Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Quy định pháp luật và thực tiễn hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TIỄN HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

VŨ XUÂN ĐÔNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SỸ KIỀU THỊ THANH

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT..........................................................................iii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu....................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................... 3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .......................................... 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. .................................................... 4
7. Kết cấu luận văn............................................................................................... 4
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP .................................................................. 5


1.1. Khái niệm chung về QSHCN và hợp đồng chuyển giao QSHCN ............ 5
1.1.1. Khái niệm QSHCN...................................................................................... 5
1.1.2. Khái quát về hợp đồng chuyển giao QSHCN ............................................ 9
1.2. Lược sử quy định pháp luật về QSHCN và hợp đồng chuyển giao
QSHCN ............................................................................................................... 14
1.2.1. Giai đoạn trước năm 2005 ........................................................................ 14
1.2.2. Giai đoạn sau năm 2005 - đến nay........................................................... 17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................. 20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN
GIAO QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN21
2.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN ....................... 21
2.1.1. Quy định về các dạng hợp đồng chuyển giao QSHCN ........................... 21
2.1.2. Quy định về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế (li
xăng bắt buộc đối với sáng chế) ......................................................................... 30
2.1.3. Một số hợp đồng khác liên quan đến chuyển giao QSHCN................... 39
i


2.2. Đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao
QSHCN ............................................................................................................... 51
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN ........... 51
2.2.2. Đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao
QSHCN ................................................................................................................ 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................. 66
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỪ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP VÀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP .............................................................................................................. 67
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về QSHCN nói chung và hợp đồng
chuyển giao QSHCN nói riêng.......................................................................... 67

3.1.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật chuyên ngành nói chung ......... 68
3.1.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN72
3.1.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về li xăng bắt buộc đối với sáng
chế ........................................................................................................................ 74
3.1.4. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại... 75
3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quy định về hợp đồng
chuyển giao QSHCN nói riêng và pháp luật chuyên ngành nói chung ........ 79
3.2.1. Về hoạt động chuyển giao QSHCN ......................................................... 79
3.2.2. Về hoạt động CGCN ................................................................................. 80
3.2.3. Về hoạt động nhượng quyền thương mại ................................................ 81
3.2.4. Về tổ chức và hoạt động của cơ quan thực thi pháp luật ....................... 82
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................. 85
KẾT LUẬN CHUNG......................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 87

ii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

QSHCN


Quyền SHCN

2

SHTT

Sở hữu trí tuệ

3

SHCN

Sở hữu công nghiệp

4

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

5

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

6

CGCN


Chuyển giao công nghệ

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Số lượng hợp đồng li – xăng

52

Bảng 3.2: Số lượng hợp đồng chuyển nhượng QSHCN

52

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, việc Việt Nam đã chính thức gia
nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội kinh doanh thuận
lợi và tăng khả năng thâm nhập thị trường các nước thành viên cho các doanh
nghiệp của Việt Nam, là chìa khóa để đưa nền kinh tế Việt Nam tiếp tục hội nhập
với kinh tế quốc tế. Trong hơn chục năm kể từ ngày Quốc hội Việt Nam phê chuẩn
Nghị định thư gia nhập WTO vào ngày 28/11/2006 và sự kiện Hạ viện Hoa Kỳ phê
chuẩn quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam vào ngày
09/12/2006, Việt Nam đã đón nhận rất nhiều dòng đầu tư nước ngoài mới vào Việt
Nam, đồng thời chứng kiến sự tăng trưởng và phát triển vượt bậc của các doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế trong nước. Cùng với sự phát triển nhanh chóng cả về đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài các hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt

Nam cũng diễn ra mạnh mẽ cả về quy mô và số lượng. Trong môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt, công nghệ sẽ là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi doanh
nghiệp và mỗi quốc gia. Ý thức và hiểu rõ được tầm quan trọng của công nghệ và
chuyển giao công nghệ đối với sự phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã và đang luôn dành sự quan tâm đặc biệt trong lĩnh vực này, ngay từ những ngày
đầu thực hiện chính sách mở cửa. Việc xây dựng một hệ thống các quy định pháp
luật hoàn chỉnh điều chỉnh tổng thể hoạt động chuyển giao công nghệ, trong đó đặc
biệt là các vấn đề liên quan đến hợp đồng chuyển giao công nghệ là một nhu cầu tất
yếu. Thông qua cơ chế pháp luật, kiểm soát và điều tiết các hoạt động chuyển giao
công nghệ, góp phần vào việc chọn lọc được các công nghệ tiến bộ có giá trị từ
nước ngoài, hạn chế tình trạng chảy máu ngoại tệ do nhận chuyển giao những công
nghệ lạc hậu, lỗi thời, hiệu quả không cao và đồng thời khuyến khích các hoạt động
chuyển giao công nghệ trong nước và từ Việt Nam ra nước ngoài.
Ở Việt Nam, các VBQPPL đã bước đầu tạo ra được môi trường thuận lợi cho
sự phát triển của hoạt động CGCN nói chung và quá trình đàm phán, ký kết và thực
hiện hợp đồng CGCN nói riêng. Các văn bản pháp luật này bên cạnh việc quy định

