Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Luận văn ths luật cơ quan điều tra của viện kiểm sát nhân dân một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.09 KB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN VIẾT KIÊN



C¥ QUAN §IÒU TRA CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N -
Mét sè VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT




TRẦN VIẾT KIÊN



C¥ QUAN §IÒU TRA CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N -
Mét sè VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN


Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ




HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN



Trần Viết Kiên


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN ĐIỀU
TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 9
1.1. Những vấn đề chung về Viện kiểm sát nhân dân 9
1.1.1. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân 9

1.1.2. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 10
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân 11
1.2. Sự cần thiết và lịch sử hình hành Cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân 15
1.2.1. Sự cần thiết của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân 15
1.2.2. Lịch sử hình thành Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân 18
1.3. Khái niệm và đặc điểm Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân 23
1.3.1. Khái niệm Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân 23
1.3.2. Đặc điểm Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân 25
1.4. Tổ chức và hoạt động điều tra trong luật Tố tụng hình sự ở
một số nước trên thế giới 37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 41

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN 43
2.1. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của
pháp luật hiện hành 43
2.1.1. Cơ sở pháp lý về nhiệm vụ, quyền hạn 43
2.1.2. Đặc điểm về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao 44
2.1.3. Nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao 45
2.1.4. Về thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân 54
2.1.5. Về tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao 61
2.1.6. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 62

2.2. Thực tiễn hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân 63
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc 63
2.2.2. Những hạn chế, vƣớng mắc 73
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc 75
2.3.1. Những nguyên nhân khách quan 75
2.3.2. Những nguyên nhân chủ quan 78
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 80
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIẾM SÁT NHÂN DÂN 82
3.1. Sự cần thiết phải tiếp tục tổ chức Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân 82

3.2. Những giải pháp hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Cơ
quan điều tra viện kiểm sát nhân dân 90
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật 90
3.2.2. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân 95
3.2.3. Đẩy mạnh công tác hƣớng dẫn và áp dụng pháp luật 98
3.2.4. Tăng cƣờng cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động cho Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân, các chế độ chính sách đãi ngộ
phù hợp đối với cán bộ, điều tra viên 99
3.2.5. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng 99
3.2.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hoạt động của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân 100
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104





DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CHLB: Cộng hòa Liên Bang Đức
CQĐT: Cơ quan điều tra
KSND: Kiểm sát nhân dân
TAND: Tòa án nhân dân
TPHS: Tƣ pháp hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Bảng phân tích số liệu tiếp nhận, phân loại và giải quyết
thông tin về vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ
pháp trong 5 năm gần đây (2009 – 2014)
65
Bảng 2.2:
Bảng phân tích số liệu kết quả giải quyết thông tin về vi
phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong 5

năm gần đây (2009 – 2014)
66
Bảng 2.3:
Bảng phân tích số liệu khởi tố, thụ lý, điều tra tội phạm
xâm phạm hoạt động tƣ pháp của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân trong 5 năm gần đây (2009 – 2014)
67
Bảng 2.4:
Bảng phân tích kết quả, điều tra, xử lý tội phạm xâm
phạm hoạt động tƣ pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân trong 5 năm gần đây (2009 – 2014)
68


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử tƣ pháp hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy
các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 (sửa đổi năm 2001) và Hiến pháp
năm 2013, đều khẳng định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật. Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002 và năm 2014 quy định về tổ
chức và hoạt động của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, trong đó Cơ quan
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận không thể tách rời trong
cơ cấu tổ chức và trong chỉnh thể thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chỉ quy định tổ chức hai Cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, đó là ở Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và ở Viện kiểm sát Quân sự trung ƣơng. Về phạm vi thẩm quyền cũng có

những thay đổi theo hƣớng: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội
là cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân hoặc Tòa án quân sự.
Sau hơn 50 năm đƣợc tổ chức và hoạt động, Cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân đã thực hiện điều tra một khối lƣợng lớn các vụ án hình sự,
góp phần rất tích cực cho thực hiện chức năng công tố và kiểm sát tuân theo
pháp luật nói riêng và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
Song thực tiễn cũng không tránh khỏi những hạn chế và có ý kiến cho rằng:
Quyền điều tra không nằm trong phạm trù quyền kiểm sát tuân theo pháp luật;
phải phân định rạch ròi chức năng điều tra và chức năng kiểm sát, trong khi
thực hiện nhiệm vụ kiểm sát phê chuẩn các áp dụng các biện pháp ngăn chặn,

