Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.9 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ LỆ QUYÊN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ LỆ QUYÊN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. LÊ THỊ HOÀI THU

Hà Nội, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này./.

TÁC GIẢ

TRẦN THỊ LỆ QUYÊN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC . 6
1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................. 6
1.2. Khái quát pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................ 11
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM
XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN
CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG........................................................ 27
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............... 27
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại huyện
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương ....................................................................... 43
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT
BUỘC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
..................................................................................................................... 60
3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................................. 60
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt

buộc ............................................................................................................. 61
3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương 70
KẾT LUẬN ................................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động

TNLĐ, BNN

: Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1.Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của đơn vị sử dụng lao động
trên địa bàn huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-2018 ................................. 46
Bảng 2.2. Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ trên địa bàn huyện

Cẩm Giàng từ năm 2014-2018 .................................................................... 47
Bảng 2.3. Tình hình thu nộ BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng
giai đoạn 2014-2018 .................................................................................... 49
Bảng 2.4. Tình hình chi trả các chế độ BHXH giai đoạn 2014-2018 ........ 52
Bảng 2.5. Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng
giai đoạn 2014-2018 .................................................................................... 55


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam là một trong những chính sách
lớn, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, xây dựng phù hợp với yêu
cầu thực tiễn của đất nước, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao
động (NLĐ), bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Chính sách này
ra đời nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ và gia đình
họ, đảm bảo đời sống được ổn định khi họ gặp phải các sự kiện bảo hiểm
như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (TNLĐ, BNN)…
Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 ban
hành thay thế Luật BHXH 2006 đánh dấu bước phát triển mới của pháp
luật BHXH ở nước ta trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả
thực thi chế độ, chính sách BHXH, pháp điển hóa các quy định hiện hành
và bổ sung các chính sách BHXH. Theo đó mở rộng hơn nữa phạm vi tham
gia và thụ hưởng BHXH của NLĐ và tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước trong lĩnh vực BHXH.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách cũng như các
chế độ về BHXH cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập thể hiện qua nội dung
các quy định về BHXH và việc tổ chức thực thi các quy định này trong việc
giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hưu trí và tử tuất của
BHXH bắt buộc. Điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ,

dẫn đến sự thiếu công bằng giữa các đối tượng tham gia BHXH. Chế tài xử
phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH chưa đủ mạnh, tình
trạng nợ đọng, chậm đóng BHXH vẫn còn phổ biến gây mất cân đối và ảnh
hưởng đến hoạt động đầu tư sinh lời của quỹ BHXH trong dài hạn. Một số
bất cập của chính sách, chế độ BHXH nêu trên đòi hỏi cần phải được đánh
giá, xem xét một cách toàn diện, từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung để đáp
ứng với các yêu cầu thực tiễn, bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ, đảm bảo
1


an sinh xã hội. Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về Bảo hiểm xã
hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương” làm luận
văn Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu, phân tích về vấn đề BHXH bắt buộc đã được rất
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu, đã có một số công
trình nghiên cứu có giá trị được công bố. Có thể kể đến một số công trình
có giá trị liên quan trực tiếp đến chuyên ngành cũng như đề tài luận văn
như:
* Đề tài nghiên cứu:
- Vụ BHXH (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ
BHXH bắt buộc giai đoạn đến 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
* Luận án tiến sỹ:
- Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật BHXH ở Việt Nam
– Lý luận và thực tiễn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
- Đồng Thị Hồng (2015), Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành
phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
* Luận văn thạc sỹ:

- Nguyễn Thị Thúy (2014), BHXH trong luật BHXH và thực tiễn thi
hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội.
- Vũ Thị Mỹ Duyên (2018), Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực
tiễn thi hành tại thành phố Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
- Chu Linh Trang (2017), Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn
áp dụng tại tỉnh Yên Bái, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội.
2


- Nguyễn Thị Hương (2018), Pháp luật về BHXH bắt buộc qua thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật, Đại học Huế.
* Một số bài viết đăng trên tạp chí:
- TS. Lê Thị Hoài Thu (2009), Luật BHXH từ thực tiễn đến quy định
áp dụng, Tạp chí BHXH.
- Đặng Như Lợi (2014), Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm
hưu trí đối với người cao tuổi, Tạp chí Chính trị.
- Nguyễn Hữu Chí và Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình luận
pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí Luật học.
- Đỗ Quang Hải và Phạm Thị Thi (2016), “Một số vấn đề về việc
hình thành, sử dụng và phát triển quỹ BHXH theo Luật BHXH năm 2014”,
Nhà nước và Pháp luật.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã góp
phần tạo ra những cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng các quy định của
pháp luật, nêu và phân tích những điểm mới của luật, thực tiễn thực hiện và
trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị. Tuy vậy, các công trình này khi
nghiên cứu còn tản mạn, hoặc cũng đã đề cập tới quá trình thực hiện pháp

