Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở việt nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (918.26 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
( KHÓA 2010-2014 )
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO QUYỀN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN





GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC HIỆN
Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Đặng Thành Trung
Bộ môn Tư pháp MSSV: 5105927
Lớp Luật thương mại 1-K36


Cần Thơ, tháng 11 năm 2013
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 2 SVTH: Đặng Thành Trung
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sở hữu trí tuệ là một trong ba trụ cột của Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ), cùng
với những cam kết về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ thì việc thực thi quyền sở


hữu trí tuệ là một yêu cầu bắt buộc khi Việt Nam ký kết Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ
và đây cũng là điều kiện để gia nhập WTO.
Trong xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường thế giới có nhiều vấn đề có vai trò
quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như sự tăng
trưởng của các quốc gia. Việc phát triển và quản lý tài sản trí tuệ cùng với việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp, chuyển giao công
nghệ có giá trị to lớn và là cơ sở để phát triển tri thức cũng là một trong những vấn đề
đáng quan tâm. Và không chỉ ở Việt Nam của chúng ta quan tâm đến các vấn đề trên mà
đây cũng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các quốc gia hiện nay. Yêu cầu tất yếu là phải
có sự bảo hộ pháp luật đối với các vấn đề nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh,
cạnh tranh công bằng, bình đẳng cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
sở hữu.
Với Việt Nam những cơ hội và sự thách thức trong quá trình hội nhập và phát triển,
đặc biệt là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới đòi hỏi Việt Nam phải có các cơ
chế, chính sách thúc đẩy hoạt động sáng tạo cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát
triển công nghệ và hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, đồng thời tạo lập
hành lang pháp lý củng cố, tăng cường phát triển kinh tế - xã hội và khuyến khích hoạt
động sáng tạo, kinh doanh của chủ thể, các doanh nghiệp và dung hòa lợi ích chính đáng
của chủ sở hữu với toàn xã hội. Chính vì thế, tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ nói
chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng có vai trò thiết yếu đối với hoạt động
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp hiện nay và trở thành nguồn lực quyết định đến sự
phát triển kinh tế xã hội, khoa học – kỹ thuật, công nghệ để mở rộng thêm quan hệ hợp tác
kinh tế nước ngoài đối với Việt Nam ngày nay. Do đó, người viết đã chọn đề tài “ Thực
trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn
thiện” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp.
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 3 SVTH: Đặng Thành Trung
Do những tính chất phức tạp của vấn đề đồng thời cũng là lần đầu nghiên cứu cũng
như viết đề tài nên cấu trúc và nội dung khoa học không thể tránh khỏi những hạn chế và

thiếu sót. Rất mong được sự thông cảm cũng như sự đóng góp của quý Thầy, Cô để đề tài
nghiên cứu khoa học lần sau về lĩnh vực khác và có liên quan của pháp luật sẽ hoàn thiện
hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Để tìm hiểu về các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp hiện nay, đồng thời để các
chủ sở hữu và các chủ thể khác có thể khai thác, sử dụng và cải tiến các đối tượng sở hữu
quyền công nghiệp qua hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp thì đối tượng
quyền sở hữu công nghiệp trở thành một dạng hàng hóa đặc biệt khi đó các quy định của
pháp luật sẽ là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ về vấn đề trên. Để tìm hiểu các mặt
tích cực và hạn chế trong hoạt động chuyển giao công nghiệp hiện nay và có những
phương hướng để hoàn thiện về pháp luật cũng như thực thi hữu hiệu hơn thì đây chính là
mục tiêu nghiên cứu của người viết về đề tài “ Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện”.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài người viết sẽ nghiên cứu “ Thực trạng chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện” với nội dung
tìm hiểu là khái quát chung về thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt
Nam đối với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và từ đó đưa ra một số giải pháp để
hoàn thiện về mặt pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này người viết sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài
liệu, sách, tạp chí khoa học và phương pháp tổng hợp, phương pháp liệt kê, phương pháp
phân tích luật viết để hoàn thành đề tài “ Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công
nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện”.
5. Bố cục đề tài
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 4 SVTH: Đặng Thành Trung
Ngoài phần lời nói đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
kết cấu 3 chương:

Chương 1 : Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp và hoạt động chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp.
Chương 2 : Những quy định của pháp luật về hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu
công nghiệp.
Chương 3 : Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay
và giải pháp hoàn thiện.
Trong giới hạn của luận văn, kiến thức khoa học pháp lý, thời gian, tài liệu tham
khảo, trình độ, khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên trong quá trình tìm hiểu, phân tích đề
tài không tránh khỏi thiếu sót khi đưa ra ý kiến chủ quan. Rất mong nhận được sự quan
tâm góp ý chân thành của quý Thầy cô, để người viết hoàn thành tốt đề tài của mình.

Xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô!
Cần Thơ, ngày 15 tháng 11 năm 2013






















Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 5 SVTH: Đặng Thành Trung
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ HOẠT ĐỘNG
CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1. Sơ lược lịch sử ra đời của quyền sở hữu công nghiệp và hoạt động chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp
Thể chế hoá kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển
khoa học - công nghệ và sở hữu trí tuệ, trong suốt hai mươi năm qua, hệ thống pháp luật
về sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng của Việt Nam liên tục được
bổ sung và hoàn thiện. Sự phát triển của hệ thống pháp luật về sở hữu công nghiệp trong
thời gian qua có thể chia làm hai giai đoạn:
1.1.1. Giai đoạn trước năm 2005
Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sở
hữu công nghiệp là Nghị định số 31/CP ngày 23/01/1981 ban hành Điều lệ về sáng kiến
cải tiến kĩ thuật - hợp lí hoá sản xuất và sáng chế. Theo đó, mọi nỗ lực sáng tạo kĩ thuật,
hợp lí hoá sản xuất mang lại các lợi ích thiết thực cho Nhà nước, xã hội và cơ quan đều
được đền đáp về tinh thần và vật chất. Văn bản pháp luật này thiết lập hình thức bảo hộ
sáng chế dưới dạng bằng tác giả sáng chế, theo đó nhà sáng chế chỉ có các quyền nhân
thân của tác giả sáng chế, còn độc quyền sáng chế thuộc về Nhà nước.
Tiếp theo văn bản này, các văn bản khác cũng đã được ban hành để điều chỉnh các
vấn đề về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích. Đó là Nghị định
số 197/HĐBT ngày 14/12/1982 ban hành Điều lệ về nhãn hiệu hàng hoá; Nghị định số
85/HĐBT ngày 13/5/1988 ban hành Điều lệ về kiểu dáng công nghiệp; Nghị định số
200/HĐBT ngày 28/12/1988 ban hành Điều lệ về giải pháp hữu ích; Nghị định số

