Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.1 MB, 111 trang )

ĐẶNG THANH MAI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ
THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

ĐẶNG THANH MAI

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ THỰC
TIỄN TỈNH THANH HÓA

ĐẶNG THANH MAI

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM
HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa đào tạo sau đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 10 năm 2018
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đặng Thanh Mai


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Thị
Thuý Lâm đã tận tình hướng dẫn, góp ý và động viên tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô Khoa đào tạo sau đại học - Viện
Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện trong suốt quá trình được đào tạo tại hệ Cao
học của trường.
Chân thành cảm ơn Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hoá đã giúp đỡ tôi trong quá

trình thu thập số liệu và đóng góp ý kiến có giá trị thực tiễn cho tôi để tôi hoàn
thành luận văn.
Xin cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và
hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2018
Học viên thực hiện

Đặng Thanh Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC .................................... 6
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc ...................................... 6
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc........................................................ 6
1.1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................................... 8
1.2. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc .............................................. 10
1.3. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ....................................... 12
1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................. 12
1.3.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................... 15
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ................................................................................... 35
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ............................................................................... 36
2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc ........................................................ 36
2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc ........................................................... 39
2.2.1.

Chế độ ốm đau ................................................................................... 39


2.2.2.

Chế độ bảo hiểm thai sản ................................................................... 45

2.2.3.

Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ....................................... 48

2.2.4.

Chế độ hưu trí .................................................................................... 53

2.2.5.

Chế độ tử tuất .................................................................................... 62

2.3. Hồ sơ, thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm bắt buộc ..................................... 65
2.3.1. Hồ sơ, thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản ................... 65


2.3.2. Hồ sơ thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN .......................... 67
2.3.3. Hồ sơ, thủ tục giải giải quyết chế độ bảo hiểm hưu trí........................... 68
2.3.4. Hồ sơ thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm tử tuất ................................... 69
2.4. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................................................... 70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 72
Chương 3 THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC Ở TỈNH THANH HÓA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..................... 73
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Thanh Hóa73
3.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa.......................... 73
3.1.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn

tỉnh Thanh Hóa. .............................................................................................. 74
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Thanh Hóa ...................... 84
3.2.1.

Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................. 84

3.2.2.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bảo hiểm xã

hội bắt buộc ở tỉnh Thanh Hóa........................................................................ 90
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................... 98
KẾT LUẬN....................................................................................................... 99


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

ASXH

An sinh xã hội

BH

Bảo hiểm

BHXH


Bảo hiểm xã hội

BNN

Bệnh nghề nghiệp

DN

Doanh nghiệp

DSPHSK

Dưỡng sức phục hồi sức khoẻ

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

TNLĐ

Tai nạn lao động

TS

Thai sản


UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu bảng
Bảng 2.1.

Tên bảng
Số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc giai

Trang
75

đoạn 2012 - 2017
Bảng 2.2.

Tổng hợp thu, chi quỹ BHXH bắt buộc giai

76

đoạn 2012 - 2017
Bảng 2.3.

Giải quyết chế độ ốm đau, TS, DSPHSK giai

77


đoạn 2012 – 2017
Bảng 2.4.

Giải quyết chế độ tai nạn lao động giai đoạn

78

2012 - 2017
Bảng 2.5.

Tình hình giải quyết chế độ hưu trí giai đoạn

79

2012 - 2017
Bảng 2.6.

Tình hình giải quyết chế độ tử tuất giai đoạn
2012-2017

80


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là hoạt động gắn với sự hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội

loài người. Thông qua hoạt động lao động con người đã cải biến thế giới khách

quan để tạo ra của cải vật chất và sáng tạo nên những giá trị tinh thần nhằm thỏa
mãn nhu cầu của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống luôn chứa đựng những rủi ro có
khả năng làm suy giảm hoặc mất sức lao động của con người như: ốm đau, tai nạn
lao động, thất nghiệp, già yếu….Chính vì vậy, hệ thống an sinh xã hội ra đời như là
một cơ chế để phòng tránh và khắc phục những rủi ro của con người.
Khi nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển thì vấn đề an sinh xã hội
ngày càng được chú trọng. Đó là hệ thống chính sách nhiều tầng để tất cả các thành
viên trong xã hội tương trợ, giúp đỡ ở mức độ hợp lý khi bị giảm, mất thu nhập
hoặc gặp khó khăn hoạn nạn trong cuộc sống. Ở Việt Nam, các quy định nhằm mục
đích an sinh xã hội đã xuất hiện rất sớm nhưng trong thời gian gần đây vấn đề an
sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn. An sinh xã hội vừa là mục tiêu hướng tới của
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa là những nội dung,
những định hướng, những hoạt động cụ thể của các chính sách này. Những định
hướng chiến lược này nhằm hướng tới một nền an sinh xã hội cho toàn dân, bền
vững với đa tầng, đa lớp và đa hình thái, phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội
nhập với thế giới hiện đại.
Trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội thì pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc là một bộ phận đặc biệt quan trọng. Luật Bảo hiểm xã hội 2014 được Quốc hội
thông qua đã đánh dấu một bước tiến rất lớn về khung pháp lý của hệ thống pháp
luật bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng và pháp luật về an sinh xã hội nói chung.
Luật đã đi vào cuộc sống được 4 năm, tuy nhiên thực tiễn thực hiện cùng các quy
định của pháp luật vẫn còn nhiều điểm tồn tại.
Thanh Hóa là một tỉnh Bắc trung bộ. Thanh Hóa đang chú trọng phát triển
kinh tế nhằm nâng cao đời sống cho nhân dân do vậy, số lượng các doanh nghiệp
cũng như các đơn vị có sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng lên. Một
trong những vấn đề mà người lao động đặc biệt quan tâm đó là bảo hiểm xã hội
1