luật BHXH bắt buộc ở một số địa phương cụ thể (Hà Nội, Lạng Sơn...)
nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về việc thi hành pháp
luật BHXH tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Do vậy, Luận văn tập
trung nghiên cứu và làm sáng rõ thêm những vấn đề lý luận về BHXH bắt
buộc, thực trạng của các quy định pháp luật hiện nay và tình hình thực hiện
BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương để từ đó
đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của Luật BHXH bắt
buộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm, các quy định
của Luật BHXH năm 2014 về BHXH bắt buộc và các văn bản hướng dẫn
3


thi hành. Bên cạnh đó, Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Về phạm vi nghiên cứu, bên cạnh các quy định của pháp luật hiện
hành, luận văn còn nghiên cứu các vấn đề liên quan về lĩnh vực BHXH, kể
cả kinh nghiệm nước ngoài nhằm vận dụng vào hoàn thiện pháp luật
BHXH bắt buộc ở nước ta.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý
luận về BHXH bắt buộc, thực trạng pháp luật hiện hành về BHXH bắt buộc
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Từ đó
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc nói chung và trên địa bàn
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương nói riêng.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác
định trên những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH bắt

buộc.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc để
từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
BHXH bắt buộc.
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa
bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt
buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải
Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác –
Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, Luận văn

4


còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực
của đề tài như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các
cơ quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về
BHXH bắt buộc, đặc biệt là các cơ quan BHXH, các đơn vị tham gia
BHXH trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Luận văn cũng có
thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu pháp
luật, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật cũng như cho bất cứ ai có
quan tâm đến các chế độ BHXH bắt buộc nói riêng
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được trình bày trong 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp luật

về Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội bắt buộc và
thực tiễn thi hành tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh
Hải Dương

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Ngành bảo hiểm trên thế giới đã có lịch sử phát triển khá lâu dài.
Trước công nguyên, ở Ai Cập, những người thợ đẽo đá đã thành lập “quỹ
tương trợ” để giúp đỡ các nạn nhân trong các vụ tai nạn. Từ đó, các hoạt
động mang tính chất bảo hiểm phát triển theo sự phát triển của xã hội loài
người. Bắt đầu bằng hình thức các quỹ dự trữ, tương trợ đơn giản, dần dần
các loại hình bảo hiểm áp dụng cho từng trường hợp khác nhau được hình
thành và phát triển. Trong đó, BHXH được chính phủ một số nước xem xét
nhằm huy động sự đóng góp của NLĐ, người sử dụng lao động (NSDLĐ),
có sự hỗ trợ của nhà nước để trợ cấp cho NLĐ khi gặp những trường hợp
rủi ro, ốm đau, tai nạn già yếu không làm việc được nên không có tiền
lương để sinh sống, lâm vào cảnh khốn cùng, phát sinh nhiều ảnh hưởng
tiêu cực đến xã hội.
Hiện nay, BHXH đã trở thành một chính sách lớn và vô cùng quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta, được quy định rõ trong Hiến pháp, nhằm
góp phần ổn định thu nhập cho NLĐ và gia đình của họ khi không may gặp

rủi ro. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, BHXH được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau như: tài chính, pháp luật,… Vì vậy, có thể có nhiều
định nghĩa khác nhau về BHXH.
Tùy theo góc độ nhìn nhận mà khái niệm BHXH được tiếp cận ở nhiều
khía cạnh khác nhau:
Theo Công ước 102 của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 1952:
“BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua
các biện pháp công cộng nhằm chống lại khó khăn về kinh tế - xã hội do bị
ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, TNLĐ, thất nghiệp,
6


thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp
cho các gia đình đông con”.
Theo Từ điển tiếng Việt: “BHXH là sự bảo đảm những quyền lợi vật
chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ,
già yếu, bị TNLĐ…”
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3, Luật BHXH năm 2014 của Quốc
Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam: “BHXH là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết
trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”
Tuy xuất phát ở nhiều khía cạnh, phương diện khác nhau, nhưng có thể
khái quát về BHXH như sau:
- BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho NLĐ khi
NLĐ bị mất hoặc giảm thu nhập, thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ
tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia và có sự ủng hộ của Nhà
nước.
- BHXH được chi trả trong các trường hợp NLĐ bị giảm hoặc mất thu
nhập, chỉ trong các trường hợp: ốm đau; thai sản; TNLĐ; BNN; thất