2
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, thực hiện truy tố mà Viện kiểm sát lại có
quyền điều tra sẽ thiếu khách quan, là vừa đá bóng vừa thổi còi. Thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân vẫn còn có những bất
cập, mâu thuẫn đan xen với các Cơ quan điều tra khác. Phạm vi thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cũng chƣa đƣợc xác
định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự và pháp lệnh điều tra hình sự. Đặc
biệt là vấn đề cơ sở khoa học pháp lý trong tổ chức và hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân Nhƣng cũng có ý kiến cho
rằng nên mở rộng thẩm quyền điều tra các vụ án về chức vụ, tham nhũng cho
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân và tổ chức Cơ quan đều tra của
Viện kiểm sát nhân dân ở hai cấp hoặc thêm cấp khu vực.
Những tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra vƣớng mắc, lúng túng
trong việc áp dụng pháp luật và có không ít trƣờng hợp chƣa thống nhất trong
thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự. Mặt khác, trong thực tiễn áp
dụng, do chƣa đánh giá hết vai trò, chức năng, kết quả hoạt động của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nên dẫn đến những nhận thức phiến diện về hoạt động

chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Tất cả những vấn đề này là
nguyên nhân làm giảm hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói riêng.
Trƣớc đòi hỏi đó, việc nghiên cứu về sự cần thiết của CQĐT Viện kiểm
sát cũng nhƣ địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động, thẩm quyền điều tra, nhất là
phạm vi thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra này là hết sức cần thiết. Vì
vậy, để góp phần thực hiện cải cách tƣ pháp, triển khai thi hành Hiến pháp
2013 học viên lựa chọn đề tài: “Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, khoa học luật tố tụng hình sự là một trong những ngành

3
khoa học pháp lý phát triển so với các ngành khoa học pháp lý khác. Về Cơ
quan điều tra đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, nhiều luận văn thạc
sỹ hay luận án tiến sỹ nghiên cứu nhƣng mới tập trung nghiên cứu về Cơ quan
điều tra trong Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân hay các luận văn
nghiên cứu về khía cạnh nào đó đề cập đến Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân. Nhƣng các công trình khoa học nghiên cứu tổng thể về Cơ quan
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân còn rất hạn chế, hoặc đã không còn tính
lịch sử mà chủ yếu là các nghiên cứu dƣới một hay nhiều khía cạnh khác nhau
về vấn đề này nhƣ: “Quá trình hình thành và phát triển của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao qua các thời kỳ” – Lại Thị Loan, Tạp chí
Kiểm sát số 11 – tháng 6/2012; “Địa vị pháp lý và thẩm quyền của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” – Lại Hồng Thanh, Tạp chí Kiểm sát
số 11 – tháng 6/2011; “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng két công
tác thực tiễn hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” – Nguyễn Tiến Sơn, Tạp chí kiểm sát số
11 – tháng 6/2012; “Quyền điều tra của Viện kiểm sát và sự cần thiết phải
giao trách nhiệm điều tra tội phạm về chức vụ, tham nhũng cho Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” – TS. Đỗ Văn Đƣơng – Tài liệu tại Hội
thảo khoa học Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi về chế định cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” Hà Nội, ngày 25/9/2013; “ Tổ
chức và hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát/Viện công tố ở
một số nước trên thế giới – những kinh nghiệm rút ra đối với việc đổi mới cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân” - PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí - Tài liệu
tại Hội thảo khoa học Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi về chế
định cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” Hà Nội, ngày
25/9/2013; “Đổi mới Cơ quan điều tra của viện kiểm sát trong cải cách tư
pháp đang tiến hành ở nước ta” – GS.TS Trần Ngọc Đƣờng - Tài liệu tại Hội

4
thảo khoa học Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi về chế định cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” Hà Nội, ngày 25/9/2013; “Sự
cần thiết phải tiếp tục tổ chức Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
theo yêu cầu cải cách tư pháp” – Mai Văn Minh – Tạp chí Kiểm sát số 19 –
tháng 10/2013; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” – Lại Viết Quang –
Tạp chí Kiểm sát số 11 – tháng 6/2013; “Một số ý kiến về tổ chức và hoạt
động điều tra ở Việt Nam” – TS. Đỗ Văn Đƣơng – Tạp chí Kiểm sát số 13 –
tháng 7/2013; “Trao đổi về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và vấn đề bổ nhiệm thủ trưởng Cơ quan điều tra” –
TS. Mai Thế Bày – Tạp chí Kiểm sát số 13 – tháng 7/2013.
Tra cứu thông tin tại Trung tâm tƣ liệu – Khoa luật Đại học Quốc gia
Hà nội thì trong vòng 5 năm trở lại đây không có luận văn cấp thạc sỹ nào
nghiên cứu về chế định Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân một
cách độc lập mà chỉ có luận văn thạc sỹ: “Các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” – Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Nguyễn
Thị Thu Trang bảo vệ năm 2012, có đề cập đến Cơ quan điều tra của Viện