1


điều chỉnh các vấn đề liên quan hợp đồng CGCN như nội dung hợp đồng CGCN,
các vấn đề liên quan đến đăng ký, phê chuẩn hợp đồng CGCN… tạo cơ sở pháp lý
bảo đảm các quyền và lợi ích của các bên có liên quan trong giao dịch. Tuy nhiên,
do thực tiễn và yêu cầu vào thời điểm ban hành các văn bản pháp quy nói trên đã có
nhiều thay đổi và không còn phù hợp với hiện tại. Kế thừa và khắc phục các thiếu
sót các quy định pháp luật trước đó, Luật CGCN đã được ban hành vào ngày
22/11/2006 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2006 và có hiệu lực kể từ ngày
01/07/2007 đã đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu đặt ra từ thực tiễn.
Nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất các vấn đề liên quan đến hợp đồng
CGCN - loại hơp đồng có đối tượng rất đặc thù là công nghệ dưới cả góc độ pháp lý

và thực tiễn sẽ góp phần làm sáng tỏ nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về CGCN, đồng thời có những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn
các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó góp phần thúc đẩy sự
phát triển của thị trường CGCN, đồng thời có những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn
thiện hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó góp phần thúc
đẩy sự phát triển của thị trường CGCN nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.
Trong khuôn khổ của chương trình đào tạo cao học luật và tính cấp thiết của các
vấn đề như đã trình bày trên đây, người viết đã chọn đề tài “Quy định pháp luật và
thực tiễn hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại khoa luật kinh tế, Viện đại học mở Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN được nhiều nhà khoa học, nhiều
cơ quan khoa học nghiên cứu và tổng kết. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên
sách, báo, tạp chí và trong các báo cáo tại các cuộc hội thảo khoa học, trong các
luận án tiến sĩ, thạc sĩ. Trong đó, có thể nêu lên một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu liên quan đến đề tài như sau:
- Hồ Thúy Ngọc: “Quy định cấm các điều khoản hạn chế quyền trong pháp luật
về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối với đối tượng SHCN ở Việt Nam: Những bất
cập”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2015, tr 27 – 34, 45; Hà Nội, 2015
- Hồ Thúy Ngọc (2014), “Pháp luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN của

2


Việt Nam và Hoa Kỳ dưới góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
(7/2014), trang 67-74.
- Nguyễn Hữu Cẩn (2013), “Thị trường độc quyền sáng chế và sự can thiệp
của Nhà nước”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, (4/2013), trang 10-13.
- Vũ Thị Xuân: “Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN”,
Khóa luận tốt nghiệp bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội, 2010

Nhìn chung, các công trình, bài viết khoa học nêu trên đã đề cập đến pháp
luật và thực tiễn hợp đồng chuyển giao QSHCN trong những khoảng thời gian khác
nhau và từ những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay các quy định về hợp
đồng chuyển giao QSHCN chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một
cách toàn diện dưới góc độ một luận văn khoa học pháp lý. Do đó, tác giả chọn đề
tài “Pháp luật và thực tiễn hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở
Việt Nam” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về hợp
đồng chuyển giao QSHCN, tác giả đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu xây
dựng, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN đáp ứng tốt hơn yêu
cầu chuyển giao QSHCN trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở khoa học xây dựng pháp luật về hợp đồng chuyển giao
QSHCN, như: Khái niệm về chuyển giao QSHCN; Vai trò, đặc điểm pháp luật về
hợp đồng chuyển giao QSHCN; Nội dung pháp luật về hợp đồng chuyển giao
QSHCN theo Luật SHTT năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
- Khái quát tình hình và thực trạng pháp luật về hợp đồng chuyển giao
QSHCN; đánh giá đúng thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp
đồng chuyển giao QSHCN; chỉ ra những bất cập, khó khăn, vướng mắc và nguyên
nhân.
- Xác định và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của

3


công tác quản lý hợp đồng chuyển giao QSHCN giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luật SHTT năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009; các văn bản hướng dẫn
thi hành và hợp đồng chuyển giao QSHCN trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: trong phạm vi là một luận văn Thạc sĩ Luật đề tài tập trung
nghiên cứu những vấn đề chung mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến pháp
luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê, so
sánh và tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu giúp các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện tốt hơn công tác quản lý hợp đồng chuyển giao
QSHCN.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu,
giảng dạy và học tập bộ môn Luật SHTT tại cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương.
- Chương 1: Một số vấn đề chung về hợp đồng chuyển giao QSHCN
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng chuyển giao QSHCN ở Việt
Nam hiện nay
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật từ thực tiễn áp dụng quy định về
bảo hộ QSHCN và hợp đồng chuyển giao QSHCN.