nghiệp; hết tuổi lao động; hoặc chết.
- Quỹ BHXH được sử dụng để trả lương hưu và các khoản trợ cấp
BHXH cho NLĐ nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho NLĐ và
gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định xã hội.
- Đối tượng của BHXH chính là thu nhập bị biến động giảm hoặc mất
do các trường hợp được quy định trong Luật BHXH của những NLĐ tham
gia BHXH.
- Thực chất của BHXH là lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng
phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những NLĐ
có thu nhập thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với
những người ốm yếu phải nghỉ việc. Nói cách khác, BHXH góp phần đảm
7


bảo sự “thăng bằng” về thu nhập cho NLĐ và gia đình họ. Điều này góp
phần vào việc đảm bảo công bằng xã hội.
Tại khoản 2 Điều 3 Luật BHXH năm 2014 quy định: “BHXH bắt
buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà NLĐ và NSDLĐ phải
tham gia”. Từ khái niệm BHXH, có thể hiểu khái niệm BHXH bắt buộc là
sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ (trong một
số trường hợp gồm cả thành viên gia đình) khi họ gặp phải biến cố hoặc rủi
ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động do một số nguyên nhân nhất định
gây nên (do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết)
trên cơ sở nghĩa vụ (bắt buộc) tham gia của NLĐ và NSDLĐ. BHXH bắt
buộc là một hình thức đóng góp quan trọng hình thành nên quỹ tiền tệ tập
trung ổn định và bền vững để đảm bảo thu nhập cho NLĐ, góp phần ổn
định an sinh xã hội.
1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội bắt buộc
BHXH bắt buộc là một trong hai hình thức quan trọng của BHXH.
Vì vậy, BHXH bắt buộc có những đặc điểm của BHXH nói chung:

- BHXH bảo đảm cho NLĐ trong và sau quá trình lao động: NLĐ sẽ
được BHXH trợ cấp cho đến lúc chết khi tham gia BHXH. Khi còn làm
việc, NLĐ được hưởng các loại trợ cấp khi ốm đau, khi sinh con đối với lao
động nữ, khi bị TNLĐ, còn nếu NLĐ không còn làm việc nữa thì được
hưởng tiền hưu trí, khi chết thì gia đình được hưởng trợ cấp tiền mai táng
và tử tuất…
- Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro xã hội của NLĐ liên quan đến thu
nhập của họ. Bao gồm: ốm đau, TNLĐ, BNN, thai sản, thất nghiệp, già
yếu, chết… Do những sự kiện và rủi ro này mà NLĐ bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng, dẫn đến họ bị
giảm hoặc mất nguồn thu nhập, do đó họ cần phải có khoản thu khác bù
vào thông qua các trợ cấp BHXH, bảo đảm nhu cầu sống thiết yếu, chăm
sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật.
8


- Bên trong BHXH là mối quan hệ giữa ba bên phát sinh trên cơ sở
quan hệ lao động: Bên tham gia BHXH có thể là NLĐ hoặc NLĐ và
NSDLĐ; Bên BHXH là cơ quan chuyên trách cho Nhà nước lập ra, là bên
thực hiện nhiệm vụ BHXH; Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ. Các
bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền
lợi trên cơ sở các quy định của pháp luật về BHXH.
- Sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và sự bảo đảm của Nhà nước là
nguồn hình thành cơ bản của quỹ BHXH. Ngoài ra nguồn thu của quỹ
BHXH còn có các nguồn khác như lợi nhuận từ đầu tư phần tiền nhàn rỗi
của quỹ BHXH; khoản nộp phạt của các doanh nghiệp, đơn vị chậm nộp
BHXH theo quy định pháp luật và các nguồn thu hợp pháp khác.
- Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các
chế độ BHXH cũng do luật định và là một dịch vụ công mang tính phi lợi
nhuận. BHXH vừa có tính dự phòng xã hội, vừa mang tính phúc lợi xã hội.