201/HĐBT ngày 28/12/1988 ban hành Điều lệ về mua bán quyền sử dụng sáng chế, giải
pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết kĩ thuật. Tất cả các
văn bản này đều nhằm mục đích bảo vệ sở hữu của Nhà nước và phản ánh quan điểm của
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 6 SVTH: Đặng Thành Trung
Sự phát triển mới được đánh dấu bằng việc ban hành Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp ngày 11/02/1989 khi Việt Nam bước vào thời kì chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường. Pháp lệnh này huỷ bỏ hình thức bảo hộ sáng chế dưới dạng cấp bằng
tác giả sáng chế mà thực chất là công hữu hoá các sáng chế và lần đầu tiên đưa ra khái
niệm chung về các quyền độc quyền.
Hình thức bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bằng “độc quyền”. Đối tượng sở hữu
công nghiệp được mở rộng. Các hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp không chỉ bị
xử lí hành chính mà còn bị xử lí theo thủ tục tư pháp, nghĩa là được xét xử bởi toà án.
Vào thời điểm cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỉ XX, nhìn chung ở
Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật về sở hữu công nghiệp với nội dung tương đối
phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp mà Việt Nam tham gia (chủ yếu là Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp).
Thực tiễn của quá trình đổi mới, từng bước hình thành nền kinh tế thị trường, cùng
với chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải xây
dựng một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng
ngày một hoàn thiện.
Việc ban hành Bộ luật dân sự (1995), trong đó có Chương II, Phần VI, với 26 điều
khoản quy định về quyền sở hữu công nghiệp là một bước tiến quan trọng nhằm giải
quyết những đòi hỏi của thực tiễn. Về cơ bản, những quy định về quyền sở hữu công
nghiệp trong Bộ luật dân sự (1995) không khác biệt nhiều so với các quy định trong Pháp
lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1989). Tuy nhiên, ý nghĩa quan trọng nhất của
việc đưa vấn đề quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng

vào Bộ luật dân sự là: Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước thừa nhận là một loại quyền dân sự.
Có thể nói, cùng với việc ban hành Bộ luật dân sự (1995), pháp luật về sở hữu công
nghiệp chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.
Sau khi Bộ luật dân sự (1995) ra đời, hàng loạt các nghị định, thông tư được ban
hành để hướng dẫn thực hiện các quy định của Bộ luật dân sự (1995) về quyền sở hữu
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 7 SVTH: Đặng Thành Trung
công nghiệp. Thí dụ: Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về quyền sở
hữu công nghiệp; Thông tư số 3055/TTSHCN ngày 31/12/1996 của Bộ khoa học, công
nghệ và môi trường (nay là Bộ khoa học và công nghệ) hướng dẫn thi hành các quy định
về thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp; Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày
03/10/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lí,
tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới quyền
sở hữu công nghiệp; Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 20/04/2001 về bảo hộ giống cây
trồng mới; Nghị định số 42/2003/NĐ-CP ngày 02/05/2003 về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn v.v
Các quy định về quyền sở hữu công nghiệp tại Phần VI Bộ luật dân sự (1995),
cùng với hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan, đã phát huy hiệu lực trong việc
điều chỉnh các quan hệ pháp luật sở hữu công nghiệp.
Để giải quyết các bất cập của hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, chúng ta đã
hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ thông qua việc sửa đổi Bộ
luật dân sự (1995) (phần liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ) đồng thời ban hành một đạo
luật thống nhất về sở hữu trí tuệ.
1.1.2. Giai đoạn sau năm 2005 – đến nay
Việc soạn thảo Luật sở hữu trí tuệ (2005) dựa trên cách tiếp cận mới, theo đó sở
hữu trí tuệ không chỉ được tiếp cận dưới góc độ quyền dân sự mà còn chủ động nhấn
mạnh góc độ thương mại và các khía cạnh khác của sở hữu trí tuệ, như khía cạnh hành
chính, hình sự. Luật sở hữu trí tuệ (2005) được xây dựng trên cơ sở hệ thống hoá các quy