nói chung và bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng.

Việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc thời gian
qua trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ngoài những thành tựu đã đạt được cũng đã bộc lộ
không ít những vướng mắc, tồn tại. Điều này đòi hỏi nhu cầu cần tiếp tục nghiên
cứu để tìm cách tháo gỡ vướng mắc, góp phần hoàn thiện pháp luật để BHXH bắt
buộc thực sự đi vào đời sống. Xuất phát từ lý do trên, em đã chọn vấn đề “Pháp
luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên
cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
BHXH không phải là vấn đề mới nhưng nó trở thành mối quan tâm cả các

nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Ở phạm vi, mức độ khác nhau đã có một số
công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc nói
chung và các chế độ nói riêng, cụ thể:
- Vụ Bảo hiểm xã hội (2010), “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ
bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn đến 2020”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS.Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình
luận pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí Luật học.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS. Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Sửa đổi
Điều 60 Luật BHXH năm 2014 dưới góc nhìn quan hệ lao động tập thể”, Tạp chí
dân chủ và pháp luật.
- Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm hưu trí
đối với người cao tuổi”, Tạp chí chính trị.
- Bùi Sỹ Lợi (2015), “Tính ưu việt của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm
y tế - thách thức trong triển khai và giải pháp bảo đảm an ninh xã hội”, Tạp chí
Cộng sản.
- TS. Nguyễn Hiền Phương (chủ biên, 2015), “Bình luận khoa học một số
quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.

- Lường Thanh Huyền (2016), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực
tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
2


Nội.
Những bài viết này tuy đã đề cập đến một số chế độ của bảo hiểm xã hội bắt
buộc và Luật BHXH năm 2014 như chế độ bảo hiểm thai sản, chế độ bảo hiểm xã
hội hưu trí song chủ yếu mới dừng lại ở việc đề cập các điểm mới hoặc về cách
hiểu, cách áp dụng các quy định của luật BHXH…
Còn ở đề tài nghiên cứu này, bên cạnh việc nghiên cứu các quy định của
pháp luật về BHXH bắt buộc, luận văn tập trung chủ yếu vào thực tiễn thực hiện
pháp luật bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ đó có những đánh giá và
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc, thông qua đó cũng
giúp cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa. Bởi vậy, đây sẽ là một vấn đề nghiên cứu mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về

BHXH bắt buộc, các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn thực hiện
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên
những khía cạnh sau:
-

Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc


-

Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc và chỉ ra

những ưu điểm và hạn chế của các quy định đó
-

Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa
-

Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc và

nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Thanh Hóa
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về BHXH bắt

buộc mà cụ thể là Luật BHXH năm 2014 cùng các văn bản hướng dẫn và thực tiễn
thực hiện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Pháp luật nước ngoài về BHXH bắt buộc
3


cũng được nghiên cứu trong luận văn song chỉ ở mức độ nhất định.
-


Phạm vi nghiên cứu: Bảo hiểm xã hội bắt buộc là một lĩnh vực rộng có thể

được nghiên cứu dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau với mức độ tiếp cận
khác nhau. Trong luận văn này, tác giả chủ yếu chỉ nghiên cứu dưới góc độ pháp lý
và cụ thể ở một số khía cạnh như đối tượng tham gia, quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc,
các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc… Luận văn không đề cập đến xử lý vi phạm
pháp luật và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương

pháp luận của triết học Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực của đề
tài như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic... cũng được sử dụng.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc,

nghiên cứu và đánh giá một cách tương đối toàn diện các quy định của pháp luật về
BHXH bắt buộc.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan
hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc, đặc
biệt các cơ quan BHXH, các doanh nghiệp… trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công
tác giảng dạy và nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất kỳ ai có quan tâm đến
pháp luật BHXH nói chung, pháp luật về BHXH bắt buộc nói riêng.
7.


Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia

thành 3 chương. Cụ thể:
-

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp

luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
-

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã
4


hội bắt buộc
-

Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở

tỉnh Thanh Hóa và một số kiến nghị

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ
HỘI BẮT BUỘC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM
XÃ HỘI BẮT BUỘC

1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán khoa học và được dự báo
trước, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra do
rất nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất, hạn hán, hỏa hoạn...), tai
nạn giao thông (máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe máy...), tai nạn trong lao động
sản xuất, ốm đau, dịch bệnh... Những bất trắc, rủi ro đó đã gây ra và đem đến cho
con người những tổn thất, hậu quả to lớn cả về mặt kinh tế, lẫn môi trường sinh thái
và môi trường xã hội. Chính vì vậy mà con người đã phải đưa ra nhiều biện pháp để
phòng ngừa, hạn chế và khắc phục những biến cố rủi ro đó.
Chúng ta đang tồn tại trong một xã hội có nhà nước mà nhà nước thì điều
chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật do vậy, những biện pháp phòng ngừa, né
tránh và hạn chế rủi ro được con người chủ động thể chế hóa thành quy định cụ thể
trong các văn bản pháp luật để buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức và mọi thành viên
trong xã hội phải tuân thủ thực hiện.
Thông thường có hai nhóm biện pháp khắc phục rủi ro là các biện pháp chấp
nhận rủi ro và bảo hiểm. Chấp nhận rủi ro là người gặp phải rủi ro phải chấp nhận
khoản tổn thất đó, tự bản thân họ phải tự bảo hiểm cho mình. Họ có thể chủ động
lập quỹ dự trữ, dự phòng trước để bù đắp, khắc phục những tổn thất do biến cố rủi
ro gây nên; hoặc cũng có thể đi vay ngân hàng, các tổ chức tài chính để bù đắp tổn
thất trong trường hợp không lập quỹ dự trữ, dự phòng trước.
Bảo hiểm là sự chuyển giao, san sẻ rủi ro giữa những người cùng tham gia
bảo hiểm trên cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực đã được thống nhất và quy định
trước, nhằm đảm bảo an toàn, ổn định sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội của
6



những người tham gia bảo hiểm và cộng đồng xã hội. Bảo hiểm là công cụ quan
trọng và có hiệu quả nhất để khắc phục hậu quả tổn thất khi xảy ra rủi ro góp phần
làm ổn định, an toàn kinh tế cho mọi người, mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia
bảo hiểm.
Hệ thống bảo hiểm xã hội hình thành đầu tiên trên thế giới ở Đức dưới thời
thủ tướng Bismark với cơ chế ba bên (Nhà nước – giới chủ - giới thợ) cùng đóng
góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số trường hợp rủi ro. Đến nay,
hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và coi nó là
một trong những chính sách xã hội quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội.
Trước hết, để hiểu được BHXH bắt buộc là gì thì cần tìm hiểu về bảo hiểm
xã hội nói chung. Bảo hiểm xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học
khác nhau như kinh tế, xã hội, pháp lý... Do đó, hiện nay còn tồn tại nhiều quan
niệm khác nhau về BHXH, tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu của các nhà khoa học.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì BHXH là sự bảo đảm những quyền lợi vật chất
cho công nhân viên chức khi không làm việc vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn
lao động.[24, tr. 39]
Từ điển Giải thích từ ngữ Luật học thì xác định, BHXH là bảo hiểm cho thu
nhập của người lao động trong một số trường hợp, do Nhà nước tổ chức quản lý.
Đặc trưng cơ bản để phân biệt BHXH với các hình thức bảo hiểm khác là sự kết
hợp nghĩa vụ của người sử dụng lao động, việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội
của nhà nước với sự tương trợ cộng đồng giữa những người lao động để ổn định
cho họ và gia đình họ trong và sau quá trình lao động. [25, tr. 85]
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm về BHXH như sau: BHXH
là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt
các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội dẫn
đến việc ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, và chết; đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế
và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Như vậy có thể hiểu BHXH một cách khái quát như sau: BHXH là sự bảo

đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp
7


phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già hoặc chết; gắn với quá trình
tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia đóng góp,
nhằm bảo đảm an toàn cho đời sống của người lao động và gia đình họ góp phần
bảo đảm an toàn xã hội.
BHXH thường được thực hiện dưới 2 hình thức: BHXH bắt buộc và BHXH
tự nguyện. BHXH bắt buộc là một hình thức đảm bảo về thu nhập cho người lao
động (và một số trường hợp là thành viên gia đình) trong những trường hợp rủi ro
nhất định. Việc đảm bảo này được thực hiện trên cơ sở nghĩa vụ bắt buộc phải tham
gia đóng góp của các đối tượng nhất định nhằm tạo lập nguồn chi trả. Các đối tượng
này không có quyền lựa chọn có được tham gia hay không tham gia mà họ buộc
phải tham gia BHXH khi thuộc các trường hợp pháp luật đã quy định. Còn đối với
BHXH tự nguyện các chủ thể có quyền tham gia hoặc không tham gia, việc tham
gia không mang tính bắt buộc
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm BHXH bắt buộc như sau:
BHXH bắt buộc là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động (và trong một số trường hợp gồm cả thành viên gia đình) khi họ gặp
rủi ro hoặc biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động do một số nguyên nhân
nhất định gây ra (như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu
hoặc chết) trên cơ sở nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia bảo hiểm của người sử dụng
lao động và người lao động do nhà nước tổ chức thực hiện.
1.1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc
-

