoa học, nhiều nhà


5

khoa học cũng đề cấp đến vấn đề này, như: "Xử lý xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp và thực hiện Nghị định 12/CP/1999 của Chính phủ" của PGS.TS
Đoàn Năng, "Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu
công nghiệp tại Việt Nam" của TS. Đinh Ngọc Hiện, "Tầm quan trọng của bảo
hộ nhãn hiệu hàng hóa trong kỷ nguyên hội nhập kinh tế nhằm tăng cường tính
cạnh tranh toàn cầu" của tác giả Trần Việt Hùng. Đặc biệt, trong hội thảo tại

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2001, nhiều bài viết đã đề cập trực tiếp đến vấn
đề nghiên cứu, như: "Bảo hộ quốc tế nhãn hiệu hàng hóa" của tác giả Trần Việt
Hùng; trong Tạp chí Nhà nước và Pháp luật cũng có bài nghiên cứu, như: "Về
thực trạng và phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay" của PGS.TS Đoàn Năng... ; trong Tạp chí
Luật học cũng có một số bài như: "Thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa" của
PGS.TS Lê Hồng Hạnh... "Giáo trình Luật dân sự Việt Nam" của Trường Đại
học Luật Hà Nội cũng có chứa đựng nội dung về sở hữu trí tuệ...
Nhìn chung, các công trình của các tác giả Việt Nam đề cập vấn đề bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa trong mối quan hệ
chung với các đối tượng khác của sở hữu trí tuệ, có nêu lên thực trạng xâm
phạm, có kiến nghị giải pháp khắc phục... Nhưng cho đến hiện nay, vẫn chưa
có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa, đặc biệt là thực trạng
về chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài: “Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo
pháp luật Việt Nam” nhằm các mục tiêu sau:
Về mặt khoa học:
- Quá trình thực hiện luận văn sẽ góp phần hệ thống hóa những quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng như một số quy định cơ bản


6

của các điều ước quốc tế cũng như pháp luật một số nước quy định về vấn
đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu.
- Góp phần làm rõ cũng như bổ sung và hoàn thiện về mặt lý luận của
vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong khoa học pháp lý.
Về mặt thực tiễn:

- Giúp nâng cao kiến thức, sự hiểu biết của mọi người mà đặc biệt là
các doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu.
Từ đó giúp họ phân biệt giữa chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với
chuyển giao tên thương mại, tránh những nhầm lẫn đáng tiếc có thể xảy ra,
đồng thời vận dụng có hiệu quả hơn trên thương trường.
- Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng của việc chuyển giao quyền sử dụng
nhãn hiệu tại Việt Nam, luận văn chỉ rõ những tồn tại, vướng mắc trong quá
trình thực hiện chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu từ đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển giao quyền sử dụng nhãn
hiệu tại Việt Nam.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Khoa học pháp lý của nước ta tuy có rất nhiều công trình nghiên cứu về
quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng nhưng
chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về vấn đề
chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu. Do đó, các vấn đề lý luận cũng
như các vấn đề pháp lý liên quan đến chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn
hiệu chưa được làm rõ, dẫn đến có nhiều cách hiểu không thống nhất. Chính
vì vậy, tác giả mong muốn luận văn sẽ đóng góp một cách nhìn toàn diện,
chuyên sâu hơn về vấn đề này, chỉ rõ những tồn tại, vướng mắc trong quá
trình thực hiện chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu từ đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
tại Việt Nam. Tác giả hy vọng luận văn sẽ trở thành một trong những nguồn
tài liệu tham khảo cho những đọc giả quan tâm đến vấn đề này.


