Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Những vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG
CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

LÊ QUANG VIỆT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN KIỀU GIANG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Kiều Giang. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận
xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ
trong phần tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày

tháng
Tác giả

Lê Quang Việt


năm 2018


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt
khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Nguyễn Kiều Giang đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện nghiên cứu Luận văn của mình. Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc tới Ban giám hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ Khoa
Sau đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày

tháng
Tác giả

Lê Quang Việt

năm 2018


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cho thuê tài chính
CTTC
Công ty cho thuê tài chính
CTCTTC

Hợp đồng cho thuê tài chính

HĐCTTC


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
Chương 1 ...................................................................................................... 6
TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH ....................... 6
1.1. Quan niệm Cho thuê tài chính .......................................................... 6
1.2. Khái niệm Hợp đồng cho thuê tài chính......................................... 10
1.3. Đặc trưng cơ bản của Hợp đồng Cho thuê tài chính ..................... 12
1.4. Các loại Hợp đồng Cho thuê tài chính cơ bản ............................... 19
1.4.1. Hợp đồng cho thuê tài trợ trực tiếp (direct lease) ...................... 19
1.4.2. Hợp đồng cho thuê liên kết (syndicate lease) ............................ 20
1.4.4. Hợp đồng bán, tái thuê (sale and leaseback arrangement) ....... 22
1.4.5. Hợp đồng cho thuê giáp lưng (under lease) .............................. 23
1.4.6. Hợp đồng thuê mua trả góp (lease purchase arangment) ......... 25
1.5. Điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ Hợp đồng Cho thuê tài chính
................................................................................................................. 26
1.5.1. Khái niệm pháp luật cho thuê tài chính ........................................ 26
1.5.2. Điều chỉnh pháp luật về Hợp đồng Cho thuê tài chính. 271.5.3. Các
yếu tố ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật đối với Hợp đồng Cho
thuê tài chính........................................................................................... 28
Chương 2 .................................................................................................... 31
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ .......... 31TÀI
CHÍNH Ở VIỆT NAM ............................................................................... 31
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về Hợp đồng Cho thuê tài chính . 31
2.1.1.Quy định về Chủ thể Hợp đồng Cho thuê tài chính ................... 31
2.1.1.1. Bên cho thuê: ....................................................................... 31

2.1.1.2.Bên thuê ................................................................................ 35
2.1.1.3. Nhà cung ứng....................................................................... 36
2.1.2.Quy định đối tượng của Hợp đồng cho thuê tài chính ............... 36
2.1.3. Quy định về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể Hợp đồng Cho
thuê tài chính ....................................................................................... 38
2.1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của Bên cho thuê.................................... 38
* Quyền của Bên cho thuê ................................................................ 38
2.1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của Bên thuê .......................................... 40
2.1.3.3. Quyền và nghĩa vụ của Bên cung ứng .................................. 41
2.1.4.Quy định về đăng ký hợp đồng, tài sản Cho thuê tài chính.... 42
2.1.5. Quy định về chấm dứt Hợp đồng CTTC trước hạn và xử lý tài
sản thuê............................................................................................ 43
2.2. Một số nhận xét về hoạt động Cho thuê tài chính trong thời gian
vừa qua ở nước ta ................................................................................... 48


Chương 3................................................................................................. 52
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
Ở VIỆT NAM ............................................................................................. 52
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng cho thuê tài chính ở
Việt Nam ................................................................................................. 52
3.2. Hoàn thiện pháp luật Hợp đồng cho thuê tài chính ....................... 58
3.2.1. Nâng cao hiệu lực của văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động
Cho thuê tài chính ............................................................................... 58
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến Hợp đồng CTTC 61
3.2.3. Một số kiến nghị khác................................................................ 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 72


LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cho thuê tài chính (CTTC) là một loại hoạt động tín dụng hữu hiệu bổ
sung cho các loại hình tín dụng khác như tín dụng thương mại, tín dụng đầu
tư,.. góp phần đa dạng hóa các phương thức tài trợ vốn cho các doanh nghiệp.
Cho thuê tài chính giúp cho các nguồn vốn luân chuyển một cách dễ dàng và
có tính an toàn cao, tăng cường độ vận động của thị trường tài chính. Trong đó,
các định chế tài chính như công ty tài chính, công ty CTTC có mối quan hệ
ngày càng mật thiết với nhau và với các doanh nghiệp khác. So với các loại
hình tài trợ khác, CTTC có vai trò to lớn trong việc hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp cũng như thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Hoạt động CTTC đã vô cùng sôi động ở rất nhiều nước trên thế giới và
trong khu vực, trở thành “kênh” dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Chính thức
xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1995, đến nay hoạt động CTTC đang dần khẳng
định vai trò to lớn trong thực tiễn. Tuy nhiên, hoạt động CTTC ở nước ta phát
triển chưa thực sự như mong muốn và có phần chậm chạp. Điều này có nguyên
nhân trực tiếp từ chính sách và pháp luật về lĩnh vực này vẫn chưa đầy đủ,
hoàn thiện. Đặc biệt là những quy định về Hợp đồng CTTC - “xương sống”
của toàn bộ hoạt động CTTC, chưa thật sự phù hợp, chưa tạo ra được sức cuốn
hút, cũng như sự yên tâm cần thiết đối với cả các định chê tài chính, cũng như
giới doanh nghiệp khi cân nhắc việc tham gia vào hoạt động này.
Được biết đến như một “kênh” tài trợ vốn hiệu quả, nhưng đến nay hoạt
động Cho thuê tài chính ở nước ta vẫn mới chỉ dừng lại ở tầm Nghị định như:
Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ điều chỉnh trực tiếp
- sau này được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày
19/5/2005…Và hiện nay là Nghị định số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/5/2014 thay
thế cho các văn bản đã ban hành trước đó, cùng một số Thông tư của Ngân
1


hàng Nhà nước như: Thông tư 30/2015/TT-NHNN ngày 25/12/2015; Thông tư

20/2017/TT-NHNN ngày 29/12/2017…Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
được sửa đổi bổ sung năm 2017 cũng đề cập đến hoạt động Cho thuê tài chính.
Được điều chỉnh trực tiếp bởi các Nghị định - là những văn bản chuyên ngành
có giá trị pháp lý không cao, đồng thời những quy định của các văn bản pháp
luật này về Hợp đồng CTTC vẫn chưa thật phù hợp với thực tiễn. Quá trình
tiến hành các giao dịch Cho thuê tài chính trên thực tế đã bộc lộ một số vướng
mắc, những điểm chưa phù hợp giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn
kinh doanh của các doanh nghiệp và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, việc
thực hiện hợp đồng còn tiềm ẩn khá nhiều rủi ro, còn những vướng mắc trong
việc thu hồi tài sản thuê khi Bên thuê vi phạm hợp đồng, vấn đề đăng ký tài
sản thuê, đăng ký giao dịch cho thuê tài chính,... Những bất cập, vướng mắc
này đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về Hợp
đồng cho thuê tài chính, tạo môi trường pháp lý đầy đủ, an toàn và tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc, giúp cho hoạt động Cho thuê tài chính diễn ra an
toàn, hiệu quả, đạt được mục tiêu, yêu cầu của các bên tham gia giao dịch.
Xuất phát từ những lý do nêu trên tác giả đã chọn đề tài: “ Những vấn
đề pháp lý về Hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam” làm đề tài Luận
văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật của mình, nhằm góp phần vào quá trình hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực này, thúc đẩy sự phát triển hoạt động CTTC ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, tìm
hiểu dưới các góc độ khác nhau như góc độ tài chính; ngân hàng; luật học đối
với hoạt động CTTC ở Việt Nam như:
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính
theo hình thức hợp đồng bán và thuê lại” của tác giả Ngô Thanh Hương, Khoa
Luật ĐHQG HN, bảo vệ năm 2014;
2


- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về công ty cho thuê tài chính

trực thuộc của tổ chức tín dụng” của tác giả Đinh Tiểu Khuê, Khoa Luật
ĐHQG HN, bảo vệ năm 2005;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Cơ sở pháp lý cho hoạt động thuê mua ở
Việt Nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện” của tác giả Doãn Hồng Nhung,
Khoa Luật ĐHQG Hà Nội, bảo vệ năm 1998;
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng thuê
mua ở Việt Nam”, của tác giả Doãn Hồng Nhung, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội,
bảo vệ năm 2006;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động
thuê mua tài chính ở Việt Nam” của tác giả Lê Hoàng Oanh, Khoa Luật
ĐHQG Hà Nội, bảo vệ năm 1998;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Một số vấn đề pháp lý về Hợp đồng cho
thuê tài chính ở Việt Nam”, của tác giả Lê Thị Thảo, Khoa Luật ĐHQG Hà
Nội, bảo vệ năm 2002; cùng một số bài viết: “Thu hồi, xử lý tài sản cho thuê
tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê lại- Từ quy định đến thực
tiễn”, của tác giả Ngô Thanh Hương, Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, Tập
32, số 3 năm 2016; “Hoàn thiện pháp luật về bán và thuê lại theo hình thức cho
thuê tài chính”, tác giả Ngô Thanh Hương, Dân chủ pháp luật, Số 4(301) năm
2017; “Về quy định đăng ký tài sản cho thuê tài chính” của tác giả Hoàng
Ngọc Tiến, Tạp chí Ngân hàng số 6 năm 2004; “Cho thuê tài chính ở Việt Nam
tại sao chưa phát triển” của tác giả Hoàng Quý Vương và Phạm Tuấn Long,
Tạp chí Ngân hàng số 9 năm 1999... Tuy nhiên, các công trình và bài viết nói
trên chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn
các quy định của pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính

3


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc về Hợp đồng CTTC từ

đó tiếp tục hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng CTTC là một yêu cầu cấp thiết
và thời sự góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động CTTC, “khơi
thông” kênh dẫn vốn đầy hiệu quả này. Mục đích của luận văn là làm rõ những
vấn đề lý luận về cho thuê tài chính, tìm hiểu thực trạng pháp luật về Hợp đồng
CTTC ở Việt Nam, qua đó đề ra những định hướng hoàn thiện pháp luật về
Hợp đồng CTTC, góp phần hoàn thiện khung pháp luật về hoạt động CTTC ở
Việt Nam.
Để thực hiện mục đích này, luận văn có nhiệm vụ: Nghiên cứu một cách
có hệ thống những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về Hợp đồng
CTTC; quy định của pháp luật của một số quốc gia có hoạt động CTTC phát
triển. Đồng thời, nghiên cứu các quy định về Hợp đồng nói chung, Hợp đồng
tín dụng và các quy định liên quan đến Hợp đồng CTTC để từ đó đưa ra các
định hướng và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về Hợp
đồng CTTC ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về
Hợp đồng CTTC. Đây là các quy định điều chỉnh những vấn đề liên quan đến
Hợp đồng CTTC như chủ thể, đối tượng của Hợp đồng CTTC; quyền - nghĩa
vụ của các chủ thể Hợp đồng CTTC; nội dung của Hợp đồng CTTC và các quy
định giải quyết những vấn đề phát sinh từ Hợp đồng CTTC.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu những vấn đề kinh tế, tài chính, ngân
hàng của hoạt động cho thuê tài chính mà tập trung nghiên cứu, tìm hiểu các
quy định của pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan đến việc ký kết, thực
hiện Hợp đồng CTTC theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà

nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động tiền
tệ - ngân hàng. Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được
sử dụng làm cơ sở để nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng kết hợp những phương pháp trên với
nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp tổng hợp và phân
tích, phương pháp luật học so sánh, phương pháp quy nạp và diễn giải,... để
giải quyết một số nhiệm vụ đặt ra trong quá trình nghiên cứu, để giải thích,
đánh giá và kết luận về một số vấn đề cụ thể của pháp luật về Hợp đồng
CTTC.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Đây là một trong số ít luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu chuyên sâu
về những vấn đề pháp lý về Hợp đồng CTTC.
- Luận văn đưa ra đánh giá khoa học về thực trạng pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực này, trên cơ sở so sánh với pháp luật các nước và trên cơ sở điều
kiện tình hình kinh tế - xã hội hiện nay và đề xuất phương hướng và kiến nghị
cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng CTTC ở Việt Nam.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
bao gồm 3 chương, với kết cấu như sau:
- Chương 1: Tổng quan về Hợp đồng Cho thuê tài chính.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về Hợp đồng Cho thuê tài chính
ở Việt Nam.
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng Cho thuê tài chính ở
Việt Nam.
5


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1. Quan niệm Cho thuê tài chính

Ngày nay, thuật ngữ cho thuê tài chính (CTTC) đã trở nên quen thuộc
trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, cho tới nay không phải quốc gia nào
cũng có một khái niệm chuẩn về CTTC. Theo công bố của Công ty tài chính
Quốc tế (IFC), chỉ có 19/37 quốc gia được điều tra thăm dò có định nghĩa về
CTTC. Đồng thời, mỗi quốc gia cũng có những quy định riêng về CTTC tùy
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của mình.
Từ khi ra đời cho đến nay, thuật ngữ “Leasing” được hầu hết các quốc
gia trên thế giới sử dụng nhằm chỉ hoạt động cho thuê tài sản được các định
chế tài chính (trong đó nhất thiết phải có Công ty CTTC) mua theo yêu cầu của
Bên thuê. Hết thời hạn, Bên thuê được phép chuyển quyền sở hữu, mua lại
hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong Hợp đồng
CTTC.
Ở Việt Nam, các văn bản pháp luật như Luật các Tổ chức tín dụng có
hiệu lực ngày 01/10/1998 và hiện nay là Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010
(sửa đổi năm 2017). Nghị định số 64/1995/NĐ-CP ngày 01/10/1995 ban hành
“Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC Việt Nam” sử
dụng thuật ngữ “Cho thuê tài chính” đối với hoạt động nêu trên. Và hiện nay là
Nghị định số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/5/2014 quy định về “Hoạt động của
công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính” vẫn sử dụng thuật ngữ “Cho
thuê tài chính”. Bên cạnh thuật ngữ “Cho thuê tài chính”, hiện nay còn tồn tại
nhiều thuật ngữ khác như “Tín dụng thuê mua”, “Thuê mua tài chính”,... Thuật
ngữ “Tín dụng thuê mua” nhìn dưới góc độ tín dụng là một phương thức tài trợ
vốn, cấp vốn được thực hiện dưới hình thức tài sản đem cho thuê. Còn “Cho
thuê tài chính”, theo quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện nay thì thuật ngữ
này chưa thể hiện đầy đủ nội dung của khái niệm “Leasing”, vì CTTC thì thiên
6


về việc đem tài sản của mình để “cho người khác thuê” hơn là việc “thuê để
mua”. Trong hoạt động CTTC, ngoài yếu tố thuê tài sản, thì việc thỏa thuận