Đối với người lao động


Mục đích chủ yếu của BHXH bắt buộc là bảo đảm thu nhập cho NLĐ và gia
đình họ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất thu nhập. Vì
vậy, BHXH bắt buộc có vai trò rất lớn đối với NLĐ, đó là điều kiện cho NLĐ được
cộng đồng tương trợ khi ốm đau, tai nạn, thai sản…Đồng thời, BHXH bắt buộc
cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn
của các thành viên khác. Từ đó, các rủi ro trong lao động sản xuất (tai nạn, thất
nghiệp…) và trong đời sống NLĐ (ốm đau, tuổi già…) được khống chế, khắc phục
8


hậu quả ở mức độ cần thiết.
Tham gia BHXH bắt buộc còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi tiêu cá
nhân, giúp họ tiết kiệm những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết
chi dùng khi già cả, mất sức lao động…góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và
cho gia đình. Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh
thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, làm cho họ ổn định về tâm lý,
giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già…NLĐ tham gia BHXH bắt buộc
được đảm bảo về thu nhập ổn định ở mức độ cần thiết nên thường có tâm lý yên
tâm, tự tin trong cuộc sống. Nhờ có BHXH bắt buộc, cuộc sống của những thành
viên trong gia đình NLĐ, nhất là trẻ em, những người tàn tật... cũng được đảm bảo
an toàn.
-

Đối với người sử dụng lao động

Bảo hiểm xã hội bắt buộc giúp cho các tổ chức sử dụng lao động, các doanh
nghiệp ổn định hoạt động thông qua việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách
hợp lý. Nếu không có BHXH, khi NLĐ ốm đau, tai nạn không có nguồn thu nhập,
không có chi phí thuốc men…đời sống của họ bị ảnh hưởng thì quan hệ lao động,
chất lượng, hiệu quả lao động trong doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng theo. BHXH bắt

buộc góp phần làm cho lực lượng lao động trong mỗi đơn vị ổn định, sản xuất,
kinh doanh được hoạt động liên tục, hiệu quả, các bên của quan hệ lao động cũng
gắn bó với nhau hơn.
Bảo hiểm xã hội tạo điều kiện cho NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ, không
chỉ khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời NLĐ, đến khi già yếu.
BHXH bắt buộc làm cho quan hệ lao động có tính nhân văn sâu sắc, nâng cao trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
-

Đối với xã hội

Bảo hiểm xã hội có tác dụng đối với xã hội là tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro,
nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố tình đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên
trong xã hội. Chính điều đó đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của BHXH. Mặc dù
không nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng BHXH bắt buộc là công cụ
phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro,
9


tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc còn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của
mỗi quốc gia. Nếu kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp
kém thì hệ thống BHXH bắt buộc cũng chậm phát triển ở mức tương ứng. Khi kinh
tế càng phát triển, đời sống của NLĐ được nâng cao thì nhu cầu tham gia BHXH
bắt buộc của họ càng lớn. Thông qua hệ thống BHXH bắt buộc, trình độ tổ chức,
quản lý rủi ro xã hội của Nhà nước cũng ngày càng được nâng cao thể hiện bằng
việc mở rộng đối tượng tham gia, đa dạng về hình thức bảo hiểm, quản lý được
nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở phát triển các chế độ BHXH...
Hoạt động BHXH bắt buộc cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư,
làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Đặc biệt, với

bảo hiểm hưu trí, nguồn vốn tích lũy trong thời gian dài, kết dư tương đối lớn, có
thể đầu tư vào các doanh nghiệp, các dự án cần huy động vốn, mang lại lợi ích cho
tất cả các bên: người tham gia BHXH, cơ quan BHXH bắt buộc và nền kinh tế nói
chung.
1.2.

Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Nguyên tắc của BHXH bắt buộc được hiểu là những nguyên lý, tư tưởng chỉ

đạo quán triệt và xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống các quy định của pháp luật cũng
như thực hiện pháp luật. BHXH bắt buộc là một trong các hình thức bảo hiểm nên
cũng tuân theo các nguyên tắc chung của BHXH và có tính đến những yếu tố đặc
thù. Cụ thể, BHXH bắt buộc được thực hiện theo các nguyên tác sau:
* Mức hưởng BHXH bắt buộc được xác định trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội
Dưới góc độ kinh tế, bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân
phối tổng sản phẩm quốc dân nên việc thực hiện BHXH phải dựa trên cơ sở sự kết
hợp hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ. Nghĩa là phải căn cứ vào mức đóng góp
của NLĐ cho xã hội thể hiện qua mức đóng, thời gian đóng góp cho quỹ BHXH…
để từ đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng phù trợ hợp với sự đóng
cho xã hội của NLĐ. Tuy nhiên BHXH bắt buộc bên cạnh nội dung kinh tế còn
chứa đựng trong mình nội dung xã hội thể hiện ở cách thức hỗ trợ dựa trên nguyên
10


tắc “chia sẻ rủi ro”, “lấy số đông bù số ít”. Tức là, mỗi người lao động chỉ phải
đóng góp một phần nhỏ trong thu nhập của mình để tạo lập quỹ nhưng vì nhiều
người cùng đóng góp nên tạo nên quỹ có giá trị lớn đảm bảo chi trả lượng vật chất
đủ để hỗ trợ NLĐ lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Trường hợp NLĐ may mắn không
gặp phải rủi ro như mất việc làm, tai nạn lao động… thì số tiền họ đóng góp sẽ dùng

để hỗ trợ, chia sẻ cho những người kém may mắn hơn. NLĐ đóng góp vào quỹ
BHXH bắt buộc không có nghĩa chắc chắn sẽ hưởng mọi chế độ BHXH. Nhưng sự
đóng góp của họ sẽ có ý nghĩa rất lớn cho những đối tượng gặp phải những rủi ro
nghiêm trọng mà nếu không có sự chia sẻ, tương trợ cộng đồng sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong cuộc sống. Đây chính là mục đích thể hiện bản chất xã hội của BHXH
bắt buộc .
* Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng
của NLĐ
Bản chất của bảo hiểm xã hội là bảo hiểm thu nhập cho người lao động nên
mức thu nhập được bảo hiểm phải là mức tiền lương hoặc mức thu nhập bằng tiền
nào đó do Nhà nước quy định. Trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực
tế của đại đa số NLĐ và mức thu nhập quốc dân bình quan đầu người, Nhà nước
quy định, lựa chọn mức thu nhập được bảo hiểm để bảo đảm mức thu nhập này luôn
tương đối, nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ tham gia đóng BHXH và gia đình họ.
Có hai cách để lựa chọn mức thu nhập đóng bảo hiểm bắt buộc. Cách thứ
nhất là lấy tiền lương làm cơ sở để quy định mức thu nhập được bảo hiểm. Cách thứ
hai là quy định mức thu nhập nhất định đối với người được bảo hiểm. Riêng đối với
BHXH bắt buộc, người ta thường hay lấy tiền lương làm căn cứ đóng BHXH và đó
cũng chính là cơ sở để quy định mức thu nhập được hưởng bảo hiểm. Mặt khác,
mức thu nhập đóng bảo hiểm còn là công cụ để Nhà nước giám sát, kiểm tra, điều
tiết trên giác độ quản lý vĩ mô với BHXH và quản lý lao động trong nền kinh tế
quốc dân.
* Quỹ BHXH bắt buộc được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh
bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành
phần.
BHXH nói chung, BHXH bắt buộc nói riêng là một chính sách lớn ảnh
hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Bảo hiểm xã hội bắt buộc được
11



thực hiện với nhiều chế độ khác nhau, hướng đến đảm bảo thu nhập cho người lao
động nên cần phải có nguồn tài chính ổn định . Bởi vây, việc quản lý, sử dụng quỹ
BHXH bắt buộc phải hướng tới sự đảm bảo an toàn và cân đối quỹ. Để thực hiện
được điều đó chỉ có thể thông qua sự quản lý của nhà nước. Do đó, việc sử dụng và
quản lý quỹ BHXH bắt buộc phải do Nhà nước thống nhất quản lý và hạch toán
theo quy định của pháp luật.
* Việc thực hiện BHXH bắt buộc phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH
Đây là một nguyên tắc quan trọng có tác dụng nhằm khuyến khích người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội. Trên thực tế có nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau
nhưng BHXH bắt buộc phải là hình thức bảo hiểm thu hút được người lao động
tham gia. Để thực hiện được việc đó thì BHXH bắt buộc phải được thực hiện đơn
giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia
BHXH. Người tham gia BHXH khi đóng phí BHXH là nhằm dữ trữ trước một
khoản tài chính, để đề phòng những trường hợp rủi ro xảy ra hoặc có liên quan đến
hoạt động lao động (tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp) hoặc những loại được coi
là “rủi ro xã hội” (ốm đau, thai sản, tuổi già, chết). Khi gặp những rủi ro này, chi
phí trong cuộc sống của NLĐ và gia đình họ không những tăng lên mà thu nhập còn
bị giảm đi vì không thực hiện được quá trình lao động. Trong trường hợp này các
khoản tiền BHXH giữ vai trò cần thiết và quan trọng góp phần bù đắp vào sự thiếu
hụt của NLĐ và gia đình họ nhằm ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, hỗ trợ,
và giúp đỡ họ vượt qua những rủi ro tạm thời cũng như lâu dài. Chính vì vậy, việc
thực hiện BHXH bắt buộc phải đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, đáp ứng đầy
đủ quyền lợi của người hưởng bảo hiểm.
1.3.

Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Dưới góc độ pháp lý thì “Bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quy định của Nhà

nước để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo đảm
trợ cấp nhằm ổn định đời sống cho người lao động khi họ gặp những rủi ro, hiểm

12


nghèo trong quá trình lao động hoặc khi già yếu không còn khả năng lao động”[21,
tr. 312-313].
Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật BHXH trên thế giới cho thấy,
BHXH bắt buộc là vấn đề của mỗi quốc gia. Từ cuối thế kỷ thứ XIX chính quyền
nhiều bang ở Đức bắt tay với giới thợ thuyền lập quỹ ốm đau do chính những người
thợ đóng góp bắt buộc để tương trợ cho những người bị ốm đau. Đây là lần đầu tiên
đánh dấu sự ra đời của loại hình BHXH bắt buộc. Người có công đầu trong việc xây
dựng và ban hành pháp luật BHXH thuộc về thủ tướng Đức Bismac (Bismarck).
Chính ông đã đưa ra quan điểm: “Bảo hiểm xã hội là sự tương trợ của cộng đồng
đối với người lao động, trên cơ sở gắn liền với nghĩa vụ đóng góp của người lao
động, người sử dụng lao động và trách nhiệm của xã hội (tức là của Nhà nước).”
Năm 1883, đạo luật đầu tiên về BHXH ở Đức ban hành, nhằm trợ cấp cho
NLĐ bị ốm đau. Năm 1884 mở rộng thêm dạng trợ cấp rủi ro nghề nghiệp, sau này
gọi là trợ cấp TNLĐ, BNN. Đến năm 1889 thì phát triển thêm dạng trợ cấp tuổi già
và trợ cấp tàn tật. Pháp luật BHXH của Đức quy định việc tổ chức quản lý thực hiện
BHXH gồm 3 bên, là đại diện NLĐ, đại diện NSDLĐ và Nhà nước. Cả 3 bên đều
có trách nhiệm đóng góp một phần vào quỹ BHXH và cùng quản lý. Mọi người làm
công ăn lương đều bắt buộc phải đóng góp BHXH, không phân biệt thợ lành nghề
hay thợ phổ thông, thợ trẻ hay thợ già, thợ là nam hay nữ. Từ đây, NLĐ được bảo
hộ về mặt pháp lý từ phía Nhà nước mỗi khi họ gặp rủi ro hay già yếu.
Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã có pháp luật BHXH về BHXH bắt
buộc. Mục đích của pháp luật BHXH bắt buộc ở các nước đều giống nhau là sự bảo
vệ cho NLĐ khi gặp phải rủi ro, bất hạnh do bị ngừng hoặc giảm thu nhập thì được
nhận trợ cấp để sinh sống. Phạm vi và đối tượng áp dụng của pháp luật BHXH bắt

buộc được mở rộng dần. Thông thường, các nước thực hiện BHXH cho công chức
Nhà nước và quân đội trước, rồi đến công nhân các xí nghiệp do Nhà nước quản lý,
sau đó đến người làm công ăn lương do tư nhân thuê mướn và mở rộng đến những
dạng lao động khác.
Các dạng trợ cấp cũng được bổ sung dần, nhằm che chắn toàn diện những
“rủi ro” có thể xảy ra đối với NLĐ. Như trên đã nêu, đạo luật BHXH đầu tiên trên
13


thế giới ở Đức mới chỉ thực hiện dạng trợ cấp ốm đau, sau đó các dạng trợ cấp
TNLĐ, BNN, tàn tật (mất sức lao động), già yếu (hưu trí) mới lần lượt được quy
định. Nước Nga là quốc gia đầu tiên quy định loại trợ cấp cho phụ nữ góa bụa và có
con nhỏ (trợ cấp tiền tuất) khi công chức chết. Sau đó, ở các nước khác cũng thực
hiện loại trợ cấp này. Đến năm 1911, Vương quốc Anh là nước đầu tiên có luật về
bảo hiểm thất nghiệp. Rồi một số nước khác ở Châu Âu, Canada và Hoa Kỳ cũng
thực hiện trong thập kỷ 30….
Đứng trước yêu cầu phát triển và hoàn thiện pháp luật về BHXH của nhiều
nước và trước sự thúc đẩy tiến bộ xã hội, ngày 28/6/1952, Tổ chức ILO đã thông
qua Công ước số 102 về BHXH bao gồm 9 dạng trợ cấp. Trong Công ước quan
trọng này đã định ra một cơ cấu thống nhất và có phối hợp về BHXH giữa các nước
thành viên của ILO. Tuy nhiên, Công ước cũng giành một số các lựa chọn có tính
chất ngoại lệ cho việc vận dụng đối với những nước chưa phát triển về kinh tế và y
tế trong một thời gian thích hợp.
Như vậy, với quan niệm mở rộng dần các chế độ BHXH theo hướng tăng
quyền lợi của NLĐ, các chế độ trợ cấp BHXH được phát triển dần từ một đến chín
loại để khắc phục những rủi ro xảy ra đối với NLĐ. Cho đến năm 2006 trên thế giới
đã có 172 nước có hệ thống pháp luật về BHXH [7, tr. 6].
Để thực hiện BHXH bắt buộc đối với số đông NLĐ, thì vấn đề mấu chốt là
phải huy động các nguồn đóng góp vào quỹ BHXH và cần phải có kế hoạch cân đối
việc thu và chi BHXH. Lịch sử phát triển của pháp luật BHXH trên thế giới cho