4



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm chung về QSHCN và hợp đồng chuyển giao QSHCN
1.1.1. Khái niệm QSHCN
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Khoản 4, Điều 4 Luật SHTT 2005 thì “QSHCN là quyền của các tổ
chức, cá nhân đối với sáng chế kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh” [48].
QSHCN là chế định trong pháp luật dân sự, là lĩnh vực thuộc quan hệ pháp
luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung.
Hiểu theo nghĩa chủ quan thì QSHCN là một chế định pháp luật bao gồm hệ thống
những quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sáng tao, sử dụng, định đoạt các
sản phẩm do lao động trí tuệ làm ra trong lĩnh vực công nghiệp. Hiểu theo nghĩa
khách quan thì QSHCN là một quyền dân sự cụ thể của chủ thể đối với các đối
tượng SHCN . QSHCN cũng bao gồm các nhóm quy phạm liên quan đến các hình
thức sở hữu, căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu, cách thức, biện pháp chuyển
quyền sở hữu, các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, liên quan đến vấn đề
nghiên cứu chúng ta có thể xem qua các khái niệm dưới đây.
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải
quyết một số vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện
bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
Văn bằng bảo hộ là Bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo
dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày nộp đơn.
Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành


5


phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả
các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm
thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi
điện tử.
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của các phần tử
mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn. Được xác lập
theo văn bằng bảo hộ Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn do cục SHTT cấp.
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức,
cá nhân khác nhau. Văn bằng bảo hộ Nhãn hiệu hàng hóa quyết định chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn,
có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm.
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh
doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác
trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Được tự động xác lập không cần đăng
ký và thuộc về người đầu tiên sử dụng tên đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực,
địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý
quyết định chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý do cục SHTT cấp. Bí mật kinh doanh
là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có
khả năng sử dụng trong kinh doanh.
1.1.1.2. Đặc điểm
QSHCN là một phần của quyền SHTT nên QSHCN mang các đặc trưng của
quyền SHTT, ngoài ra, trong sự so sánh với quyền tác giả thì QSHCN có những đặc
trưng cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, bảo hộ QSHCN là bảo hộ về nội dung, khác với quyền tác giả là
bảo hộ về mặt hình thức.

Thứ hai, hầu hết các đối tượng được bảo hộ phải dựa trên trên cơ sở việc cấp
văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khác với quyền tác giả là
quyền tự nhiên, xuất hiện khi tác giả sáng tác, làm ra tác phẩm, không nhất thiết
phải có văn bằng.

6


Thứ ba, hầu hết các đối tượng được bảo hộ với giới hạn về không gian và
thời gian. Trong đó, thời gian SHCN ngắn hơn so với quyền tác giả. Thời hạn của
văn bằng bảo hộ QSHCN được duy trì trong một thời hạn nhất định hết thời hạn đó
thì tư cách chủ sở hữu của QSHCN sẽ chấm dứt [48].
Ví dụ 1: Cà phê Trung Nguyên được bảo hộ độc quyền tại Việt Nam nhưng
khi xuất khẩu sang Nhật Bản thì không được bảo hộ vì đã có người đăng ký nhãn
hiệu trước tại Nhật Bản.
Ví dụ 2: Đối với nhãn hiệu hàng hóa, thời hạn bảo hộ là mười năm kể từ
ngày cấp chứng chỉ nhãn hiệu hàng hóa. Hoặc việc sử dụng sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp được bảo hộ nhưng đã hết thời hạn bảo hộ được coi là hành vi hợp
pháp. Khác với Quyền tác giả như họ tên đối với tác phẩm là vĩnh viễn [30].
Có thể nói rằng ngoài những đặc điểm của quyền SHTT nói chung, QSHCN
còn có những đặc điểm rất riêng như đã phân tích ở trên. Việc nắm những đặc điểm
này sẽ giúp cho chúng ta hiểu sâu hơn về phương diện lý luận đối với vấn đề SHCN
và nhận thức đúng vai trò, vị trí của QSHCN trong thực tế đời sống hiện nay.
1.1.1.3. Phân loại
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật SHTT 2005 thì quyền SHTT là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan
quyền tác giả, QSHCN và quyền đối với cây trồng [48].
Quyền đối với giống cây trồng theo Điều 7 Hiệp định Trips về quyền SHTT
thì quyền đối với giống cây trồng được bảo hộ dưới dạng sáng chế [24]. Quyền tác
giả gồm bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả và chủ sở hữu quyền

tác giả đối với các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Quyền tác giả còn được
gọi là tác quyền hay bản quyền. Đối với quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
được độc quyền sử dụng và khai thác tác phẩm, bên cạnh đó là quyền đối với giống
cây trồng. Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực
vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể
nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp của
các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác

7


bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được. Đối tượng
quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống.
Theo pháp luật Việt Nam thì QSHCN bao gồm quyền đối với sáng chế, giải
pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi
xuất xứ hàng hóa), tên thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và các QSHCN khác do pháp luật quy định. QSHCN bảo hộ
quyền sử dụng độc quyền vì mục đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở
hữu, các đối tượng SHCN. Bên cạnh đó, SHCN bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo
và uy tính kinh doanh. Khi đó QSHCN được chia làm hai nhóm theo đặc thù riêng
của từng nhóm đối tượng SHCN:
Thứ nhất, là QSHCN đối với các thành quả của sự sáng tạo trong các lĩnh
vực công nghiệp, khoa học kỹ thuật bao gồm: Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh,… Mục đích kinh tế, xã hội của việc bảo hộ
các đối tượng này là bảo vệ những thành quả đầu tư trong phát triển khoa học công
nghệ mới, khuyến khích các hoạt động sáng tạo, nghiên cứu phát triển trong lĩnh
vực này.
Thứ hai, là QSHCN đối với các dấu hiệu chỉ dẫn thương mại có đặc tính
phân biệt gồm: Nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa), tên
thương mại. Đây là những đối tượng mà sự hàm chứa về mặt trí tuệ không đáng kể

nhưng vẫn được coi là các đối tượng của SHTT vì chúng chứa đựng những khả
năng truyền tin tới người tiêu dùng về các sản phẩm, dịch vụ lưu thông trên thị
trường. QSHCN còn thể hiện những đặc trưng thương mại của mình như: Các đối
tượng SHCN là một trong những yếu tố cấu thành hàng hóa, dịch vụ. QSHCN là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh
do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Do đó ta nhận thấy các đối tượng trên đều mang
tính chất hàng hóa phục vụ quá trình kinh doanh để tạo ra lợi nhuận. Các đối tượng
SHCN - tài sản trí tuệ được ứng dụng trong hoạt động kinh tế - thương mại. Tài sản
này là kết quả của sự hoạt động trí óc hoặc do những điều kiện thiên nhiên và quá