định hiện hành về sở hữu trí tuệ đồng thời chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các quy định
pháp luật.
Khi quy định về quyền sở hữu công nghiệp, Luật sở hữu trí tuệ (2005) cố gắng
điều chỉnh chi tiết tới mức tối đa các vấn đề sau đây: Điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp; xác lập quyền sở hữu công nghiệp; nội dung và giới hạn quyền sở hữu công
nghiệp; chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; đại diện sở hữu công nghiệp; bảo vệ (hay
thực thi) quyền sở hữu công nghiệp. Những vấn đề này trước đây đã tồn tại trong hệ
thống pháp luật về sở hữu công nghiệp của nước ta nhưng rải rác và tản mạn trong gần
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 8 SVTH: Đặng Thành Trung
một trăm văn bản các loại. Việc Luật sở hữu trí tuệ (2005) tập hợp được các vấn đề nêu
trên là một thành công lớn, giúp cho việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật thuận lợi hơn.
Như vậy, sự ra đời của Luật sở hữu trí tuệ (2005) không những cho phép bảo đảm
việc đáp ứng được các mục tiêu và đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập mà còn tạo cơ
hội khắc phục được các điểm hạn chế, làm cho hệ thống các quy phạm pháp luật về sở
hữu trí tuệ của nước ta mang tính thống nhất và ngày càng tương thích với pháp luật quốc
tế và pháp luật các nước trên thế giới.
Pháp luật nước ta không chỉ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của cá nhân, tổ chức
Việt Nam mà còn bảo hộ cả quyền sở hữu công nghiệp của cá nhân, tổ chức nước ngoài
trên cơ sở nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ, tạo môi
trường pháp lý đầy đủ và minh bạch cho hoạt động sở hữu trí tuệ nhằm phát triển kinh tế
của đất nước và hội nhập quốc tế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của
Cục Sở hữu trí tuệ.
Cục đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo và trình cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành 03 bộ Luật, 01 Pháp lệnh, 16 Nghị định hoặc Quyết định
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, 19 Thông tư hoặc các văn bản quy phạm pháp luật
do các Bộ, ngành ban hành. Đặc biệt, trong năm 2005, Cục Sở hữu trí tuệ được chủ trì xây

dựng và hoàn thiện dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ – một đạo luật chuyên ngành đầu tiên về
sở hữu trí tuệ của Việt Nam với phạm vi điều chỉnh rộng lớn và toàn diện, đã được Quốc
hội chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006. Có thể nói
rằng, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam từ khi Luật Sở hữu trí tuệ và một
loạt các văn bản dưới luật được ban hành, đã tạo ra một nền tảng pháp lý tương đối hoàn
chỉnh, đầy đủ và đồng bộ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động sở hữu trí tuệ
hiện nay.
Cục đã xây dựng một loạt các Đề án, Chương trình hành động của Chính phủ
nhằm thúc đẩy các hoạt động sở hữu trí tuệ trong phạm vi cả nước: Đề án "Đổi mới tổ
chức, cơ chế và phương thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ "; Đề án "Khảo sát, đánh giá
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 9 SVTH: Đặng Thành Trung
thực tiễn hoạt động sáng kiến ở Việt Nam"; Đề án "Nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở
hữu trí tuệ "; "Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp"
Trong tiến trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Cục là
cơ quan chủ trì phần nội dung về sở hữu trí tuệ, tham gia đàm phán để ký kết các hiệp
định thương mại giữa Việt Nam và các nước; trực tiếp chuẩn bị nội dung, phương án và
tham gia đàm phán song phương và đa phương với các nước thành viên WTO; cập nhật,
rà soát, sửa đổi dự thảo báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (phần
nội dung về sở hữu trí tuệ) góp phần kết thúc đàm phán để Việt Nam chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của WTO từ ngày 11/01/2007.
Ngày 19 tháng 6 năm 2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã biểu quyết
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật hình sự, trong đó có các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Cả hai đạo luật này đều bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, toàn văn sẽ
công bố trên Công báo Chính phủ theo quy định pháp luật và sẽ được đăng tải trên trang
website này sau khi được công bố theo Lệnh của Chủ tịch nước.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại quyền sở hữu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm

Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì “ Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của
các tổ chức, cá nhân đối với sáng chế kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra
hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”
1

Quyền sở hữu công nghiệp là chế định trong pháp luật dân sự, là lĩnh vực thuộc quan
hệ pháp luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành bao gồm chủ thể, khách thể và nội
dung.
Hiểu theo nghĩa chủ quan thì quyền sở hữu công nghiệp là một chế định pháp luật bao
gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành


1
Khoản 4, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 10 SVTH: Đặng Thành Trung
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sáng tao, sử dụng, định đoạt
các sản phẩm do lao động trí tuệ làm ra trong lĩnh vực công nghiệp.
Hiểu theo nghĩa khách quan thì quyền sở hữu công nghiệp là một quyền dân sự cụ thể
của chủ thể đối với các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp.
Quyền sở hữu công nghiệp cũng bao gồm các nhóm quy phạm liên quan đến các hình
thức sở hữu, căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu, cách thức, biện pháp chuyển
quyền sở hữu, các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, liên quan đến vấn đề nghiên
cứu chúng ta có thể xem qua các khái niệm dưới đây
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết
một số vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình
khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này. Văn bằng bảo hộ là Bằng

độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày
nộp đơn.
Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm,
trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên
kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện chức năng
điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi điện tử.
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và
mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn. Được xác lập theo văn bằng bảo
hộ Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn do cục sở hữu trí tuệ cấp.
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân
khác nhau. Văn bằng bảo hộ Nhãn hiệu hàng hóa quyết định chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều
lần liên tiếp, mỗi lần mười năm.
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để
phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 11 SVTH: Đặng Thành Trung
lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Được tự động xác lập không cần đăng ký và thuộc về
người đầu tiên sử dụng tên đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương,
vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý quyết định chứng nhận
đăng ký chỉ dẫn địa lý do cục sở hữu trí tuệ cấp.
Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa
được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
1.2.2. Đặc điểm
Quyền sở hữu công nghiệp là một phần của quyền sở hữu trí tuệ nên quyền sở hữu
công nghiệp mang các đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ đã nêu ở trên. Ngoài ra, trong sự
so sánh với quyền tác giả thì quyền sở hữu trí tuệ có những đặc trưng cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ về nội dung, khác với quyền tác giả

là bảo hộ về mặt hình thức.
Thứ hai, hầu hết các đối tượng được bảo phải dựa trên trên cơ sở việc cấp văn bằng
bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khác với quyền tác giả là quyền tự nhiên,
xuất hiện khi tác giả sáng tác, làm ra tác phẩm, không nhất thiết phải có văn bằng.
Thứ ba, hầu hết các đối tượng được bảo hộ với giới hạn về không gian và thời gian.
Trong đó, thời gian sở hữu công nghiệp ngắn hơn so với quyền tác giả.
Thời hạn của văn bằng bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp được duy trì trong một
thời hạn nhất định hết thời hạn đó thì tư cách chủ sở hữu của quyền sở hữu công nghiệp
sẽ chấm dứt.
2