kiểm sát nhân dân ở một khía cạnh rất hẹp. Vì vậy, các bài viết nghiên cứu
khoa học, các đề tài cấp độ thác sỹ về chế định Cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân trong khuôn khổ phạm vi hẹp, thời gian nghiên cứu đến
nay đã có những thay đổi, phát sinh nên việc nghiên cứu và mở rộng đề tài là
điều cần thiết.
Nhƣ vậy, tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho
phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.

5
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Thông qua việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những
vấn đề lý luận và thực tiễn về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
nhằm đƣa ra khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển; khái quát các quy
định của pháp luật Việt nam cũng nhƣ pháp luật một số nƣớc trên thế giới
về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân (hay Viện Công tố). Từ đó
giải quyết vấn đề về tổ chức hoạt động, nhiệm vụ, thẩm quyền của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt nam –
Đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/05/2005 của Bộ Chính trị.
3.2. Nhiệm vụ
Tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và ngoài nƣớc về cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ
một số vấn đề chung về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
- Khái quát sự ra đời và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân trong
lịch sử tƣ pháp của nƣớc ta từ năm 1960 đến nay để rút ra những nhận xét,
đánh giá;
- Đánh giá một cách có hệ thống và tƣơng đối toàn diện về những vấn

đề lý luận của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung
quanh thực tiễn hoạt động và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về tổ chức hoạt động, thẩm quyền của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật hiện hành của Việt
Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
-Thông qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng đƣa ra những kiến nghị,

6
giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng với
yêu cầu cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp
đƣợc thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI và các Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phƣơng pháp cụ thể và
đặc thù của khoa học pháp lý nhƣ: phƣơng pháp phân tích và tổng hợp;
phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng pháp quy
nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức
khoa học pháp lý và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu
trong luận văn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
mà cụ thể là về cơ cấu tổ chức hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định

của pháp luật hiện hành; kết quả hoạt động thực tiễn của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân trong đó tập trung từ năm 2009 đến nay.
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của Pháp
luật từ năm 1960, sau khi ngành kiểm sát nhân dân đƣợc thành lập theo
Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay về Cơ quan điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân.

7
Đề tài nghiên cứu giải quyết những vấn đề xung quanh tổ chức, hoạt
động và thẩm quyền của cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo
quy định của pháp luật Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá so
sánh với tổ chức, hoạt động, thẩm quyền của Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân (hay Viện công tố) của một số quốc gia trên thế giới để rút ra
những tiến bộ trong lập pháp có thể vận dụng đối với Việt Nam.
Từ đó làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động,
phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân.
6. Những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực
tiễn liên quan tới tổ chức, hoạt động, thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới
cơ bản của luận văn là:
- Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, tƣơng đối toàn diện về
lịch sử hình thành, cơ sở lý luận và thực tiễn về Cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân.
- Luận văn phân tích và so sánh giữa Cơ quan điều tra của Viện kiểm

sát nhân dân theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân các nƣớc có cùng chế độ, hay chức năng điều tra
của Viện công tố trong pháp luật tố tụng của các nƣớc khác trên thế giới để
đúc rút ra những vấn đề tiến bộ có thể vận dụng ở nƣớc ta.
- Xuất phát từ thực tiễn yêu cầu của công cuộc cải cách tƣ pháp hiện
nay đƣa ra những kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện về Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân.

8
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các
cán bộ giảng dạy pháp luật, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của
luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các
cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
7. Cơ cầu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,cơ cấu
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân.
Chương 2: Các quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Cơ quan điều tra
Viện kiêm sát nhân dân.