8


trình lao động thành (Chỉ dẫn địa lý) và được ứng dụng trong thương mại. Các đối
tượng SHCN là một loại “tài sản đặc biệt”.
Trong danh sách 20 thương hiệu mạnh nhất thế giới năm 2018 do Hãng tư vấn
định giá thương hiệu nổi tiếng của Anh Brand Finance công bố thì nhãn hiệu Amazon
- Giá trị thương hiệu: 150,8 tỷ USD, Apple - Giá trị thương hiệu: 146,3 tỷ USD,
Google - Giá trị thương hiệu: 120,9 tỷ USD, Samsung - Giá trị thương hiệu: 92,3 tỷ
USD, AT&T - Giá trị thương hiệu: 82,4 tỷ USD, AT&T - Giá trị thương hiệu: 82,4 tỷ
USD, Microsoft - Giá trị thương hiệu: 81,2 tỷ USD, Verizon - Giá trị thương hiệu:
62,8 tỷ USD, Walmart - Giá trị thương hiệu: 61,5 tỷ USD, ICBC - Giá trị thương
hiệu: 59,2 tỷ USD [31].
Với giá trị kinh tế to lớn các đối tượng SHCN được sử dụng làm vốn góp
trong công ty, làm tài sản thế chấp vay vốn, có thể cho thuê, chuyển nhượng quyền
sở hữu hoặc dùng định giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và các giao dịch
thương mại khác. Ngoài ra, QSHCN có thể bị lạm dụng để cản trở thương mại đặc
biệt là thương mại quốc tế. QSHCN là độc quyền của chủ sở hữu do đó đây là một
ngoại lệ của một nguyên tắc tự do kinh doanh. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến

nguyên tắc tự do cạnh tranh và tự do hóa thương mại.
1.1.2. Khái quát về hợp đồng chuyển giao QSHCN
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa
lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh
không lành mạnh.
Chuyển giao QSHCN được hiểu theo nghĩa đơn giản là việc đưa công nghiệp
từ nơi có công nghiệp đến nơi có nhu cầu nhận công nghiệp, từ nơi có trình độ công
nghiệp cao đến nơi có trình độ công nghiệp thấp hơn một cách hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu của các bên tham gia hoặc là sự giao dịch chuyển toàn bộ hoặc một phần
công nghiệp từ nhóm người này sang nhóm người khác. Đến nay, chuyển giao
QSHCN hết sức phát triển và phổ biến, được thực hiện trong tất cả các các ngành
sản xuất vật chất.

9


Chuyển giao QSHCN không còn diễn ra theo một chiều, từ những nước phát
triển đến những nước đang phát triển mà ngược lại các nước đang phát triển cũng
hoàn toàn có khả năng chuyển giao QSHCN cho các nước phát triển ở một số lĩnh
vực có thế mạnh. Hiểu theo nghĩa rộng thì chuyển giao QSHCN xảy ra khi một
hoặc nhiều thành tố của công nghiệp được mở rộng phạm vi áp dụng (chuyển dịch
về địa lý hoặc chủ thể sở hữu, sử dụng,…).
Theo nghĩa hẹp thì chuyển giao QSHCN được hiểu là chuyển giao quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng (một phần hoặc toàn bộ) công nghiệp từ bên có quyền giao
công nghiệp sang bên nhận công nghiệp. Xét về khía cạnh pháp lý, hoạt động
chuyển giao QSHCN là một giao dịch dân sự và do tính đặc thù của hoạt động
chuyển giao này nên Bộ luật dân sự 2015 cũng có phần riêng để điều chỉnh giao
dịch này.
Chủ sở hữu khi quyết định tiến hành chuyển nhượng QSHCN thuộc sở hữu

của mình cho một tổ chức hay cá nhân khác thì cần phải xem xét các vấn đề sau:
- Chủ sở hữu chỉ được chuyển nhượng QSHCN của mình trong phạm vi
được bảo hộ được ghi trên văn bản bảo hộ.
- Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc
chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động dưới tên thương mại đó.
- Khi chủ sở hữu tiến hành chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu thì
không được gây ra nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang
nhãn hiệu đó.
- Quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân
đáp ứng được các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó.
Chuyển giao QSHCN được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận.
Việc chuyển nhượng QSHCN phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng
văn bản, gọi là hợp đồng chuyển giao QSHCN.
Như vậy, khái niệm chuyển giao QSHCN được hiểu là một giao dịch dân sự
được thực hiện theo hình thức hợp đồng mà qua đó bên có quyền chuyển giao công
nghiệp sẽ chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghiệp cho bên tiếp
nhận theo phương thức và các điều kiện do các bên thỏa thuận.