Ví dụ 1: Cà phê Trung nguyên được bảo hộ độc quyền tại Việt nam nhưng khi xuất
khẩu sang Nhật Bản thì không được bảo hộ vì đã có người đăng ký nhãn hiệu trước tại
Nhật Bản.
Ví dụ 2: Đối với nhãn hiệu hàng hóa, thời hạn bảo hộ là mười năm kể từ ngày cấp
chứng chỉ nhãn hiệu hàng hóa. Hoặc việc sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được


2
Điều 94 Luật Sở hữu trí tuệ 2005
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 12 SVTH: Đặng Thành Trung
bảo hộ nhưng đã hết thời hạn bảo hộ được coi là hành vi hợp pháp. Khác với Quyền tác
giả như họ tên đối với tác phẩm là vĩnh viễn.
3

Có thể nói rằng ngoài những đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền
sở hữu công nghiệp còn có những đặc điểm rất riêng như đã phân tích ở trên. Việc nắm
những đặc điểm này sẽ giúp cho chúng ta hiểu sâu hơn về phương diện lý luận đối với

vấn đề sở hữu công nghiệp và nhận thức đúng vai trò, vị trí của quyền sở hữu công nghiệp
trong thực tế đời sống hiện nay.
1.2.3. Phân loại
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với cây trồng.
4
Quyền đối với giống cây
trồng theo pháp luật quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ thì quyền đối với giống cây trồng
được bảo hộ dưới dạng sáng chế.
5

Quyền tác giả bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả và chủ sở hữu
quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, khoa hộc, nghệ thuật. Quyền tác giả còn được
gọi là tác quyền hay bản quyền. Đối với quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc
quyền sử dụng và khai thác tác phẩm
Bên cạnh đó là quyền đối với giống cây trồng. Giống cây trồng là quần thể cây trồng
thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các
chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen
hoặc sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây
trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được.
Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống.


3
Công ty luật FDVN, trang wed: http// www.fdvn.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=768%3Ac-
trng-ca-quyn-s-hu-cong-nghip&catid=2%3Ax-phuc-thm-v-tan-hoang-phat-khong-hy-an-la-sai&Itemid=18&lang=vi
[ Truy cập ngày 15/09/2013]
4
Khoản 1 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005

5
Điều 7 Hiệp định Trips
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 13 SVTH: Đặng Thành Trung
Tuy nhiên, ngoài hai đối tượng trên thì theo pháp luật Việt Nam thì quyền sở hữu
công nghiệp còn bao gồm quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý ( bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa), tên thương mại,
bí mật kinh doanh, quyền chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các quyền sở
hữu công nghiệp khác do pháp luật quy định. Quyền sở hữu công nghiệp bảo hộ quyền sử
dụng độc quyền vì mục dích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở hữu, các đối tượng
sở hữu công nghiệp. Bên cạnh đó, sở hữu công nghiệp bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo
và uy tính kinh doanh.
Khi đó quyền sở hữu công nghiệp được chia làm hai nhóm theo đặc thù riêng của
từng nhóm đối tượng sở hữu công nghiệp:
Thứ nhất, là quyền sở hữu công nghiệp đối với các thành quả của sự sáng tạo trong
các lĩnh vực công nghiệp, khoa học kỹ thuật bao gồm: Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh,…Mục đích kinh tế, xã hội của việc bảo hộ các đối
tượng này là bảo vệ những thành quả đầu tư trong phát triển khoa học công nghệ mới,
khuyến khích các hoạt động sáng tạo, nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực này.
Thứ hai, là quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu chỉ dẫn thương mại có
đặc tính phân biệt gồm: Nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý ( bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa ),
tên thương mại. Đây là những đối tượng mà sự hàm chứa về mặt trí tuệ không đáng kể
nhưng vẫn được coi là các đối tượng của sở hữu trí tuệ vì chúng chứa đựng những khả
năng truyền tin tới người tiêu dùng về các sản phẩm, dịch vụ lưu thông trên thị trường.
Quyền sở hữu công nghiệp còn thể hiện những đặc trưng thương mại của mình như:
Các đối tượng sở hữu công nghiệp là một trong những yếu tố cấu thành hàng hóa,
dịch vụ. Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Do đó ta nhận thấy các đối

tượng trên đều mang tính chất hàng hóa phục vụ quá trình kinh doanh để tạo ra lợi nhuận.
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 14 SVTH: Đặng Thành Trung
Các đối tượng sở hữu công nghiệp – tài sản trí tuệ được ứng dụng trong hoạt động
kinh tế - thương mại. Tài sản này là kết quả của sự hoạt động trí óc hoặc do những điều
kiện thiên nhiên và quá trình lao động thành ( Chỉ dẫn địa lý )và được ứng dụng trong
thương mại.
Các đối tượng sở hữu công nghiệp là một loại “tài sản đặc biệt” . Hiện nay, trong danh
sách 100 thương hiệu mạnh nhất thế giới năm 2002 do Tuần báo Buiness Week (Hoa Kỳ)
công bố thì nhãn hiệu Coca-Cola được đánh giá tới 69,6 tỷ USD, Microsoft là 64 tỷ USD,
IBM 51,1 tỷ USD, GE 41,3 tỷ USD, Intel 30,8 tỷ USD, Nokia 29,9 tỷ USD. Còn đố với
một số sản phẩm có tên tuổi của Việt Nam như nhãn hiệu kem đánh răng P/S được
chuyển nhượng với giá 7,5 triệu USD, kem đánh răng Dạ Lan là 2,5 triệu USD. Với giá
trị kinh tế to lớn các đối tượng sở hữu công nghiệp được sử dụng làm vốn góp trong công
ty, làm tài sản thế chấp vay vốn,có thể cho thuê, chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc dùng
định giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và các giao dịch thương mại khác.
Ngoài ra, quyền sở hữu công nghiệp có thể bị lạm dụng để cản trở thương mại đặc
biệt là thương mại quốc tế. Quyền sở hữu công nghiệp là độc quyền của chủ sở hữu do đó
đây là một ngoại lệ của một nguyên tắc tự do kinh doanh. Điều này ảnh hưởng trực tiếp
đến nguyên tắc tự do cạnh tranh và tự do hóa thương mại.
1.3. Khái niệm, đặc điểm hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
1.3.1. Khái niệm về hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
Chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp được hiểu theo nghĩa đơn giản là việc đưa
công nghiệp từ nơi có công nghiệp đến nơi có nhu cầu nhận công nghiệp, từ nơi có trình
độ công nghiệp cao đến nơi có trình độ công nghiệp thấp hơn một cách hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu của các bên tham gia hoặc là sự giao dịch chuyển toàn bộ hoặc một phần công
nghiệp từ nhóm người này sang nhóm người khác.
Đến nay, chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp hết sức phát triển và phổ biến,
được thực hiện trong tất cả các các ngành sản xuất vật chất.Chuyển giao quyền sở hữu