Ngoài những đặc điểm chung kể trên, BHXH bắt buộc cũng có những
đặc điểm riêng phân biệt với hình thức BHXH tự nguyện, cụ thể:
Thứ nhất, căn cứ vào quy định pháp luật về BHXH, những đối tượng
nào có nghĩa vụ phải tham gia BHXH bắt buộc thì phải tham gia BHXH mà
không phụ thuộc vào ý chí của họ có muốn tham gia hay không cũng như
thay thế bằng các hình thức khác. Việc tham gia BHXH của những đối
tượng này là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ đối với họ, nếu không tham
gia thì NLĐ và NSDLĐ sẽ phải chịu chế tài xử lý theo quy định của pháp
luật.
Thứ hai, mức đóng BHXH bắt buộc được pháp luật quy định cụ thể cho
các bên tham gia mà các bên không có quyền thương lượng hay thỏa thuận.
Tỷ lệ % mức đóng của mỗi bên gồm NLĐ và NSDLĐ căn cứ trên cơ sở
quỹ tiền lương trả cho NLĐ. Pháp luật quy định trách nhiệm của cả hai bên
để san sẻ nghĩa vụ tài chính khi đóng BHXH, tạo sự gắn kết lâu dài, hài hòa
quan hệ lao động, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên.
9


1.1.3. Ý nghĩa bảo hiểm xã hội bắt buộc
 Đối với người lao động
Là một trong những chính sách kinh tế xã hội quan trọng của Nhà
nước, BHXH góp phần trợ giúp cho NLĐ khi ốm đau, tai nạn, lúc sinh đẻ
và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định
cuộc sống của cá nhân NLĐ và gia đình họ, bằng cách tạo ra cho họ những
thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi, khắc phục hậu quả ở
mức độ cần thiết… Từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao
động cũng như chất lượng công việc cho doanh nghiệp nói riêng và đảm
bảo ổn định cho toàn xã hội nói chung.
 Đối với người sử dụng lao động
BHXH bắt buộc thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của NSDLĐ đối với

NLĐ – đối tượng mà NSDLĐ khai thác lợi ích bằng sức lao động của họ.
Bên cạnh việc trợ giúp cho đời sống của NLĐ và gia đình họ khi gặp rủi ro
hay các sự kiện bảo hiểm như ốm đau, tai nạn không có nguồn thu nhập,
không có chi phí thuốc men…, BHXH bắt buộc còn là biện pháp “phân tán
rủi ro” cho NSDLĐ, giúp cho NSDLĐ có thể ổn định hoạt động, sản xuất
kinh doanh, tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi trả một khoản tiền lớn
cho NLĐ gặp rủi ro. Mặt khác, những rủi ro đối với NLĐ dẫn đến đời sống
của họ bị ảnh hưởng, từ đó chất lượng, hiệu quả cũng như năng suất lao
động trong doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng theo, BHXH bắt buộc góp
phần làm cho lực lượng lao động trong doanh nghiệp hoạt động ổn định,
liên tục, giảm bớt tình trạng tranh chấp, tạo mối quan hệ lao động tốt đẹp.
 Đối với xã hội
BHXH là công cụ quan trọng giúp NHà nước thực hiện chức năng xã
hội hiệu quả hơn nhằm đạt tới mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội. Thông
qua các quy định về BHXH, Nhà nước thực hiện việc phân phối thu nhập,
điều tiết quyền và lợi ích của các bên, đảm bảo sự công bằng trong việc giải
quyết hậu quả của rủi ro, bất trắc xảy ra. Dù không may gặp phải rủi ro thì
10


vẫn có một nguồn quỹ bảo đảm bù đắp để cho NLĐ có thể đứng vững,
NSDLĐ tiếp tục sản xuất, một nền kinh tế vẫn có thể tiếp tục duy trì, phát
triển và xã hội vẫn giữ được sự cân bằng, ổn định. Qua đó có thể thấy rằng,
BHXH đã tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, góp phần nâng cao tính cộng đồng xã
hội, củng cố tình đoàn kết và gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Hoạt
động BHXH cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị
trường tài chính phong phú và kinh tế - xã hội phát triển.
Như vậy, BHXH bắt buộc là một trong những chính sách xã hội
quan trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm ổn định đời sống kinh tế
- xã hội, là tiền đề thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững và góp phần làm

vững chắc thể chế chính trị.
1.2. Khái quát pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
Nguyên tắc BHXH là những vấn đề, những quan điểm cơ bản được
đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động BHXH [33,tr.38]. Là
một loại hình bảo hiểm, lại chủ yếu mang mục đích xã hội, BHXH vừa phải
thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt động bảo hiểm, vừa phải thực hiện
các nguyên tắc mang tính xã hội của mình. Các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật BHXH bắt buộc bao gồm:
Thứ nhất, mọi NLĐ đều có quyền tham gia và hưởng BHXH
Mọi NLĐ đều có thể gặp rủi ro , do vậy họ có quyền bình đẳng tham
gia và hưởng BHXH. Trong thực tế không phải lúc nào cuộc sống và trong
lao động cũng dễ dàng thuận lợi, có thu nhập thường xuyên và mọi điều
kiện sống bình thường, có nhiều trường hợp bất lợi phát sinh làm giảm
hoặc mất thu nhập như ốm, đau, TNLĐ… Khi gặp phải những bất lợi như
vậy được cộng đồng chia sẻ rủi ro là một nhu cầu chính đáng của NLĐ. Đó
là phương thức bảo đảm bình đẳng cho NLĐ trên phương diện xã hội, nhất
là trong điều kiện BHXH có sự bảo trợ của Nhà nước. Mặt khác, quyền
tham gia và hưởng BHXH không bị phân biệt về khu vực, ngành nghề,
11