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Những vấn đề chung về Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
Trong gần 55 năm qua, theo quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến
pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến
pháp năm 2014, trong Bộ máy của nhà nƣớc ta đã duy trì một hệ thống thống
nhất của Viện kiểm sát nhân dân. Về tô
̉
chƣ
́
c, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
các Viện kiểm sát nhân dân địa phƣơng và Viện kiểm sát quân sự tạo thành
một hệ thống, theo đó Viện kiểm sát nhân dân cấp dƣới chịu sự lãnh đạo của
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, các Viện kiểm sát nhân dân địa phƣơng và
Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trƣởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Viện trƣởng, các Phó Viện trƣởng và Kiê
̉
m sát viên Viện
kiểm sát nhân dân địa phƣơng và Viện kiểm sát các quân khu và khu vực do
Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bô
̉
nhiệm, miê
̃
n nhiệm, cách chức.
Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trƣớc Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trƣớc y ban Thƣờng vụ Quốc hội và Chủ tịch nƣớc.
Nhiệm kỳ của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của
Quốc hội. Bắt đầu từ Hiến pháp năm 1992 có thêm trách nhiệm của Viện

kiểm sát nhân dân địa phƣơng báo cáo trƣớc Hội đồng nhân dân về tình hình
thi hành pháp luật ở địa phƣơng và trả lời chất vấn của đại biê
̉
u Hội đồng
nhân dân.
Nhƣ vậy, xét về vị trí và về tô
̉
chức, Viện kiểm sát nhân dân hiện nay ở
Việt Nam là một hệ thống cơ quan độc lập và thống nhất do Hiến pháp quy định.

10
Tính thống nhất đƣợc thê
̉
hiện: Viện trƣởng Viện kiểm sát cấp dƣới
chịu sƣ
̣
lãnh đạo của Viện trƣởng Viện kiểm sát cấp trên. Viện trƣởng Viện
kiểm sát nhân dân địa phƣơng chịu sƣ
̣
lãnh đạo thống nhất của Viện trƣởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trƣởng, các Phó Viện trƣởng và Kiê
̉
m sát
viên Viện kiểm sát nhân dân địa phƣơng và Viện kiểm sát quân sự các quân
khu và khu vƣ
̣
c đều do Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bô
̉
nhiệm,
miê

̃
n nhiệm, cách chức.
Tính độc lâ
̣
p thê
̉
hiện: Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngƣời
đứng đầu hệ thống thống nhất đó chịu trách nhiệm và báo cáo trƣớc Quốc hội;
trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trƣớc y ban Thƣờng vụ Quốc hội và Chủ tịch nƣớc. Ở các địa phƣơng, Viện
trƣởng Viện kiểm sát nhân dân chịu trách nhiệm báo cáo công tác trƣớc Hội
đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biê
̉
u Hội đồng nhân dân.
Vị trí và những chức năng của viện kiểm sát nhân dân là hoàn toàn phù
hợp cho việc phát huy vai trò và tính chất của cơ quan giám sát công quyền –
Là một thiết chế quyền lƣ
̣
c hoàn toàn đứng trên lập trƣờng vì lợi ích chung
của nhân dân, của Nhà nƣớc để duy trì pháp luật, bảo đảm cho pháp luật và
lợi ích của nhân dân, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân đƣợc tôn trọng và bảo vệ.
1.1.2. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, hệ thống cơ quan Viện
kiểm sát đƣợc tổ chức theo đơn vị hành chính, gồm có Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phƣơng, bao gồm: a,Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng (gọi tắt là Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh); b,Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi tắt là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện); c,Viện kiểm sát


11
quân sự (bao gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ƣơng, Viện kiểm sát quân sự
quân khu và tƣơng đƣơng (gọi tắt là Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu) và
Viện kiểm sát quân sự khu vực [22].
Hiến pháp năm 2013, có sự điều chỉnh về tổ chức của hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân, tại điều 107, quy định hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân gồm: Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và các Viện kiểm sát nhân dân khác do luật định [25].
Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
(luật số 63/2014/QH13) đƣợc Quốc Hội khóa 13 thông qua ngày 24/11/2014,
có hiệu lực thi hành kể từ 01/06/2015, thì hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
bao gồm: a.Viện kiểm sát nhân dân tối cao; b. Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao; c. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng (gọi là
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh); d. Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng (gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện); e. Viện kiểm sát quân sự các cấp [26].
Viện kiểm sát nhân dân đƣợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc ta nói chung và
những nguyên tắc đặc thù: nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong
ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà
nƣớc nào ở địa phƣơng.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Bất cứ Nhà nƣớc nào trên thế giới cũng phải sử dụng quyền công tố để
chống lại hành vi nguy hại đến sự thống trị và những lợi ích cơ bản của giai
cấp cầm quyền và cũng để duy trì trật tự pháp luật, trật tự xã hội, bảo vệ
quyền con ngƣời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân; bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội. Lịch sử tƣ pháp và theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, thì quyền công tố đƣợc giao cho