công nghiệp không còn diễn ra theo một chiều, từ những nước phát triển đến những nước
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 15 SVTH: Đặng Thành Trung
đang phát triển mà ngược lại các nước đang phát triển cũng hoàn toàn có khả năng chuyển
giao quyền sở hữu công nghiệp cho các nước phát triển ở một số lĩnh vực có thế mạnh.
Hiểu theo nghĩa rộng thì chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp xảy ra khi một hoặc
nhiều thành tố của công nghiệp được mở rộng phạm vi áp dụng ( chuyển dịch về địa lý
hoặc chủ thể sở hữu, sử dụng,…). Theo nghĩa hẹp thì chuyển giao quyền sở hữu công
nghiệp được hiểu là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng ( một phần hoặc toàn
bộ) công nghiệp từ bên có quyền giao công nghiệp sang bên nhận công nghiệp.
Xét về khía cạnh pháp lý, hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp là một
giao dịch dân sự và do tính đặc thù của hoạt động chuyển giao nay nên Bộ luật dân sự
2005 cũng có phần riêng để điều chỉnh giao dịch này.
6

Chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng,
thỏa thuận và được xác lập thông qua cơ chế hợp đồng, gọi là hợp đồng chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp. Như vậy, khái niệm chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
được hiểu là một giao dịch dân sự được thực hiện theo hình thức hợp đồng mà qua đó bên
có quyền chuyển giao công nghiệp sẽ chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
công nghiệp cho bên tiếp nhận theo phương thức và các điều kiện do các bên thỏa thuận.
Chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp là chủ thể có quyền đối với các đối tượng sở
hữu công nghiệp chuyển giao một phần hay toàn bộ quyền của mình cho chủ thể khác
1.3.2. Đặc điểm của hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
1.3.2.1 Chủ thể trong hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp cho phép chủ sở hữu quyết định xem có tự mình khai
thác quyền sở hữu công nghiệp hay chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp cho người
khác. Trên thực tiễn, pháp luật về sở hữu công nghiệp của các nước, có rất ít các quy định
điều chỉnh về khai thác quyền sở hữu công nghiệp. Chủ sở hữu được tự do xác định chiến

lược của mình và tự do ký kết hợp đồng với bất kỳ ai hoặc bất kỳ điều kiện gì. Để hạn chế


6
Phần 6 chương XXXV Bộ luật dân sự 2005:

Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 16 SVTH: Đặng Thành Trung
một cách hữu hiệu các hợp đồng licensing ( Hợp đồng Li – xăng ) độc quyền, một số
nước đưa ra quy định về li – xăng bắt buộc. Việc quy định về li – xăng bắt buộc trong
pháp luật các nước chủ yếu dựa trên chuẩn mực của điều 5A Công ước Paris về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp và điều 31 của hiệp định TRIPS.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam quyền sở hữu công nghiệp là khái niệm
pháp lý gắng liền với sự phát triển khoa học và nền thương mại. Hiện nay, quyền của các
chủ sở hữu gồm quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng
hóa và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định.
7

Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp có quyền chuyển giao
quyền sở hữu và quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp của họ cho tổ chức, cá
nhân khác. Cụ thể là bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao các đối tượng sở hữu công
nghiệp.
1.3.2.2 Đối tượng được chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
Các đối tượng sở hữu công nghiệp được chuyển giao bao gồm quyền đối với nhãn
hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí
mật kinh doanh. Vì vậy, hầu hết các đối tượng sở hữu công nghiệp điều được chuyển giao
trừ quyền đối với chỉ dẫn địa lý và quyền sử dụng tên thương mại và giống cây trồng.
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định bắt buộc chuyển giao đối với sáng chế để

ngăn chặn lạm dụng độc quyền được xác định bởi bằng độc quyền sáng chế và mục dích
công cộng,phi thương mại.
1.3.3. Phân loại hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
Ở một số nước trên thế giới hình thức về việc chuyển nhượng hoặc hình thức hợp
đồng li – xăng và các điều kiện cùng những thủ tục khác liên quan tới việc chuyển
nhượng hay li – xăng là do luật sáng chế hoặc luật thương mại quy định. Do đó, văn bản


7
Điều 780 Bộ luật dân sự 2005.
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 17 SVTH: Đặng Thành Trung
chuyển nhượng sáng các quyền sáng chế được thực hiện theo hình thức đặc biệt như có
thể yêu cầu không chỉ bên chuyển nhượng mà cả bên chuyển nhượng ký lập văn bản.
Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp, chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp cụ thể:
Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu công nghiệp chuyển
giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác.
8
Hoạt động này được coi là việc
“ bán đứt” quyền sở hữu công nghiệp vì chủ sở hữu công nghiệp chuyển giao toàn bộ
quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp của mình cho chủ thể khác.
Chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu đối tượng
sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình.
9
Hoạt động này có phạm vi hẹp hơn so
với chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp vì đây là việc “ cho phép” sử dụng đối
tượng sở hữu công nghiệp.