thành phần kinh tế, có tham gia hoạt động lao động hay không… NLĐ
được tham gia và hưởng BHXH ở mức độ nào, trong những trường hợp
nào hay nói cách khác là khả năng được chia sẻ, khắc phục rủi ro đến đâu
còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ quản lý rủi ro trong
mỗi quốc gia[29,tr.19].
Thứ hai, mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
Nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt sau: người nào đóng

BHXH thì được hưởng chế độ; thời gian tham gia đóng BHXH càng nhiều,
mức đóng càng cao thì mức trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, lương
hưu, trợ cấp tử tuất và trợ cấp thất nghiệp được hưởng với mức cao và
ngược lại. Mức đóng và mức hưởng quỹ BHXH cũng thường bị khống chế
ở mức trần nhất định. Điều đó để đảm bảo công bằng xã hội và ngân sách
Nhà nước sẽ không phải hỗ trợ cho những mức bảo hiểm quá cao, ảnh
hưởng đến hoạt động chi ngân sách. Như vậy, mức đóng, hưởng BHXH
của NLĐ phải được tính toán và quy định hợp lý trong sự tương quan với
các yếu tố khác. Việc xác định mức đóng, hưởng BHXH hợp lý là nguyên
tắc quan trọng để đảm bảo tính bền vững của BHXH.
Thứ ba, BHXH thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít
Với nguyên tắc này, số đông NLĐ tham gia BHXH có quãng thời
gian làm việc có thu nhập sẽ bù cho số ít NLĐ không may gặp rủi ro bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm nên không có thu
nhập. Như vậy, càng nhiều người tham gia BHXH thì sự san sẻ rủi ro càng
được thực hiện dễ dàng hơn. Nguyên tắc lấy số đông bù số ít có ý nghĩa
quan trọng trong việc thực hiện BHXH và được vận dụng xuyên suốt trong
việc quản lý quỹ BHXH.

12


Thứ tư, Nhà nước thống nhất quản lý BHXH, tổ chức bộ máy thực
hiện chính sách BHXH
Bởi vì, BHXH là một bộ phận cấu thành chính sách xã hội, nó vừa là
nhân tố làm ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội. Do
đó, vai trò và chức năng của Nhà nước rất quan trọng. Thực tế nếu không
có sự can thiệp và sự quản lý của Nhà nước mối quan hệ giữa NLĐ và
NSDLĐ sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH
sẽ dễ bị phá vỡ.

Hơn nữa, BHXH được thực hiện trên một quy trình chặt chẽ và cụ
thể, từ việc hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp,
chế độ v.v... Vì vậy, Nhà nước sẽ phải quản lý tất cả các khâu trong quy
trình này, hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Trước hết, việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và
quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc
xây dựng và ban hành các dự án, các văn bản pháp luật về BHXH sau đó tổ
chức thực hiện. Sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá
nhân về việc thực hiện chính sách, quy định của pháp luật.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước
phụ thuộc vào các chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có những mô
hình bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì Nhà
nước sẽ quản lý trực tiếp và toàn diện, còn nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do
NSDLĐ, NLĐ và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước sẽ góp phần tham gia
quản lý. Để quản lý về BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như
luật pháp và bộ máy tổ chức.
Thứ năm, BHXH phải kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục tiêu và
phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ
Trong quan hệ BHXH, không chỉ NLĐ được đảm bảo về thu nhập
mà các bên còn lại tham gia vào mối quan hệ đều có những lợi ích nhất
định, vì vậy cần phải biết kết hợp hài hòa giữa các lợi ích. Trước hết là lợi
13


ích giữa các bên tham gia BHXH: giữa NLĐ - NSDLĐ; NLĐ - NLĐ và lợi
ích riêng giữa các bên tham gia BHXH với lợi ích, mục tiêu chung của xã
hội. Nếu NSDLĐ không chấp hành quy định của pháp luật về đóng BHXH
bắt buộc cho NLĐ thì có thể sẽ phải chịu một chi phí rất lớn khi NLĐ gặp
phải các rủi ro, sự kiện bảo hiểm như bị TNLĐ, ốm đau, thai sản…. Mặt
khác, nếu quy định NLĐ được hưởng bảo hiểm ở mức cao thì có thể dẫn