12
Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố
thông qua chức năng và nhiệm vụ của mình.
Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đƣợc quy định tại
Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013
và các Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, 2014 đều quy định
Viện kiểm sát đƣợc giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tƣ pháp.
Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng những công
tác sau đây: a) Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan
khác đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; b) Điều tra một
số loại tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc
các cơ quan tƣ pháp; c) Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; d) Kiểm sát việc giải quyết các
vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật; e) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nhân dân; f) Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục ngƣời
chấp hành án phạt tù [22].
Điều 3, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì, thực hành
quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự
để thực hiện việc buộc tội của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội, đƣợc thực
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự [26].
Theo đó, thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân nhằm

13

đảm bảo phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, đúng ngƣời,
đúng tội, đúng pháp luật, mọi hành vi phạm tội, ngƣời phạm tội, không làm
oan ngƣời vô tội, không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội; đồng thời không
để ngƣời nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con
ngƣời, quyền công dân trái pháp luật.
Điều 4, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, thì kiểm sát
hoạt động tƣ pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính
hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tƣ pháp, đƣợc thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tƣ pháp; các hoạt động tƣ pháp khác theo
quy định của pháp luật [26].
Về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp năm 2013 và Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có điều chỉnh theo hƣớng sắp xếp
lại thứ tự quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng Viện Nam hiện nay và quy định Viện kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con ngƣời, bảo vệ
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm pháp luật
đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, quy định các công tác
của Viện kiểm sát nhân dân, gồm 3 nội dung cơ bản.
Thứ nhất, các công tác của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố bao gồm: thực hành quyền công tố trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; thực hành quyền công tố trong giai

14
đoạn truy tố tội phạm; thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án

hình sự; điều tra một số loại tội phạm; thực hành quyền công tố trong hoạt
động tƣơng trợ tƣ pháp về hình sự.
Thứ hai, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt
động tƣ pháp bằng các công tác sau đây: kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; kiểm sát việc khởi tố, điều tra
vụ án hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp của ngƣời tham gia tố tụng trong
giai đoạn truy tố; kiểm sát xét xử vụ án hình sự; kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, thi hành án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát việc thi hành án dân
sự, thi hành án hành chính; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tƣ pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tƣ pháp thuộc thẩm quyền;
và cuối cùng là kiểm sat hoạt động tƣơng trợ tƣ pháp.
Thứ ba, các công tác khác của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: công
tác thống kê tội phạm; xây dựng pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; đào
tạo, bồi dƣỡng; nghiên cứu khoa học; hợp tác quốc tế và các công tác khác để
xây dựng Viện kiểm sát nhân dân.
Nhƣ vậy, so với luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, thì
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đƣợc quy định tại Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 không có sự thay đổi, điểm mới của
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 là đã làm rõ nội hàm và phân
biệt cụ thể khái niệm chức năng thực hành quyền công tố, chức năng kiểm sát
hoạt động tƣ pháp và quy định cô đọng nhƣng đầy đủ hơn về các mặt công tác
của Viện kiểm sát nhân dân. Trong đó có điểm tiến bộ cần nhấn mạnh là tại
mục 5, chƣơng II, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, quy định
rõ về công tác điều tra của Viện kiểm sát nhân dân [26].