7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu chủ yếu là cơ sở lý luận về nhãn
hiệu mà trong đó tập trung vào vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu

và thực trạng của việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: cơ sở lý luận và thực trạng của việc
chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam. Tuy nhiên luận văn cũng
có đề cập đến vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo pháp luật quốc
tế, so sánh giữa chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với chuyển giao tên
thương mại để nhằm tăng tính phong phú, đa dạng, toàn diện của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng đến các phương pháp chủ
yếu như:
- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để tìm kiếm,
tập hợp lại toàn bộ các tài liệu có liên quan đến đối tượng nghiên cứu nhằm
phục vụ cho quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn.
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này giúp làm rõ các vấn đề lý
luận về vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đánh giá: Phương pháp này giúp cho luận văn có
được cái nhìn đa chiều, toàn diện, đúng đắn và sâu sắc về vấn đề cần nghiên cứu
từ đó rút ra được những kết luận, kiến nghị có tính chính xác cao và khoa học,
thể hiện rõ tư duy, tính mới, tính sáng tạo và cách lập luận của tác giả.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu và chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu
Chương 2. Những quy định của pháp luật Việt Nam về chuyển giao
quyền sử dụng nhãn hiệu.
Chương 3. Thực trạng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt
Nam và một số kiến nghị.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU VÀ CHUYỂN GIAO
QUYỀN SỬ DỤNG ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU

1.1. Nhãn hiệu và khái quát quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1.1.1. Khái niệm về nhãn hiệu
Thuật ngữ nhãn hiệu “brand” xuất phát từ người Aixơlen cổ đại với
nghĩa là đốt cháy “to burn”. Theo một số nghiên cứu cho thấy, từ thời xa xưa
con người đã biết sử dụng nhãn hiệu để nhận biết nguồn gốc, xuất xứ của
hàng hóa, dịch vụ. Đối với gia súc, người chăn nuôi gia súc khi trao đổi, mua
bán gia súc của mình với người khác đã dùng biện pháp đánh dấu thông qua
các vết cắt, xiên lỗ trên tai các con gia súc. Đối với các đồ thủ công mỹ nghệ
như đồ gốm sứ, tơ lụa, gia thú con người đã biết dùng chữ ký hoặc biểu tượng
để phân biệt sản phẩm do họ làm ra với sản phẩm của người khác. Trải qua
các cuộc cách mạng công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa, dịch vụ có nhiều
bước phát triển vượt bậc. Khi hàng hóa được tạo ra ngày càng nhiều, dịch vụ
ngày càng phong phú, đa dạng thì nhãn hiệu đã trở thành một công cụ hữu
hiệu để nhận biết cũng như phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể sản
xuất kinh doanh khác nhau. Các sản phẩm cùng loại do các chủ thể khác nhau
sản xuất ra đều có nhãn hiệu khác nhau. Chính vì thế, thông qua nhãn hiệu,
người tiêu dùng có thể nhận biết và lựa chọn tiêu thụ các sản phẩm có nhãn
hiệu mà mình ưa dùng hoặc muốn mua mà không sợ bị nhầm lẫn và mất
nhiều thời gian. Hiện nay, nhãn hiệu chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong
hoạt động thương mại, nó không chỉ là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt như
đã nói ở trên mà nó còn có giá trị kinh tế và trở thành tài sản vô hình quý giá
của chủ thể sản xuất kinh doanh, đôi khi giá trị kinh tế mà nhãn hiệu mang lại