Ngoài ra, chuyển quyền sử dụng sở hữu công nghiệp còn có các dạng hợp đồng sau:
Hợp đồng độc quyền là dạng hợp đồng mà theo đó phạm vi và thời hạn chuyển
giao, bên được chuyển quyền được độc quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, bên
chuyển quyền không được ký kết hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp với bất
kỳ bên thứ ba nào và chỉ được sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp đó nếu được phép
của bên được chuyển quyền.
10

Khi các bên thỏa thuận với nhau sẽ ký kết hợp đồng li – xăng với hình thức độc quyền thì
đối tượng công nghiệp được chuyển giao đó thuộc quyền chiếm hữu hoàn toàn của bên
nhận li – xăng đồng nghĩa với việc bên giao li – xăng không có quyền định đoạt quyền sở
hữu công nghiệp đó, nếu được sự chấp thuận của bên nhận li – xăng thì bên li – xăng mới
có quyền sử dụng.


8
Khoản 1 Điều 138 Luật sở hữu trí tuệ 2005
9
Khoản 1 Điều 141 Luật sở hữu trí tuệ 2005
10
Khoản 1 Điều 143 Luật sở hữu trí tuệ 2005

Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 18 SVTH: Đặng Thành Trung
Hợp đồng không độc quyền là hợp đồng mà theo đó trong phạm vi và thời gian
chuyển giao quyền sử dụng, bên chuyển quyền vẫn có quyền sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp, quyền ký kết hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp không độc
quyền với người khác.
11


Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thứ cấp là hợp đồng mà theo đó bên
chuyển nhượng quyền là người được chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp đó theo một hợp đồng khác.
12
Bên chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp và được chủ sở hữu công nghiệp cho phép chuyển quyền sử dụng thứ cấp theo một
hợp đồng khác.
Bên chuyển quyền có quyền sử dụng và li – xăng đối tượng sở hữu công nghiệp cho
chủ thể khác tuy nhiên không được li – xăng độc quyền. Trường hợp chủ sở hữu sáng chế
chuyển quyền sử dụng sáng chế cho chủ thể khác theo hình thức li – xăng không độc
quyền thì chủ sở hữu sáng chế đó có thể li – xăng sáng chế cho chủ thể khác có nhu cầu.
Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thứ cấp là hợp đồng mà theo đó
bên chuyển quyền là người được chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp đó theo một hợp đồng khác.
13

Chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp và được chủ sở hữu công
nghiệp cho phép chuyển quyền sử dụng thứ cấp theo một hợp đồng khác.
Khái niệm về li – xăng bắt buộc
Dựa trên căn cứ bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế ta có thể đưa ra
khái niệm về li – xăng bắt buộc như sau
14
“ Li – xăng bắt buộc là việc quyền sử dụng sáng
chế được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân khác theo quy định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khi người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không thực hiện nghĩa vụ sử
dụng sáng chế khi có yêu cầu về quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh
dưỡng cho nhân dân hoặc có nhu cầu cấp thiết cho xã hội. Bên được chuyển quyền sử



11
Khoản 2 Điều 143 Luật sở hữu trí tuệ 2005
12
Khoản 3 Điều 143 Luật sở hữu trí tuệ 2005
13
Khoản 3 Điều 143 Luật sở hữu trí tuệ 2005
14
Điều 145 Luật sở hữu trí tuệ 2005
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 19 SVTH: Đặng Thành Trung
dụng sáng chế theo hợp đồng không có nghĩa vụ sử dụng sáng chế như chủ sở hữu sáng
chế với thời hạn luật định thì cơ quan có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng
sáng chế cho người khác mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu sáng chế.
Khái niệm về hợp đồng chuyển giao công nghệ
Quy định pháp luật cơ bản về chuyển giao công nghệ của Việt Nam là Luật chuyển
giao công nghệ 2006 điều chỉnh hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới và thương
mại hóa công nghiệp, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư nước ngoài và
phát triển thị trường công nghệ. Bên cạnh đó còn có quy định hoạt động chuyển giao công
nghệ, dịch vụ hỗ trợ và các biện pháp khuyến khích thúc đẩy hoạt động chuyển giao công
nghệ.
Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
15

Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần
hoặc toàn bộ công nghẹ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công
nghệ.
Khái niệm về các hợp đồng nhượng quyền thương mại
Theo quy định Luật thương mại 2005 thì nhượng quyền thương mại là hoạt động

thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến
hành việc mau bán hàng hóa cung ứng dịch vụ theo các điều kiện: Việc mua bán, cung
ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy
định và được gắng liền với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh,
khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; Bên
nhượng có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công
việc kinh doanh.
16

Ví dụ: Để đảm bảo các thủ tục pháp lý được chặt chẽ ngay từ đầu, Phở 24 đã đầu tư
đáng kể vào các khâu đăng ký nhãn hiệu trong và ngoài nước, nhờ luật sư tư vấn soạn


15
Khoản 2 Điều 3 Luật chuyển giao công nghệ 2006
16
Điều 284 Luật thương mại 2005
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 20 SVTH: Đặng Thành Trung
thảo hợp đồng nhượng quyền mẫu… Các khâu về tổ chức, đào tạo, huấn luyện cũng được
chuẩn bị từng bước để có thể chuyển giao và hổ trợ đắc lực cho phía đối tác mua
franchise. Phở 24 quyết định áp dụng hình thức nhượng quyền công thức kinh doanh,
trong đó phía đối tác mua franchise được nhượng quyền sử dụng thương hiệu và được
hướng dẫn và đào tạo chi tiết cách thức tổ chức, điều hành và quản lý mô hình quán Phở
24 đã được chứng minh thành công trong 2 năm qua.
17