10


1.1.2.1. Khái niệm hợp đồng chuyển giao QSHCN
Quyền năng quan trọng nhất của chủ sơ hữu các đối tượng SHCN là độc
quyền sử dụng đối tượng đó trong một thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ.
Chủ bằng độc quyền có thể khai thác lợi ích của bằng độc quyền dưới nhiều
hình thức khác nhau như tự mình sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng. Đó là
những hành vi khai thác công dụng hữu ích của quyền tài sản được đăng ký.
Tuy nhiên, cũng như chủ sở hữu của các loại tài sản khác, chủ bằng độc
quyền các đối tượng SHCN còn có thể được thỏa mãn lợi ích vật chất của mình
dưới hình thức thực hiện quyền định đoạt tài sản vô hình đó.

Những cách thức thực hiện quyền định đoạt các đối tượng SHCN gồm: Thông
qua hợp đồng chuyển nhượng hay đơn giản là tuyên bố từ bỏ độc quyền của mình.
Như vậy, hợp đồng chuyển giao QSHCN là sự thỏa thuận giữa hai bên, theo
đó một bên (gọi là bên chuyển giao) chuyển giao một phần hoặc toàn bộ QSHCN
sang cho bên kia (gọi là bên được chuyển giao), còn bên được chuyển giao phải
thanh toán tiền cho bên chuyển giao theo thỏa thuận.
1.1.2.2. Đặc điểm hợp đồng chuyển giao QSHCN
* Chủ thể trong hoạt động chuyển giao QSHCN
QSHCN cho phép chủ sở hữu quyết định xem có tự mình khai thác QSHCN
hay chuyển giao QSHCN cho người khác. Trên thực tiễn, pháp luật về SHCN của
các nước, có rất ít các quy định điều chỉnh về khai thác QSHCN. Chủ sở hữu được
tự do xác định chiến lược của mình và tự do ký kết hợp đồng với bất kỳ ai hoặc bất
kỳ điều kiện gì. Để hạn chế một cách hữu hiệu các hợp đồng licensing (hợp đồng Li
xăng) độc quyền, một số nước đưa ra quy định về li xăng bắt buộc. Việc quy định
về li xăng bắt buộc trong pháp luật các nước chủ yếu dựa trên chuẩn mực của điều
5A Công ước Paris về bảo hộ QSHCN và điều 31 của hiệp định TRIPS [24].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam QSHCN là khái niệm pháp lý gắn
liền với sự phát triển khoa học và nền thương mại. Khoản 4, Điều 4 Luật SHTT
2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) QSHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên

11


thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh [49]. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu
QSHCN có quyền chuyển giao quyền sở hữu và quyền sử dụng các đối tượng
SHCN của họ cho tổ chức, cá nhân khác. Cụ thể là bên chuyển giao và bên nhận
chuyển giao các đối tượng SHCN.
* Đối tượng được chuyển giao QSHCN

Các đối tượng SHCN được chuyển giao bao gồm quyền đối với nhãn hiệu
hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí
mật kinh doanh. Vì vậy, hầu hết các đối tượng SHCN điều được chuyển giao trừ
quyền đối với chỉ dẫn địa lý và quyền sử dụng tên thương mại. Bên cạnh đó, pháp
luật còn quy định bắt buộc chuyển giao đối với sáng chế để ngăn chặn lạm dụng độc
quyền được xác định bởi bằng độc quyền sáng chế và mục đích công cộng, phi
thương mại.
1.1.2.3. Phân loại hợp đồng chuyển giao QSHCN
Ở một số nước trên thế giới hình thức về việc chuyển nhượng hoặc hình thức
hợp đồng li xăng và các điều kiện cùng những thủ tục khác liên quan tới việc chuyển
nhượng hay li xăng là do luật sáng chế hoặc luật thương mại quy định. Tại Việt Nam
hiện nay, việc chuyển giao QSHCN được quy định tại Luật SHTT năm 2005, sửa đổi,
bổ sung 2009. Theo luật này thì hợp đồng chuyển giao QSHCN có các loại sau:
Chuyển nhượng QSHCN, chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN cụ thể:
Chuyển nhượng QSHCN là việc chủ SHCN chuyển giao quyền sở hữu của
mình cho tổ chức, cá nhân khác. Hoạt động này được coi là việc “bán đứt” QSHCN
vì chủ SHCN chuyển giao toàn bộ quyền sở hữu đối tượng SHCN của mình cho chủ
thể khác.
Chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN là việc chủ sở hữu đối tượng SHCN
cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng SHCN thuộc phạm vi quyền sử
dụng của mình. Hoạt động này có phạm vi hẹp hơn so với chuyển nhượng QSHCN
vì đây là việc “cho phép” sử dụng đối tượng SHCN [49].
Ngoài ra, chuyển quyền sử dụng SHCN còn có các dạng hợp đồng sau:

12


Hợp đồng độc quyền là dạng hợp đồng mà theo đó phạm vi và thời hạn
chuyển giao, bên được chuyển quyền được độc quyền sử dụng đối tượng SHCN,
bên chuyển quyền không được ký kết hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN với bất kỳ

bên thứ ba nào và chỉ được sử dụng đối tượng SHCN đó nếu được phép của bên
được chuyển quyền. Khi các bên thỏa thuận với nhau sẽ ký kết hợp đồng li xăng với
hình thức độc quyền thì đối tượng công nghiệp được chuyển giao đó thuộc quyền
chiếm hữu hoàn toàn của bên nhận li xăng đồng nghĩa với việc bên giao li xăng
không có quyền định đoạt QSHCN đó, nếu được sự chấp thuận của bên nhận li
xăng thì bên li xăng mới có quyền sử dụng.
Hợp đồng không độc quyền là hợp đồng mà theo đó trong phạm vi và thời
gian chuyển giao quyền sử dụng, bên chuyển quyền vẫn có quyền sử dụng đối
tượng SHCN, quyền ký kết hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN không độc quyền
với người khác.
Hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN thứ cấp là hợp đồng mà theo đó bên
chuyển nhượng quyền là người được chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN
đó theo một hợp đồng khác. Bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN và được
chủ SHCN cho phép chuyển quyền sử dụng thứ cấp theo một hợp đồng khác. Bên
chuyển quyền có quyền sử dụng và li xăng đối tượng SHCN cho chủ thể khác tuy
nhiên không được li xăng độc quyền. Trường hợp chủ sở hữu sáng chế chuyển
quyền sử dụng sáng chế cho chủ thể khác theo hình thức li xăng không độc quyền
thì chủ sở hữu sáng chế đó có thể li xăng sáng chế cho chủ thể khác có nhu cầu.
Dựa trên căn cứ bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế ta có
thể đưa ra khái niệm về li xăng bắt buộc như sau: “ Li xăng bắt buộc là việc quyền sử
dụng sáng chế được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân khác theo quy định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khi người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không
thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế khi có yêu cầu về quốc phòng, an ninh, phòng
bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc có nhu cầu cấp thiết cho xã hội.
Bên được chuyển quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng không có nghĩa vụ sử dụng
sáng chế như chủ sở hữu sáng chế với thời hạn luật định thì cơ quan có thẩm quyền

13



có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác mà không cần sự cho
phép của chủ sở hữu sáng chế.”
1.2. Lược sử quy định pháp luật về QSHCN và hợp đồng chuyển giao QSHCN
1.2.1. Giai đoạn trước năm 2005
Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về SHCN là Nghị định số 31/CP ngày 23/01/1981 ban hành Điều lệ về sáng
kiến cải tiến kĩ thuật - hợp lí hoá sản xuất và sáng chế. Theo đó, mọi nỗ lực sáng tạo
kĩ thuật, hợp lí hoá sản xuất mang lại các lợi ích thiết thực cho Nhà nước, xã hội và
cơ quan đều được đền đáp về tinh thần và vật chất. Văn bản pháp luật này thiết lập
hình thức bảo hộ sáng chế dưới dạng bằng tác giả sáng chế, theo đó nhà sáng chế
chỉ có các quyền nhân thân của tác giả sáng chế, còn độc quyền sáng chế thuộc về
Nhà nước.
Tiếp theo văn bản này, các văn bản khác cũng đã được ban hành để điều
chỉnh các vấn đề về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích.
Đó là Nghị định số 197/HĐBT ngày 14/12/1982 ban hành Điều lệ về nhãn hiệu
hàng hoá; Nghị định số 85/HĐBT ngày 13/5/1988 ban hành Điều lệ về kiểu dáng
công nghiệp; Nghị định số 200/HĐBT ngày 28/12/1988 ban hành Điều lệ về giải
pháp hữu ích; Nghị định số 201/HĐBT ngày 28/12/1988 ban hành Điều lệ về mua
bán quyền sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hoá và bí quyết kĩ thuật. Tất cả các văn bản này đều nhằm mục đích bảo vệ sở
hữu của Nhà nước và phản ánh quan điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Sự phát triển mới được đánh dấu bằng việc ban hành Pháp lệnh về bảo hộ
QSHCN ngày 11/02/1989 khi Việt Nam bước vào thời kì chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường. Pháp lệnh này huỷ bỏ hình thức bảo hộ sáng chế dưới dạng cấp bằng
tác giả sáng chế mà thực chất là công hữu hoá các sáng chế và lần đầu tiên đưa ra
khái niệm chung về các quyền độc quyền. Hình thức bảo hộ QSHCN là bằng “độc
quyền”. Đối tượng SHCN được mở rộng. Các hành vi vi phạm QSHCN không chỉ
bị xử lí hành chính mà còn bị xử lí theo thủ tục tư pháp, nghĩa là được xét xử bởi
toà án.