15
1.2. Sự cần thiết và lịch sử hình hành Cơ quan điều tra của Viện

kiểm sát nhân dân
1.2.1. Sự cần thiết của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân
Hiện nay, quan điểm về tổ chức Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân có ý kiến khác nhau, có nhiều ý kiến đồng ý nên tổ chức Cơ quan
điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân, nhƣng cũng có ý kiến cho rằng
quyền điều tra không nằm trong phạm trù quyền kiểm sát; phải phân định
rạch ròi chức năng điều tra và chức năng kiểm sát. Tuy nhiên, việc tổ chức
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là hoàn toàn cần thiết, vì các
lý do sau đây:
Thứ nhất, Điều tra là một trong những nội dung của quyền công tố:
Việc tổ chức Cơ quan điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân, xuất phát từ chức
năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự. Bởi vì, suy
đến cùng cơ quan điều tra cho dù đƣợc tổ chức ở bộ, ngành nào thì cũng để
phục vụ chức năng công tố, giúp cơ quan thực hành quyền công tố đƣa vụ án
ra Tòa án và buộc tội ngƣời phạm tội trƣớc Tòa án. Thực tiễn hoạt động của
ngành Kiểm sát đã chứng minh: Công tác điều tra tội phạm của Viện Kiểm sát
là một trong những mặt công tác quan trọng nhằm bảo đảm hơn để Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện có hiệu quả, làm tốt hơn chức năng thực hành quyền
công tố. Viện Kiểm sát là cơ quan chịu trách nhiệm trƣớc Nhà nƣớc về việc
bảo đảm chống làm oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm và ngƣời phạm tội. Trong
điều kiện hiện nay, Đảng ta chủ trƣơng xây dựng nền công tố mạnh. Nhằm
thực hiện chủ trƣơng của Đảng đã nêu trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị
là: “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra” [11].
Mặt khác, thông qua việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tƣ
pháp, Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan có ƣu thế trong việc nắm bắt, phát
hiện các vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực hoạt động tƣ pháp; đồng thời kết

16
quả hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân là cơ
sở để hỗ trợ cho Viện Kiểm sát thực hiện tốt hơn chức năng kiểm sát hoạt động

tƣ pháp. Do đó, việc tổ chức Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
điều tra một số tội phạm là hoàn toàn cần thiết, nhất là các tội phạm xuất phát
từ hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ các cơ quan tƣ pháp.
Thứ hai, Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát điều tra những tội phạm
mà chủ thể là những ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ khách quan
hơn, tránh đƣợc những áp lực không cần thiết trong việc xử lý tội phạm ở
những cơ quan này, vì các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, tội phạm về tham
nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ
công chức trong các cơ quan tƣ pháp thực hiện là tội phạm có chủ thể đặc
biệt, có kiến thức pháp lý và kinh nghiệm trong hoạt động tƣ pháp, có khả
năng che giấu hành vi phạm, phạm tội phạm trƣớc, trong và sau khi thực hiện
và chống đối quyết liệt khi bị phát hiện, xử lý. Nếu các cơ quan điều tra thuộc
lực lƣợng khác điều tra sẽ không khách quan bởi sự giàng buộc trong mối
quan hệ công tác giữa điều tra viên với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội hay
tâm lý, áp lực "ngƣời nhà"
Thứ ba, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đƣợc giao thẩm
quyền điều tra những vụ án xâm phạm hoạt động tƣ pháp, đây là lĩnh vực
“nhạy cảm” trong hoạt động tƣ pháp với một số tội danh nhƣ: Tội dùng nhục
hình, Tội bức cung , là những tội danh xâm phạm quyền con ngƣời, xuất
phát từ nhóm quan hệ tố tụng hình sự dễ bị tổn thƣơng. Việc giao thẩm quyền
điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp cho Cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân là sự bảo đảm về thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nƣớc, bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động tố tụng.
Thứ tư, Tuy là Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân, nhƣng
nó độc lập với Viện kiểm sát nhân dân về chức năng: Cơ quan điều tra của

17
Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các Cơ quan
điều tra theo pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các quy định

của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, và các quy định khác của pháp
luật để điều tra. Khi thực hiện điều tra vụ án hình sự thì Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân (Cục điều tra) chịu sự kiểm sát tuân theo pháp luật của
chính Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Cụ thể theo Quy chế Tổ chức và hoạt
động của Cục Điều tra ban hành kèm theo Quyết định số 1169/QĐ-VKSTC-
C6 ngày 19/8/2010 của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Viết tắt
là Quy chế 1169/2010) thì hoạt động của Cục Điều tra chịu sự kiểm sát của
Vụ Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra tội phạm xâm phạm trật tự an
toàn xã hội (viết tắt là vụ 1A). Về nội dung này đã đƣợc quy định chặt chẽ tại
các điều 20, điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Trong
đó điều 20 quy định về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng.
Đồng thời điều 21 quy định chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung
ƣơng đối với Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng. Tóm lại, Cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật về
hoạt động điều tra, độc lập với chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân
dân, “nó” không thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tƣ pháp, mà có đơn vị khác thuộc Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với Cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân nhƣ những cơ quan điều tra thuộc lực lƣợng
Công an nhân dân, quân đội nhân dân và các cơ quan khác đƣợc giao một số
nhiệm vụ điều tra.

×