Theo pháp luật Việt Nam, hợp đồng Franchise là một dạng đặc thù của hợp đồng đại
lý trong đó một bên nhượng quyền có nghĩa vụ li – xăng nhãn hiệu và chuyển giao các

kiến thức kỹ thuật, kinh nghiệm kinh doanh cho bên nhận quyền nhằm mục đích tiêu thụ
sản phẩm do bên giao Franchise cung cấp.
Tóm lại, Quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng là
vấn đề khá phức tạp và có mối quan hệ mật thiết với nhiều lĩnh vực như dân sự, thương
mại thông qua việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp dưới dạng các hợp đồng ( Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp, hợp đồng li – xăng hay li – xăng bắt
buộc và các dạng hợp đồng đặc biệt của hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nhiệp).
1.4. Một số điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công
nghiệp
1.4.1. Công ước PARIS về hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
Công ước Paris ( 1883 ) là một trong những công ước quốc tế đa phương quan trọng
về sở hữu công nghiệp. Công ước Paris được ký kết vào ngày 20/03/1883, đến ngày
15/9/2005 số lượng thành viên là 169 quốc gia trong đó có Việt Nam. Công ước Paris
( bản sửa đổi năm 1979) mục đích chủ yếu của Công ước là nhằm xây dựng các điều kiện
có lợi cho việc cấp văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp là công
dân, pháp nhân của nước này ở nước khác thuộc thành viên Công ước trên nguyên tắc tôn
trọng luật sở hữu công nghiệp của các nước thành viên.


17
Chuỗi nhà hàng Phở 24h:
[Truy cập ngày 15/11/2013]
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 21 SVTH: Đặng Thành Trung
Công ước Paris áp dụng cho chủ sở hữu công nghiệp theo nghĩa bao gồm sáng chế,
nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý ( chỉ dẫn
nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh.
Nội dung Công ước Paris về hợp đồng li – xăng bắt buộc:
Việc chủ patent nhập khẩu vào một nước đã cấp patent những hàng hóa đã chế tạo

tại bất kỳ quốc gia nào là thành viên của liên minh sẽ không dẫn tới việc tước quyền
patent.
Mỗi nước thành viên của liên minh điều có quyền đưa ra biện pháp pháp lý quy
định việc cấp li – xăng cưỡng bức nhằm ngăn chặn việc lạm dụng có thể nảy sinh từ việc
thực hiện độc quyền được xác lập bởi patent.
Không được quy định việc tước quyền patent trừ trường hợp việc cấp li – xăng
cưỡng bức chưa đủ để ngăn chặn lạm dụng trên, việc tước quyền hoặc hủy bỏ patent
không được tiến hành trước khi hết hạn hai năm kể từ khi cấp li – xăng cưỡng bức đầu
tiên.
Không được áp dụng li – xăng cưỡng bức với lý do không sử dụng hoặc sử dụng
không đầy đủ trước khi hết hạn bốn năm kể từ ngày nộp đơn xin cấp patent hoặc ba năm
kể từ ngày cấp patent tùy theo thời gian nào kết thúc muộn hơn, li – xăng cưỡng bức sẽ bị
trút bỏ nếu chủ patent chứng minh được việc không sử dụng của mình là lý do chính
đáng.
18

Công ước Paris là một trong những công ước quan trọng nhất và sớm nhất về bảo hộ
sở hữu công nghiệp. Vì vậy, bảo đảm sự vận hành về cơ chế thực thi đối với sở hữu công
nghiệp đúng theo quy định của công ước thì các nước thành viên của công ước trong đó
có Việt Nam phải tăng cường nổ lực xây dựng một hệ thống pháp luật về quyền sở hữu
công nghiệp đầy đủ và hoàn thiện.
1.4.2. Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ ( TRIPS)


18
Điều 5A Công ước Paris
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 22 SVTH: Đặng Thành Trung
Hiệp định TRIPS là hiệp định đầu tiên mang tính quốc tế đã đưa ra các chuẩn mực tối

thiểu về những hình thức sở hữu trí tuệ. Hiệp định TRIPS còn quy định một số điều kiện
mà chính phủ li – xăng bắt buộc:
Việc sử dụng có thể được cho phép nếu như trước khi chuyển giao li – xăng bắt buộc
người sử dụng dự kiến đã hết sức cố gắng để đạt được sự cho phép của người nắm quyền
bằng những điều khoản thương mại hợp lý nhưng không thành trong một khoảng thời
gian hợp lý, trừ trường hợp khẩn cấp quốc gia hoặc những tình huống khẩn cấp đặc biệt
khác hoặc trong trường hợp sử dụng công cộng không vì mục đích thương mại;
Phạm vi và thời hạn sử dụng sẽ tùy thuộc vào mục đích được cho phép;
Quyền sử dụng đó không có tính đọc quyền không thể được chuyển nhương ( trừ
trường hợp chuyển giao cơ sở kinh doanh đang được ủy quyền) và chỉ có thể để cung cấp
cho thị trường nội địa của quốc gia thành viên cho phép việc sử dụng đó;
Quyền sử dụng sẽ chấm dứt khi các điều kiện bắt buộc chuyển giao không còn tồn
tại và không có khả năng tái xuất hiện với điều kiện việc chấm dứt quyền sử dụng đó
không gây thiệt hại cho người được quyền sử dụng li – xăng bắt buộc.
19

Dựa vào Công ước Paris, hiệp định TRIPS và các hiệp định quốc tế có liên quan mà
Việt Nam là thành viên thì đó là cơ sở pháp luật để Việt Nam quy định về hoạt động sở
hữu trí tuệ nói chung và hoạt động chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp nói riêng hoàn
thiện hơn đặc biệt là pháp luật chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp về li – xăng bắt
buộc.