đến NSDLĐ phải đóng phí bảo hiểm ở mức cao. Điều đó làm tăng chi phí
sản xuất, tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh dẫn đến việc làm,
thu nhập của NLĐ đều bị ảnh hưởng. Nếu NLĐ đóng phí bảo hiểm ở mức
thấp thì phần thu nhập chi cho nhu cầu hàng ngày sẽ nhiều hơn nhưng khi
gặp các rủi ro như ốm đau, TNLĐ thì chỉ được đảm bảo thu nhập ở mức độ
thấp (và ngược lại). Bên cạnh đó, nếu Nhà nước không tổ chức thực hiện và
quản lý tốt BHXH thì không đạt được các lợi ích chung của xã hội và có
thể ảnh hưởng tới cả các điều kiện kinh tế, chính trị của quốc gia…
Như vậy, trong việc xây dựng chính sách, quy định các chế độ
BHXH cụ thể và trong quản lý hệ thống BHXH cần phải tìm ra các giải
pháp kết hợp hài hòa lợi ích của các bên tham gia, kết hợp lợi ích trước mắt
cũng như lâu dài của các đối tượng và xã hội tại mỗi quốc gia, phù hợp với
sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
1.2.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.2.1. Đối tượng của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Mặc dù đã ra đời rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn nhiều quan
điểm chưa thống nhất dẫn đến sự nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với
đối tượng tham gia BHXH.
BHXH bắt buộc có ý nghĩa trong việc bù đắp một phần thu nhập cho
NLĐ khi NLĐ bị suy giảm hay mất khả năng lao động dẫn đến bị suy giảm
hay mất thu nhập. BHXH bắt buộc sẽ bù đắp thu nhập cho NLĐ khi NLĐ
đang tham gia vào quan hệ lao động hoặc kể cả khi chấm dứt quan hệ lao
động hay khi NLĐ chết. Vì vậy, đối tượng của BHXH chính là phần thu
14


nhập bị mất hay giảm đi do rủi ro mà họ gặp phải trong cuộc sống làm
giảm hoặc mất khả năng lao động. Còn đối tượng tham gia BHXH trước
hết là NLĐ. Ngoài đối tượng trực tiếp tham gia là NLĐ được áp dụng chế
độ BHXH, thì NLĐ chết, các thân nhân của NLĐ như vợ (hoặc chồng), bố,

mẹ đã hết tuổi lao động hoặc con chưa đến tuổi lao động cũng được hưởng
trợ cấp (chế độ tiền tuất). Mặt khác, khi NLĐ tham gia vào quan hệ lao
động thì NSDLĐ phải có nghĩa vụ tham gia đóng phí bảo hiểm cho những
NLĐ đó, do đó NSDLĐ cũng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Tùy
vào điều kiện phát triển kinh tế của từng thời kỳ mà đối tượng tham gia có
thể là tất cả hoặc một bộ phận NLĐ nhưng nhìn chung thì kinh tế càng phát
triển thì đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ngày càng được mở rộng sang
nhiều bộ phận lao động khác.
Các bên trong BHXH bắt buộc gồm có bên thực hiện BHXH và bên
được BHXH. Bên được BHXH là NLĐ hoặc các thành viên trong gia đình
khi họ thỏa mãn đầy đủ các điều kiện hưởng BHXH theo quy định của
pháp luật. Ở một số quốc gia, bên thực hiện BHXH có thể là các tổ chức
BHXH do Nhà nước thành lập hoặc các tổ chức xã hội, kinh tế thực hiện
hoạt động bảo hiểm được Nhà nước giám sát, quản lý chặt chẽ. Hệ thống
BHXH ở Việt Nam do Nhà nước thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện
từ trung ương đến địa phương, hoạt động tuân theo quy định của pháp luật.
Các bên tham gia BHXH bắt buộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, hòa
hợp, thống nhất lợi ích và nghĩa vụ nhằm hướng tới lợi ích và mục tiêu
chung của xã hội.
Do điều kiện chính trị, kinh tế xã hội mỗi nước là khác nhau nên
phạm vi, đối tượng áp dụng các chế độ BHXH có khác nhau. Ở Đức, đối
tượng tham gia BHXH là NLĐ, tuy nhiên các quỹ BHXH thường được
triển khai với từng nhóm đối tượng NLĐ các đặc thù nghề nghiệp hay tình
trạng sức khỏe, thu nhập…, cụ thể: công nhân mỏ; NLĐ ngành hàng hải;
người làm sản xuất nông nghiệp; học sinh, sinh viên; nghệ sĩ; người làm
15