9


còn lớn hơn rất nhiều so với các tài sản hữu hình khác. Chính vì vậy, nhãn
hiệu có thể được mua bán hoặc có thể cho thuê quyền sử dụng.
Về khái niệm nhãn hiệu hiện có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nhãn
hiệu. Dưới góc độ luật pháp quốc tế, trước đây Công ước Paris về bảo hộ sở
hữu công nghiệp không đưa ra khái niệm nhãn hiệu là gì. Việc không đưa ra
khái niệm cụ thể về nhãn hiệu là do muốn tạo điều kiện để các nước thành
viên Công ước tự đưa ra những khái niệm về nhãn hiệu cho phù hợp với đặc
điểm của nước mình. Tuy nhiên, đến khi Hiệp định TRIPS 1994 về các khía
cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ ra đời thì khái niệm
nhãn hiệu đã được định rõ. Theo Điều 15.1 hiệp định TRIPS, khái niệm
nhãn hiệu hàng hóa được quy định như sau: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ
hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó,
đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa
và tổ hợp các sắc màu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có
khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa”. Có thể thấy khái niệm nhãn
hiệu hàng hóa trong hiệp định TRIPS được quy định một cách khái quát,
việc xác định một đối tượng bất kỳ có phải là nhãn hiệu hàng hóa hay không
sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng và “bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân
biệt hàng hóa này với hàng hóa khác” thì đều có thể xem là yếu tố cấu thành
của một nhãn hiệu hàng hóa.
Còn dưới góc độ pháp luật trong nước, trước đây, theo quy định tại
Điều 785 Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1995
thì: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu
hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được
thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”. Nhưng đến Bộ luật Dân sự 2005 thì



10

lại không có quy định như thế nào là nhãn hiệu mà chỉ quy định nhãn hiệu là
một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (Điều 750). Đế n
Bộ luật dân sự 2015, các điều luật về sở hữu trí tuệ đã bị loại bỏ và được quy
định riêng trong luật chuyên ngành. Hiện nay, khái niệm nhãn hiệu được quy
định cụ thể tại Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung
2009 (sau đây gọi tắt là Luật sở hữu trí tuệ), điều đặc biệt là Luật Sở hữu trí
tuệ không có quy định về nhãn hiệu hàng hóa riêng và nhãn hiệu dịch vụ riêng
mà chỉ đưa ra một khái niệm nhãn hiệu dùng chung cho cả hai loại đó. Theo
đó nhãn hiệu được hiểu “là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của
các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Dấu hiệu được nhắc đến trong khái niệm
này phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới các dạng như: chữ cái, từ ngữ, hình
vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện
bằng một hoặc nhiều màu sắc. Mặt khác, các dấu hiệu này còn phải có khả
năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch
vụ của chủ thể khác.
Tuy nhiên, các nước khác nhau lại định nghĩa về nhãn hiệu có phần
khác nhau. Theo quy định tại Điều L711-1 Bộ luật Sở hữu trí tuệ Pháp, thì
“nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ là các dấu hiệu có thể thể hiện
được dưới dạng chữ viết dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ của một thể
nhân, pháp nhân.
Dấu hiệu quy định tại đoạn trên chủ yếu bao gồm:
a. Tên gọi được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào như: Từ, tập hợp từ,
tên người, tên địa lý, biệt hiệu, bút danh, chữ cái, chữ số, chữ viết tắt;
b. Dấu hiệu âm thanh như: âm thanh, lời nhạc;
c. Dấu hiệu hình ảnh như: hình vẽ, nhãn sản phẩm, con dấu, đường
viền, hình nổi, ảnh chụp giao thoa laze, biểu tượng, hình ảnh tổng hợp, hình
thức, đặc biệt là hình thức sản phẩm, hình thức bao bì sản phẩm, hình thức
đặc trưng của dịch vụ, cách bố trí kết hợp màu sắc, sắc thái màu".