14


Vào thời điểm cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỉ XX, nhìn
chung ở Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật về SHCN với nội dung tương đối
phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của các điều ước quốc tế về bảo hộ QSHCN
mà Việt Nam tham gia (chủ yếu là Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ QSHCN).
Công ước Paris (1883) là một trong những công ước quốc tế đa phương quan
trọng về SHCN. Công ước Paris được ký kết vào ngày 20/03/1883, đến ngày
15/9/2005 số lượng thành viên là 169 quốc gia trong đó có Việt Nam. Công ước
Paris (bản sửa đổi năm 1979) mục đích chủ yếu của Công ước là nhằm xây dựng
các điều kiện có lợi cho việc cấp văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu đối tượng SHCN
là công dân, pháp nhân của nước này ở nước khác thuộc thành viên Công ước trên
nguyên tắc tôn trọng luật SHCN của các nước thành viên.
Công ước Paris áp dụng cho chủ SHCN theo nghĩa bao gồm sáng chế, nhãn
hiệu, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn
nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh. Nội dung Công
ước Paris về hợp đồng li xăng bắt buộc: Việc chủ patent nhập khẩu vào một nước đã
cấp patent những hàng hóa đã chế tạo tại bất kỳ quốc gia nào là thành viên của liên
minh sẽ không dẫn tới việc tước quyền patent. Mỗi nước thành viên của liên minh
điều có quyền đưa ra biện pháp pháp lý quy định việc cấp li xăng cưỡng bức nhằm
ngăn chặn việc lạm dụng có thể nảy sinh từ việc thực hiện độc quyền được xác lập
bởi patent. Không được quy định việc tước quyền patent trừ trường hợp việc cấp li
xăng cưỡng bức chưa đủ để ngăn chặn lạm dụng trên, việc tước quyền hoặc hủy bỏ
patent không được tiến hành trước khi hết hạn hai năm kể từ khi cấp li xăng cưỡng
bức đầu tiên. Không được áp dụng li xăng cưỡng bức với lý do không sử dụng hoặc
sử dụng không đầy đủ trước khi hết hạn bốn năm kể từ ngày nộp đơn xin cấp patent
hoặc ba năm kể từ ngày cấp patent tùy theo thời gian nào kết thúc muộn hơn, li xăng
cưỡng bức sẽ bị trút bỏ nếu chủ patent chứng minh được việc không sử dụng của
mình là lý do chính đáng. Công ước Paris là một trong những công ước quan trọng

nhất và sớm nhất về bảo hộ SHCN. Vì vậy, bảo đảm sự vận hành về cơ chế thực thi
đối với SHCN đúng theo quy định của công ước thì các nước thành viên của công
ước trong đó có Việt Nam phải tăng cường nỗ lực xây dựng một hệ thống pháp luật

15


về QSHCN đầy đủ và hoàn thiện.
Thực tiễn của quá trình đổi mới, từng bước hình thành nền kinh tế thị trường,
cùng với chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi
phải xây dựng một hệ thống pháp luật về SHTT nói chung và SHCN nói riêng ngày
một hoàn thiện. Việc ban hành Bộ luật dân sự (1995), trong đó có Chương II, Phần
VI, với 26 điều khoản quy định về QSHCN là một bước tiến quan trọng nhằm giải
quyết những đòi hỏi của thực tiễn. Về cơ bản, những quy định về QSHCN trong Bộ
luật dân sự (1995) không khác biệt nhiều so với các quy định trong Pháp lệnh về
bảo hộ QSHCN (1989). Tuy nhiên, ý nghĩa quan trọng nhất của việc đưa vấn đề
quyền SHTT nói chung và QSHCN nói riêng vào Bộ luật dân sự là: Lần đầu tiên
trong lịch sử lập pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền SHTT
được Nhà nước thừa nhận là một loại quyền dân sự. Có thể nói, cùng với việc ban
hành Bộ luật dân sự (1995), pháp luật về SHCN chuyển sang giai đoạn mới - giai
đoạn từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Sau khi Bộ luật dân sự (1995) ra
đời, hàng loạt các nghị định, thông tư được ban hành để hướng dẫn thực hiện các
quy định của Bộ luật dân sự (1995) về QSHCN. Thí dụ: Nghị định số 63/CP ngày
24/10/1996 quy định chi tiết về QSHCN; Thông tư số 3055/TTSHCN ngày
31/12/1996 của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường (nay là Bộ khoa học và công
nghệ) hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập QSHCN; Nghị định số
54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 về bảo hộ QSHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ
dẫn địa lí, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên
quan tới QSHCN; Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 20/04/2001 về bảo hộ giống
cây trồng mới; Nghị định số 42/2003/NĐ-CP ngày 02/05/2003 về bảo hộ QSHCN

đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn v.v.. Các quy định về QSHCN tại Phần
VI Bộ luật dân sự (1995), cùng với hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan, đã
phát huy hiệu lực trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật SHCN. Để giải quyết
các bất cập của hệ thống pháp luật về SHTT, chúng ta đã hoàn thiện hệ thống các
quy phạm pháp luật về SHTT thông qua việc sửa đổi Bộ luật dân sự (1995) (phần
liên quan tới quyền SHTT) đồng thời ban hành một đạo luật thống nhất về SHTT.

16


1.2.2. Giai đoạn sau năm 2005 - đến nay
Việc soạn thảo Luật SHTT (2005) dựa trên cách tiếp cận mới, theo đó SHTT
không chỉ được tiếp cận dưới góc độ quyền dân sự mà còn chủ động nhấn mạnh góc
độ thương mại và các khía cạnh khác của SHTT, như khía cạnh hành chính, hình sự.
Luật SHTT (2005) được xây dựng trên cơ sở hệ thống hoá các quy định hiện hành
về SHTT đồng thời chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật.
Khi quy định về QSHCN, Luật SHTT (2005) cố gắng điều chỉnh chi tiết tới
mức tối đa các vấn đề sau đây: Điều kiện bảo hộ QSHCN; xác lập QSHCN; nội
dung và giới hạn QSHCN; chuyển giao QSHCN; đại diện SHCN; bảo vệ (hay thực
thi) QSHCN. Những vấn đề này trước đây đã tồn tại trong hệ thống pháp luật về
SHCN của nước ta nhưng rải rác và tản mạn trong gần một trăm văn bản các loại.
Việc Luật SHTT (2005) tập hợp được các vấn đề nêu trên là một thành công lớn,
giúp cho việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật thuận lợi hơn.
Như vậy, sự ra đời của Luật SHTT (2005) không những cho phép bảo đảm
việc đáp ứng được các mục tiêu và đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập mà còn
tạo cơ hội khắc phục được các điểm hạn chế, làm cho hệ thống các quy phạm pháp
luật về SHTT của nước ta mang tính thống nhất và ngày càng tương thích với pháp
luật quốc tế và pháp luật các nước trên thế giới. Pháp luật nước ta không chỉ bảo hộ
QSHCN của cá nhân, tổ chức Việt Nam mà còn bảo hộ cả QSHCN của cá nhân, tổ
chức nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) theo pháp luật Việt

Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật về SHTT, tạo môi trường pháp lý đầy đủ và minh
bạch cho hoạt động SHTT nhằm phát triển kinh tế của đất nước và hội nhập quốc tế
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của Cục SHTT. Có thể nói rằng,
hệ thống pháp luật về SHTT của Việt Nam từ khi Luật SHTT và một loạt các văn
bản dưới luật được ban hành, đã tạo ra một nền tảng pháp lý tương đối hoàn chỉnh,
đầy đủ và đồng bộ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động SHTT hiện nay.
Ngày 19 tháng 6 năm 2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã biểu
quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT và Luật sửa đổi,

17


bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, trong đó có các tội xâm phạm quyền
SHTT. Cả hai đạo luật này đều bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 khuyến khích các hoạt động sáng tạo, hoàn
thiện hệ thống quản lý quyền sở hữu trí tuệ theo hướng đáp ứng các yêu cầu của
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)
phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Thay đổi quan trọng nhất trong lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp là điều
chỉnh thời hạn thẩm định đơn đăng ký sở hữu công nghiệp. Theo đó, thời hạn thẩm
định nội dung đối với đơn đăng ký sáng chế được kéo dài thành không quá 18 tháng
(tại Luật sở hữu trí tuệ 2005 là 12 tháng); đối với đơn đăng ký nhãn hiệu là không
quá 9 tháng (tại Luật sở hữu trí tuệ 2005 là 6 tháng) và không quá 7 tháng đối với
kiểu dáng công nghiệp (tại Luật sở hữu trí tuệ 2005 là 6 tháng). Việc điều chỉnh
này, theo quan điểm của cơ quan chức năng là cần thiết nhằm tránh tình trạng hồ sơ
đăng ký bị tồn đọng, không đáp ứng được thời hạn theo luật định.
Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 trong Điều 90 cũng quy định rằng
nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (first-to-file principle) sẽ được áp dụng khi có nhiều
đơn đăng ký cho cùng một đối tượng. Việc tách quy định về nguyên tắc nộp đơn

đầu tiên đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu thành các điều khoản
riêng biệt giúp việc hiểu và thực hiện quy định này chuẩn xác hơn, tránh các hiểu
nhầm từ cả người nộp đơn cũng như cơ quan xử lý đơn.
Liên quan đến quy định về quyền đăng ký nhãn hiệu tại Điều 87, Luật sở hữu
trí tuệ sửa đổi năm 2009 bổ sung quy định về việc đăng ký nhãn hiệu tập thể đối với
“địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt
Nam”. Theo đó, việc đăng ký nhãn hiệu tập thể đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ
nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương Việt Nam phải được sự cho phép của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 cũng quy định rằng ngày nộp đơn hoặc
ngày ưu tiên, tuỳ theo trường hợp áp dụng, của một đơn đăng ký sáng chế hoặc kiểu
dáng công nghiệp là ngày mà quyền sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công

18


nghiệp đó được xác lập, thay cho ngày công bố hiện đang được áp dụng (Điều 143.1
của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005). Đây là một điều chỉnh hợp lý để luật của Việt
Nam phù hợp với Điều 4B của Công ước Pa-ri về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp, theo đó không một hành động nào của một bên thứ ba có thể gây tổn hại
đến quyền của người nộp đơn trong thời gian ưu tiên.

19


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ở Chương 1, tác giả đã làm rõ những vấn chung tạo cơ sở lý thuyết vững chắc
cho việc nghiên cứu của luận văn: (i) Luận văn đã làm rõ các vấn đề pháp lý về
QSHCN, đưa ra các đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp làm tiêu chí phân biệt
với một số quyền SHTT; (ii) Luận văn đã nghiên cứu để đưa ra được định nghĩa về

hợp đồng chuyển giao QSHCN, đặc điểm hợp đồng chuyển giao QSHCN, phân loại
hợp đồng chuyển giao QSHCN; (iii) Để làm sâu sắc hơn các vấn đề về hợp đồng
chuyển giao QSHCN, luận văn đã tìm hiểu pháp luật của Việt Nam qua các giai đoạn
lịch sử, có sự so sánh đánh giá để tìm ra bài học kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật
hiện hành. Với việc trình bày các nội dung trên, chương 1 chính là cơ sở lý luận để
tác giả tiếp tục tìm hiểu, đánh giá và hoàn thiện pháp luật về chuyển giao QSHCN
trong các chương tiếp theo.

20


×