nghề xuất bản; thương nhân; công chức;…. Có quốc gia áp dụng BHXH
đối với công nhân, viên chức Nhà nước như Lào, có quốc gia lại áp dụng

cho mọi NLĐ, có thể kể đến như Australia. Tại Anh, “Chế độ bảo hiểm
quốc gia là chế độ bảo hiểm phổ thông và có xu hướng phủ toàn bộ dân cư
thường trú tại Anh: người làm công ăn lương, lao động độc lập và người
không làm việc”[35, tr.351-352]. Ngày nay xu thế chung của nhiều nước là
mở rộng đối tượng áp dụng BHXH đến mọi lao động, với đối tượng áp
dụng rộng lớn, cùng với hệ thống trợ cấp toàn diện, BHXH bắt buộc mới
thực sự phục vụ đời sống con người, góp phần bảo đảm cho xã hội an toàn,
phát triển. Vì thế ở Việt Nam, đối tượng BHXH cần được mở rộng đến tất
cả NLĐ kể cả ngắn hạn và dài hạn đảm bảo tính bền vững của quỹ BHXH
trong thời gian dài.
1.2.2.2. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, được sử
dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản
lý khác theo quy định của pháp luật. Quỹ BHXH cần phải được tính toán
sao cho nguồn thu đủ lớn và được đóng góp một cách liên tục để đảm bảo
các chi phí đầu ra ở BHXH không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai khi
mức chi ra ngày càng lớn, những người hoạch định phát triển BHXH phải
tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Quỹ BHXH là một trong những
nội dung quan trọng của hệ thống BHXH. Có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về quỹ BHXH. Cụ thể quỹ BHXH có thể được định nghĩa như sau:
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung, nằm ngoài ngân
sách nhà nước, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH (có thể bao gồm NLĐ, NSDLĐ và nhà nước trong một số trường
hợp) và các nguồn thu hợp pháp khác sử dụng để chi trả các chế độ BHXH
cho những người được hưởng bảo hiểm và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động, bị mất việc làm
hoặc bị chết theo quy định của pháp luật. Quỹ BHXH là một công cụ để
16



thực hiện chức năng tài chính BHXH và chính sách BHXH của nhà nước,
đóng vai trò vừa là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng, quỹ
BHXH vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều
kiện, cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH
tồn tại và phát triển.
BHXH là phạm trù kinh tế - xã hội tổng hợp, mặc dù tính xã hội được
thể hiện nổi trội hơn. Theo nhận định của các nhà kinh tế, kinh tế, tài chính
là nền tảng của BHXH vì chỉ khi NLĐ có thu nhập đạt đến một mức độ nào
đó thì việc tham gia BHXH mới thiết thực và hiệu quả. Cũng theo các nhà
kinh tế, BHXH chỉ có thể phát triển được theo đúng nghĩa trong điều kiện
nền kinh tế thị trường khi người tham gia BHXH có trách nhiệm đóng góp
BHXH để bảo đảm cuộc sống cho mình từ thu nhập cá nhân, NSDLĐ cũng
phải tham gia đóng BHXH cho NLĐ từ quỹ của đơn vị. Bên cạnh đó, Nhà
nước cũng có trách nhiệm bảo hộ quỹ BHXH ví dụ như đóng góp khi quỹ
BHXH mất cân đối, bị thâm hụt. Do vậy, quỹ BHXH được hình thành bởi
nhiều nguồn khác nhau, trước hết chủ yếu là phần đóng góp của các đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc tức là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước; thứ hai
là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức
BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lợi; thứ ba là phần nộp phạt
của những cá nhân và tổ chức vi phạm các quy định pháp luật về BHXH.
Ngoài ra, quỹ BHXH còn có các nguồn thu hợp pháp khác tùy theo điều
kiện kinh tế - xã hội và pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Nguồn quỹ
BHXH có dồi dào thì đảm bảo được khả năng chi trả cho các đối tượng
tham gia BHXH.
Trong quỹ BHXH, phần đóng góp của NSDLĐ cho NLĐ sẽ tránh
được các thiệt hại kinh tế lớn khi có rủi ro không may xảy ra đối với NLĐ
như bệnh tật, TNLĐ… thể hiện trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ mà
họ đang thuê mướn. Còn về phần đóng góp của NLĐ vừa biểu hiện sự tự