11

Về cơ bản, khái niệm nhãn hiệu theo quy định của Pháp cũng được
định nghĩa theo mục đích sử dụng: là các dấu hiệu nhằm phân biệt sản phẩm
dịch vụ của thể nhân và pháp nhân, bên cạnh đó đã liệt kê một cách cụ thể
các loại dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu và phạm vi các dấu hiệu mở
rộng hơn rất nhiều so với quy định của Việt Nam. Nhiều dấu hiệu từ ngữ và
hình ảnh đã được bảo hộ tại Pháp mà Việt Nam chưa quy định như biệt hiệu,
bút danh, chữ viết tắt, nhãn sản phẩm, con dấu, đường viền, ảnh chụp giao
thoa laze, hình thức bao bì sản phẩm, hình thức đặc trưng của dịch vụ và
ngoài các loại dấu hiệu thông thường như từ ngữ, hình ảnh, màu sắc thì dấu
hiệu âm thanh cũng có thể được sử dụng làm nhãn hiệu. Tuy nhiên, luật của
Pháp quy định rất chặt chẽ là các dấu hiệu này phải có khả năng thể hiện được
dưới dạng chữ viết "graphisme" nghĩa là phải thể hiện được trên giấy - phải
có khả năng nhìn thấy được, kể cả với dấu hiệu âm thanh. Nhãn hiệu âm
thanh phải được thể hiện thành nốt nhạc và tiết tấu nhạc trên giấy và bảo hộ
nhãn hiệu âm thanh là bảo hộ giai điệu nhạc gắn lên hàng hoá dịch vụ thông
qua những nốt nhạc mà người nộp đơn thể hiện trên giấy. [6, 13]
Các dấu hiệu như âm thanh cũng như một số dấu hiệu từ ngữ và hình
ảnh được sử dụng làm nhãn hiệu theo quy định của Pháp chưa được quy
định trong pháp luật hiện hành của Việt Nam nhưng cùng với việc tiếp cận
và giao lưu với những hệ thống pháp luật tiên tiến trong quá trình hội nhập,
khái niệm về nhãn hiệu của Việt Nam đã được hoàn thiện và gần với chuẩn
mực quốc tế hơn, điển hình là khái niệm nhãn hiệu quy định trong Hiệp định
thương mại (HĐTM) Việt Nam – Hoa Kỳ tại khoản 1 Điều 6: “Nhãn hiệu
hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các
dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với
hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình

ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của


12

hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao
gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận”. Có
thể thấy, khái niệm nhãn hiệu trong HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ đã có sự mở
rộng hơn về phạm vi các yếu tố có thể được đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa tại Việt Nam trong thời gian tới.
Còn đối với Cộng đồng Châu Âu nói chung, do số lượng các quốc gia
thành viên tương đối nhiều và mỗi nước đều có những nét đặc thù riêng biệt
nên pháp luật về nhãn hiệu của các quốc gia thành viên cũng khác nhau. Do
đó, nếu muốn bảo vệ lợi ích chung của khối, Cộng đồng Châu Âu nhất thiết
phải có những bước điều chỉnh, định hướng chung cho các quốc gia thành
viên. Chỉ thị 89/104/EEEC3 và Quy định 40/944 của Cộng đồng Châu Âu
được xem là những văn bản pháp lý đầu tiên quy định các vấn đề liên quan
đến nhãn hiệu ở cấp độ cộng đồng, được áp dụng chung thống nhất trên toàn
Châu Âu. Mục đích của những quy định này là nhằm đảm bảo điều kiện đăng
ký nhãn hiệu hài hòa ở tất cả các quốc gia thành viên. Theo quy định tại Điều
2 Chỉ thị 89/104/EEEC3 và Điều 4 Quy định 40/944 của Cộng đồng Châu Âu
nhãn hiệu được định nghĩa như sau: “Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm
bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày một cách rõ ràng và chi tiết, đặc biệt là
các từ, bao gồm tên riêng, các phác họa hình ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng
của hàng hóa hoặc bao bì của sản phẩm với điều kiện là những dấu hiệu đó
phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh
này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác”. Theo định nghĩa
này, nhãn hiệu phải đáp ứng ba điều kiện: thứ nhất, phải là “dấu hiệu”; thứ
hai, phải “được trình bày rõ ràng và chi tiết”; thứ ba, phải “có khả năng
phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa,

dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác” [2, 26].