thấy, hầu hết các nước quy định ba nguồn đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc là
NSDLĐ, NLĐ và Nhà nước. Một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây thì quy định
hai nguồn đóng góp là cơ quan, đơn vị và Nhà nước, còn NLĐ không phải đóng
góp. Cá biệt có nước dùng tiền thu thuế để trợ cấp BHXH. Ngoài phần đóng góp
của các chủ thể vào quỹ BHXH bắt buộc thì quỹ còn có khoản thu khác như lãi suất
do dùng tiền BHXH để đầu tư.
Và trên hết, để thực hiện được mục đích của BHXH bắt buộc thì pháp luật
của các nước đều quán triệt quan niệm phải tăng cường vai trò mọi mặt của Nhà
nước đối với BHXH bắt buộc, mọi hoạt động liên quan đến BHXH bắt buộc do Nhà
14


nước thống nhất quản lý. Vai trò của Nhà nước thể hiện trước hết ở việc Nhà nước
trực tiếp ban hành các quy định về BHXH bắt buộc, trực tiếp tổ chức ra bộ máy
thực hiện BHXH và kiểm tra việc thực hiện BHXH bắt buộc. Tùy theo điều kiện
kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ phát triển của đất nước mà Nhà nước hoạch định
chính sách quốc gia về BHXH bắt buộc. Với tư cách là người chủ sở hữu lớn nhất,
Nhà nước có trách nhiệm đóng góp và hỗ trợ quỹ BHXH bắt buộc. Trong những
trường hợp cần thiết, Nhà nước còn áp dụng những biện pháp để bảo tồn và tăng
trưởng giá trị của quỹ BHXH bắt buộc.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm pháp luật về BHXH bắt
buộc như sau: Pháp luật về BHXH bắt buộc là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình đóng góp và chi trả các chế độ BHXH bắt buộc. Mặc dù
BHXH bắt buộc phụ thuộc vào điều kiện và quan niệm của mỗi quốc gia, song nhìn
chung pháp luật về BHXH bắt buộc là một bộ phận quan trọng nhất của pháp luật
BHXH. Nếu có một chính sách đúng đắn thì BHXH đóng vai trò quan trọng trong
việc giữ ổn định tình hình chính trị của đất nước và sự phát triển nền kinh tế quốc
dân, ngược lại, nếu không có định hướng đúng thì nó sẽ tác động tiêu cực tới tình
hình chính trị, kinh tế, sự tiến bộ xã hội .

1.3.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy định
khác nhau về BHXH bắt buộc. Song nhìn chung về nội dung pháp luật BHXH bắt
buộc của hầu hết các quốc gia thường quy định về các nội dung như đối tượng tham
gia, quỹ BHXH bắt buộc và các chế độ BHXH bắt buộc.
1.3.2.1. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Theo đánh giá của ILO, thì bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng nhất
của bảo đảm xã hội. Bởi vì, BHXH có đối tượng áp dụng chiếm tỷ lệ cao và sự “che
chắn” của BHXH là ổn định, vững chắc. Ở các nước, lực lượng lao động thường
chiếm từ 55% đến 70% dân số. Điều đó cho thấy đối tượng trực tiếp của BHXH bắt
buộc là NLĐ nói chung. Nhưng trên thực tế, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
của mỗi nước nên phạm vi, đối tượng áp dụng các chế độ BHXH có khác nhau. Có
15