17



gánh chịu rủi ro của mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi
một cách chặt chẽ.
Quỹ BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp BHXH,
đặc biệt là đảm bảo chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH và đảm
bảo cho hệ thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả.
Các khoản chi chủ yếu từ quỹ BHXH là các khoản chi cho trợ cấp và
các chế độ phụ thuộc vào điều kiện hưởng BHXH của đối tượng tham gia
theo quy định của pháp luật về BHXH. Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn
nhất. Ngoài ra còn có chi phí quản lý hệ thống, chi phí đầu tư tăng trưởng.
Trong đó, chi phí cho quản lý hệ thống BHXH ở từng thời kỳ được Nhà
nước quy định mức trần, tương đương với chất lượng dịch vụ BHXH, quy
mô hệ thống và thời gian hoạt động.
Hiện nay, quỹ BHXH bắt buộc do các cơ quan, tổ chức BHXH trực
tiếp quản lý và thực hiện các chế độ BHXH một cách công khai, minh
bạch, có giám sát của cơ chế ba bên (Đại diện NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước).
Hoạt động quản lý quỹ muốn đạt hiệu quả tốt cần tăng cường thanh tra,
kiểm tra, tránh thất thoát quỹ, đảm bảo khả năng chi trả lâu dài, thực hiện
đúng mục tiêu của BHXH là vì mục tiêu, lợi ích chung của xã hội.
Tỷ lệ đóng góp phí BHXH giữa NLĐ và NSDLĐ của từng quốc gia
là khác nhau. Đa phần các quốc gia xác định trên cơ sở tỷ lệ tiền lương
nhưng cũng có những quốc gia áp dụng mức đóng đồng đều trên cơ sở tiền
lương tối thiểu. Thông thường mức đóng của NLĐ thấp hơn NSDLĐ
nhưng cũng có quốc gia quy định tỷ lệ bằng nhau. Theo quan điểm của tổ
chức ILO thì tỷ lệ đóng góp của NLĐ vào quỹ BHXH không được vượt
quá 50%. Tại Đức, Hà Lan, phí đóng BHXH của NLĐ và NSDLĐ ngang
bằng nhau, mức đóng này cũng tùy theo tính chất của quỹ. Ở Tây Ban Nha,
đóng góp BHXH chiếm 70% tổng thu nhập, trong đó các khoản đóng góp
NSDLĐ lớn gấp 5 lần của NLĐ. Hay ở Đan Mạch, từ ngày 01/01/1994 đã

áp dụng một loại phí xã hội bắt buộc đối với tất cả NLĐ hưởng lương hoặc
18


không hưởng lương. NSDLĐ đóng góp từ 01/01/1997 là 0,3%. Vào năm
1995, tỷ lệ đóng góp của NLĐ là 1,9% tiền thu nhập. Tỷ lệ này là 2,9% vào
năm 1996 và tăng lên dần dần đến năm 1998 là 4,9% [35, tr.329]
Các khoản chi chủ yếu từ quỹ BHXH bắt buộc là các khoản trợ cấp
và các chế độ luật định khác cho người được BHXH bắt buộc. Khoản chi
này chỉ phụ thuộc vào điều kiện hưởng BHXH bắt buộc do Pháp luật quy
định, không phụ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH. Ngoài ra còn có các
chi phí quản lý hệ thống sẽ tỷ lệ nghịch với trình độ quản lý ở mỗi nước và
ngày càng có xu hướng giảm do trình độ quản lý đạt được ngày càng cao,
đồng thời giảm chi phí do áp dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin vào quá trình quản lý liên thông. Tuy nhiên, để tránh lạm dụng
quỹ BHXH, trong từng thời kỳ khác nhau, Nhà nước có thể quy định một
mức trần chi quản lý, tương đương với chất lượng dịch vụ BHXH, quy mô
hệ thống và thời gian hoạt động.
Về tổ chức và quản lý quỹ BHXH, tùy thuộc vào mô hình tổ chức
quỹ BHXH mà các quốc gia quy định việc quản lý quỹ BHXH. Do điều
kiện kinh tế - xã hội và chính trị mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH
của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình tổ
chức BHXH chung cho tất cả các nước. Thông thường các quốc gia thiết
lập hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương để quản lý quỹ
BHXH. Có một số nước trên thế giới lại giao cho một bộ, ngành nào đó
đảm nhận cả chức năng quản lý nhà nước về BHXH và tổ chức thực hiện
các nghiệp vụ ngành BHXH [16, tr.16]
1.2.2.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội
Chế độ BHXH là những quy định cụ thể và chi tiết về những chế
định thực hiện BHXH đối với NLĐ. Nói cách khác, đó là một hệ thống các

quy định của pháp luật về đối tượng và phạm vi, về nghĩa vụ và quyền lợi,
về điều kiện và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể.

19


×