13

Đoạn 1127 Lanham Act (đạo luật điều chỉnh về nhãn hiệu của Hoa
Kỳ), lại thiên về định nghĩa nhãn hiệu hàng hóa là chủ yếu. Theo đó, nhãn
hiệu hàng hóa được hiểu như sau: “Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa bao gồm
bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà
được sử dụng bởi một người, hoặc được một người có ý định chân thành là sử
dụng nó trong thương mại và xin đăng ký theo quy định tại luật này để xác
định và phân biệt hàng hóa của người đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc
chủng với hàng hóa được sản xuất hoặc được bán bởi những người khác và
chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa thậm chí cả khi không xác định được nguồn
gốc đó”. Định nghĩa này kết hợp hai chức năng khác nhau của nhãn hiệu đó là
vừa chỉ ra nguồn gốc hàng hóa vừa phân biệt hàng hóa của chủ thể này với
hàng hóa của chủ thể khác.
Ngoài ra, theo Philip Kotler một chuyên gia marketing hàng đầu của
thế giới thì: “Nhãn hiệu sản phẩm là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng,
hình vẽ hay sự phối hợp giữa chúng, có công dụng dùng để xác nhận hàng
hóa hay dịch vụ của một người bán hay một nhóm người bán và phân biệt
chúng với các hàng hóa, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh”.
Trên cơ sở những luận cứ nêu ở trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm
về nhãn hiệu như sau: “Nhãn hiệu là những dấu hiệu có thể nhận biết được
dùng để phân biệt hàng hóa (dịch vụ) của nhà sản xuất, kinh doanh này (của
nhà cung ứng dịch vụ này) với hàng hóa (dịch vụ) của nhà sản xuất, kinh
doanh khác (của nhà cung ứng dịch vụ khác) và chỉ ra nguồn gốc của hàng
hóa (dịch vụ). Như vậy, dù được định nghĩa như thế nào đi chăng nữa thì
nhãn hiệu vẫn được xác định bởi hai yếu tố cơ bản là hình thức nhãn hiệu
(dấu hiệu) và chức năng phân biệt của nhãn hiệu. Nhãn hiệu luôn là dấu hiệu

được gắn liền với hàng hóa, dịch vụ và có ba chức năng cơ bản nhất: là tài sản
vô hình vô cùng quý giá của nhà sản xuất kinh doanh; là dấu hiệu để phân biệt


14

hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau giúp người tiêu dùng dễ
dàng lựa chọn; là công cụ để quảng bá hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất
kinh doanh với người tiêu dùng, với hi vọng rằng khách hàng sẽ mua lại trong
những lần sau hay giới thiệu với người khác. Nhãn hiệu được phân chia thành
các loại: nhãn hiệu thông thường (bao gồm cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn
hiệu dịch vụ), nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu chứng nhận và
nhãn hiệu nổi tiếng.
1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu
Thuật ngữ “sở hữu công nghiệp” được sử dụng chính thức trong các
văn bản pháp luật đầu tiên trên thế giới là ở nước Pháp vào thế kỷ XVIII.
Theo đó, quan điểm thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cũng như
quyền tác giả cũng được bắt nguồn tư nước Pháp. Tất cả đều xuất phát từ lý
luận về quyền tự nhiên do hai nhà triết học nỗi tiếng nước Pháp Vonte và
Rutxo khởi xướng. Dựa theo lý luận này, quyền của người tạo ra một tác
phẩm văn học nghệ thuật, một sáng chế, nhãn hiệu…đối với những sản phẩm
đó là quyền tự nhiên, không thể tách rời và không phụ thuộc vào sự công
nhận hay không công nhận từ phía Nhà nước [10, 9]. Quan điểm này đã được
cụ thể hóa trong Luật Sáng chế 1791 của Pháp với nội dung: “Bất kỳ ý tưởng
mới nào, mà việc công bố và thực hiện có thể có lợi cho xã hội, sẽ thuộc về
người sáng tạo ra ý tưởng đó; sẽ là sự hạn chế nhân quyền nếu không coi một
sáng chế công nghiệp mới là sở hữu của người đã tạo ra sáng chế đó”. Ngày
nay, thuật ngữ “sở hữu công nghiệp” đã được sử dụng một cách phổ biến trên
thế giới và theo Điều 1 Công ước Paris 1883 tổng sửa đổi 1979 thì: “Sở hữu

công nghiệp phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không những chỉ áp dụng
cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các
ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm


15

chế biến hoặc sản phẩm tự nhiên như rượu vang, ngũ cốc, lá thuốc lá, hoa
quả, gia súc, khoáng sản, nước khoáng, bia, hoa và bột”. Thuật ngữ này cũng
cần phải được phân biệt với thuật ngữ quyền tác giả. Tuy cùng là sản phẩm trí
tuệ nhưng nếu sản phẩm nào không liên quan đến việc tạo ra của cải vật chất
cho xã hội thì được bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả, ngược lại, những sản
phẩm trí tuệ nào gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh, có khả năng áp
dụng để tạo ra của cải vật chất cho xã hội thì sẽ được bảo hộ dưới hình thức
quyền sở hữu công nghiệp.
Các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp cùng với tiến trình phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa trên thế giới đã dần dần trở thành tài
sản vô hình vô cùng quý giá đối với những ai sở hữu chúng. Do đó, quyền sở
hữu hợp pháp đối với các đối tượng này cần phải được pháp luật bảo vệ và đó
chính là quyền sở hữu công nghiệp. Công ước Paris đã liệt kê một loạt các đối
tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm: sáng chế, nhãn hiệu,
kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn
nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh. Sau đó,
danh sách này đã được pháp luật một số nước bổ sung thêm một số đối tượng
mới, đó là: Bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
Còn ở Việt Nam, theo khoa học pháp lý hiện nay, quyền sở hữu công
nghiệp được nhìn nhận dưới hai phương diện là phương diện khách quan và
phương diện chủ quan. Trên phương diện khách quan, quyền sở hữu công
nghiệp được hiểu là pháp luật về sở hữu công nghiệp hay nói cách khác là
tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh sau

khi con người sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ và được pháp luật coi là các đối
tượng sở hữu công nghiệp. Với nghĩa này, quyền sở hữu công nghiệp là
quyền sở hữu đối với tài sản vô hình, mặt khác, quyền sở hữu công nghiệp
còn bao gồm các quy định trong các hiệp định, điều ước quốc tế song phương


16

và đa phương mà Việt Nam là thành viên như Hiệp định TRIPS 1994, Hiệp
định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000, Công ước Paris về Sở hữu
Công nghiệp 1967,...2 Trên phương diện chủ quan, quyền sở hữu công nghiệp
là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với các đối tượng sở hữu công
nghiệp. Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật SHTT thì quyền sở hữu công
nghiệp là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh”. Từ quy định này, chúng ta có thể suy
luận quyền sở hữu công nghiệp là quyền, nghĩa vụ của các chủ thể liên quan
đến việc sử dụng, chuyển dịch các đối tượng sở hữu công nghiệp. Ngoài ra,
quyền sở hữu công nghiệp còn được hiểu dưới góc độ là quan hệ pháp luật
với đầy đủ các yếu tố hội tụ như chủ thể, khách thể, nội dung. Theo đó, chủ
thể của quyền sở hữu công nghiệp là tất cả các cá nhân, tổ chức như tác giả
hay chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp hoặc tổ chức, cá nhân được
chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chuyển giao quyền sở hữu công
nghiệp. Khách thể của quyền sở hữu công nghiệp là các kết quả của hoạt động
sáng tạo trí tuệ hoặc chuyển giao quyền sở hữu được áp dụng trong các hoạt
động sản xuất, kinh doanh như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, bí mật kinh doanh. Nội dung của quyền sở hữu công nghiệp được
pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, một điều hạn chế của Luật SHTT là

đã quy định đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bằng phương pháp liệt kê
nhưng lại theo hướng đóng, trong khi khả năng sáng tạo của con người là vô
tận và do đó đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp trong tương lai có thể
không chỉ dừng lại ở những đối tượng như hai văn bản này đã liệt kê.
2

/>

×