nước chỉ thực hiện BHXH đối với công nhân, viên chức Nhà nước, ví dụ như Lào;
có nước áp dụng với cả NLĐ làm công ăn lương, ví dụ như Philippin, Thái Lan; có
nước hầu như áp dụng cho mọi người lao động, ví dụ như ở Liên Xô cũ, Australia.
Ngày nay, xu thế chung của nhiều nước là mở rộng đối tượng áp dụng BHXH đến
mọi lao động.
Ngoài đối tượng trực tiếp là NLĐ được áp dụng các chế độ BHXH, thì khi
NLĐ chết, các thân nhân của NLĐ như vợ (hoặc chồng), bố, mẹ đã hết tuổi lao
động hoặc con chưa đến tuổi lao động cũng được hưởng trợ cấp. Chế độ trợ cấp này
ở các nước gọi là chế độ tiền tuất.
Trong BHXH, nếu NLĐ tham gia quan hệ lao động thuộc đối tượng bảo
hiểm bắt buộc thì NSDLĐ có nghĩa vụ phải tham gia đóng phí bảo hiểm cho những
lao động đó. Do vậy, NSDLĐ cũng chính là đối tượng áp dụng của BHXH bắt
buộc.
Trên thực tế, tùy theo nhu cầu tham gia bảo hiểm và trình độ quản lý rủi ro
của từng hệ thống bảo hiểm mà đối tượng tham gia có quy mô lớn hay nhỏ. Ở

những nước phát triển, lao động làm công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động,
Nhà nước có khả năng quản lý rủi ro xã hội ở mức độ cao thì có quy mô đối tượng
tham gia BHXH lớn. Ngoài ra, còn có hình thức bảo hiểm tự nguyện cho các đối
tượng khác. Đại diện cho nhóm các quốc gia này có thể kể đến Anh, Đan Mạch, Hà
Lan… Tại Anh, “ Chế độ bảo hiểm quốc gia là chế độ bảo hiểm phổ thông và có xu
hướng phủ toàn bộ dân cư thường trú tại Anh: người làm công ăn lương, lao động
độc lập và người không làm việc” [26, tr. 351-352].
Theo đó, những người được bảo hiểm được chia thành 4 loại: Loại 1: Loại
này liên quan đến người làm công ăn lương mà thu nhập hàng tuần vượt quá sàn
57 bảng; Loại 2 và 4: Các loại này liên quan đến những NLĐ độc lập chịu một
sự đóng góp hàng tuần ấn định. NLĐ độc lập mà thu nhập vượt quá một sàn nào đó
phải trả tiền đóng bảo hiểm bổ sung với danh nghĩa của loại 4; Loại 3: Đối tượng
liên quan trước hết là những người không thuộc các loại khác hoặc việc đóng góp
thường xuyên không đủ để có các quyền đối với một số trợ cấp có sự tham gia đóng
góp.
16


Tại Hà Lan lại song song tồn tại hai hệ thống BHXH, một cho riêng người
làm công ăn lương và hai là áp dụng cho toàn bộ dân cư. Mặt khác, tồn tại các trợ
cấp xã hội không có sự đóng góp. BHXH của những người làm công ăn lương bảo
đảm chi phí duy nhất cho những người làm công ăn lương và những người giống
như vậy. Để được thụ hưởng BHXH này, phải có một HĐLĐ, ít nhất giống như
người làm công ăn lương. Đó là trường hợp người học nghề, những NLĐ tại nhà
hoặc trong các phân xưởng được bảo hiểm.
Những NLĐ thật sự độc lập không giống người làm công ăn lương và công
chức có chế độ riêng. Người làm công ăn lương mà thu nhập dưới một trần tham gia
phải thuộc chế độ ZFW (bảo hiểm ốm đau). Trần này hiện nay là 58.950 florin một
năm [26, tr. 408] (tất cả thu nhập được tính). Chế độ ZFW cũng đảm bảo những
người nhận trợ giúp xã hội. Vượt lên trần, những người làm công ăn lương không

thể lựa chọn để tham gia tự nguyện vào chế độ ZFW, nhưng có thể gia nhập một
chế độ tư nhân bảo hiểm ốm đau. Mặc dù không có một nghĩa vụ nào, hầu hết tất cả
những người liên quan đã làm như vậy. Bảo hiểm quốc gia bảo đảm chế độ bảo
hiểm cho tất cả những người sống ở Hà Lan, cũng như những người không thường
trú với điều kiện họ đang làm việc ở Hà Lan và trả thuế về lương.
Qua nghiên cứu thực tiễn quy định về đối tượng áp dụng của một số nước
trên thế giới cho thấy với đối tượng áp dụng rộng lớn, cùng với hệ thống trợ cấp
toàn diện, BHXH bắt buộc thực sự phục vụ đời sống con người, góp phần bảo đảm
cho xã hội an toàn, phát triển.
1.3.2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Khi nói về các chế độ BHXH bắt buộc, giáo trình Bảo hiểm xã hội của
Trường Đại học Lao động – Xã hội cho rằng: “Chế độ bảo hiểm xã hội là các
trường hợp được bảo hiểm do Nhà nước quy định cho người hưởng bảo hiểm, theo
các mức hưởng và thời gian hưởng khác nhau, khi có đủ điều kiện bảo hiểm phát
sinh”[24, tr. 49].
Thực tế khi nghiên cứu về các chế độ BHXH bắt buộc, có tác giả lại cho
rằng: “Chế độ bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hoá chính sách bảo hiểm xã hội, là hệ
thống các quy định cụ thể và chi tiết nhằm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối
17


×