19
Điều 31 Hiệp định TRIPS

Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 23 SVTH: Đặng Thành Trung
CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
2.1. Các dạng hợp đồng chuyển giao công nghiệp
2.1.1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp
2.1.1.1. Chủ thể trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp
Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chỉ được chuyển nhượng quyền của mình trong
phạm vi được bảo hộ.
20
Các tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền sử dụng quản lý
đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng đối với chỉ dẫn địa lý đó vì chỉ dẫn địa
lý chỉ ra vùng hoặc khu vực sản xuất cụ thể quyết định đặc thù sản phẩm có nguồn gốc tại
vùng đó và quan trọng là sản phẩm đạt được chất lượng và danh tiếng nhờ đó cho nên
chất lượng phụ thuộc vào nơi sản xuất, tồn tại một mối liên hệ cụ thể giữa sản phẩm và
nguồn gốc nơi sản xuất sản phẩm. Do tính chức năng chỉ dẫn địa lý và chỉ dẫn địa lý gắng
với một địa danh nên không thể tiến hành chuyển nhượng quyền chỉ dẫn địa lý được.
2.1.1.2. Đối tượng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp
Đối tượng công nghiệp được chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật kinh doanh. Chỉ dẫn địa lý thì
không được chuyển nhượng, đối với chuyển nhượng tên thương mại và nhãn hiệu thì phải
thỏa được các điều kiện được nêu ở trên.
2.1.1.3. Nội dung cơ bản của hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp phải có các nội dung chủ yếu:
Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng; Căn cứ
chuyển nhượng; Giá chuyển nhượng; Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển nhượng và bên
được chuyển nhượng.
21

Trước đó sẽ có mẫu tờ khai để các bên tiến hành đăng ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp.
22



20
Khoản 1 Điều 139 Luật sở hữu trí tuệ 2005
21
Điều 140 Luật sở hữu trí tuệ 2005
22
Mẫu tờ khai đăng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp:
[ Truy cập ngày 14/11/2013]
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 24 SVTH: Đặng Thành Trung
Các nội dung trên được xem là nội dung cơ bản của hợp đồng chuyển nhượng quyền
sở hữu công nghiệp. Trường hợp không có một trong các nội dung được quy định như
trên thì hợp đồng sẽ vô hiệu.
2.1.1.4. Hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp
Việc chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp phải được thực hiện dưới hình thức
hợp đồng văn bản.
23
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến
các đối tượng sở hữu công nghiệp, đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp phải đăng ký
thì hợp đồng chuyển nhượng các đối tượng sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực khi được
đăng ký tại cơ quan nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp. Đối với bí mật kinh doanh vì
việc bảo hộ bí mật kinh doanh như việc đăng ký sẽ ảnh hưởng đến giá trị của bí mật kinh
doanh nên bí mật kinh doanh sẽ tự động xác lập và có hiệu lực từ thời điểm xác lập.
2.1.1.5. Một số điều kiện hạn chế trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công

nghiệp
Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định các điều kiện chuyển nhượng đối với tên thương
mại và nhãn hiệu. Theo đó, quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng
với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh daonh dưới tên
thương mại đó.
24
Việc chuyển nhượng đối với nhãn hiệu không được gây ra nhằm lẫn về
đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Quyền đối với nhãn hiệu chỉ
được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền
đăng ký nhãn hiệu đó.
25
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp có thể tự do
tiến hành giao kết.
Tuy nhiên, Luật sở hữu trí tuệ 2005 đặt ra các điều kiện hạn chế đối với chuyển
nhượng quyền sở hữu công nghiệp. Việc quy định điều kiện hạn chế đó không làm ảnh
hưởng đến quyền tự do giao kết hợp đồng mà sẽ góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích
của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và các chủ thể khác.


23
Khoản 2 Điều 138 Luật sở hữu trí tuệ 2005
24
Khoản 3 Điều 139 Luật sở hữu trí tuệ 2005
25
Khoản 4,5 Điều 139 Luật sở hữu trí tuệ 2005
Thực trạng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Tuyền Trang 25 SVTH: Đặng Thành Trung
2.1.2. Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp
( Hợp đồng Licensing)

Chuyển quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu đối
tượng sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp thuộc phạm vi quyền sở dụng của mình.
26
Nói cách khác, hợp đồng li – xăng là sự
thỏa thuận giữa bên giao và bên nhận về việc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền
sở hữu công nghiệp.
Chuyển quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là một hình thức khai thác
quyền sở hữu công nghiệp qua đó chủ sở hữu công nghiệp thu về một khoản tiền ( Phí
chuyển quyền sử dụng) hoặc lợi ích vật chất khác phải trực tiếp sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp. Hình thức này đặc biệt thích hợp với chủ sở hữu công nghiệp không hoạt
động kinh doanh hoặc không có năng lực kinh doanh. Chuyển quyền sử dụng đối tượng
quyền sở hữu công nghiệp còn góp phần phổ biến công nghệ, nâng cao hiệu quả đầu tư
nghiên cứu, hạn chế độc quyền và thúc đẩy việc tạo ra công nghệ mới. Vì vậy, có thể nói
rằng việc chuyển quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp đem lại lợi ích cho
cả chủ sở hữu công nghiệp, người được chuyển quyền sử dụng và toàn xã hội.
2.1.2.1. Chủ thể trong hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu công
nghiệp
Chủ thể trong hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là
bên giao và bên nhận quyền sử dụng. Theo đó, người chuyển quyền sử dụng chỉ được cho
phép chuyển giao quyền thuộc về mình, nếu quyền sở hữu chung thì việc chuyển quyền
sử dụng phải được sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu chung.
2.1.2.2. Đối tượng của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu công
nghiệp
Các đối tượng công nghiệp được chuyển quyền sử dụng có thể là sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh.


26
Khoản 1 Điều 141 Luật sở hữu trí tuệ 2005

×