chuyển quyền sở hữu, mua lại tài sản khi kết thúc hợp đồng thường được các
bên đặt ra. Do vậy, nếu dùng thuật ngữ “Thuê mua tài chính” sẽ thể hiện đầy
đủ bản chất của hoạt động “leasing”. Tuy nhiên, trong bản luận văn này, tác
giả xin phép vẫn dùng cụm từ “Cho thuê tài chính” cho thống nhất với câu chữ
trong các văn bản pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực này.
Để có khái niệm tương đối đầy đủ về CTTC, chúng ta cần xem xét các
định nghĩa về CTTC.
Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (International Accounting Standards
Committee - IASC) đưa ra định nghĩa về CTTC như sau:
“Thuê mua tài chính (Finacial Lease) là một giao dịch trong đó một bên
(Người cho thuê) chuyển giao quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình
cho bên kia (Người đi thuê) trong một thời gian nhất định, mà trong thời gian
đó, Người cho thuê dự định thu hồi vốn tài trợ cùng các chi phí có liên quan;
quyền sở hữu tài sản có thể được chuyển giao hay không tùy theo sự thỏa
thuận giữa hai bên”.1[36]
Theo Từ điển quản lý tài chính ngân hàng, Thuật ngữ thuê mua được
định nghĩa như sau: “Thuê mua là một hợp đồng cho thuê kèm theo lời hứa
đơn phương bán cho Người thuê theo một giá nhất định, có tính đến số tiền
thuê đã trả”.2[28, tr.144]
Theo Điều 1, Công ước Unidroit về cho thuê tài chính quốc tế được ký
tại Ottawa ngày 20/5/1998, hoạt động cho thuê tài chính được xác định là giao
dịch, trong đó một bên (Bên cho thuê):

1
Ủy ban tiêu chuẩn kế toán Quốc tế (1992), Biên bản ghi nhớ về kế toán Hợp đồng thuê mua - Thực hiện IAS
17 tại các nước Châu Âu.
2
Từ điển Quản lý Tài chính - Ngân hàng, tr.144.

7



(a) Căn cứ vào yêu cầu được nêu cụ thể của bên kia (Bên thuê) thống
nhất một thỏa thuận (thỏa thuận cung cấp) với một bên thứ ba (nhà cung cấp).
Theo đó, Bên cho thuê mua nhà máy, hàng hoá, tư liệu sản xuất hoặc các thiết
bị khác (gọi chung là thiết bị) theo các điều kiện đã được (Bên đi thuê) chấp
thuận;
(b) Cùng thống nhất một thỏa thuận (thỏa ước cho thuê) với Bên đi thuê
cho phép Bên đi thuê quyền sử dụng thiết bị để đổi lại bằng việc thanh toán
tiền thuê”.1[31, tr.1].
Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ ghi nhận: “Cho thuê tài chính”
là loại cho thuê trong đó:
- Người cho thuê không chọn sản xuất hoặc cung ứng hàng;
- Người cho thuê thu nhận hàng hoặc quyền sở hữu và sử dụng hàng liên
quan đến việc cho thuê;
- Hoặc Người cho thuê nhận một bản sao hợp đồng chứng thực đã mua
hàng vào thời điểm hoặc trước khi ký hợp đồng, hoặc việc phê chuẩn hợp đồng
của Người cho thuê chứng thực việc họ mua hàng đó là một trong những điều
kiện xét tính hiệu lực của hợp đồng cho thuê.
Còn theo Hiệp hội các công ty tài chính Thụy Điển thì “Cho thuê tài
chính” có nghĩa là:
- Người cho thuê mua thiết bị do Người thuê yêu cầu;
- Các thiết bị thuộc quyền sở hữu của Người cho thuê và quyền sử dụng
được trao cho Người thuê trong suốt thời hạn thuê, thường tương đương với
tuổi thọ kỹ thuật của thiết bị.
- Hợp đồng cho thuê không thể bị phá vỡ trước thời hạn;
- Số tiền thanh toán cho thuê sẽ bù đắp chi phí lãi, chi phí quản lý, rủi ro
và lãi cho phép khấu hao toàn bộ hoặc gần như toàn bộ giá mua thiết bị đó;
1


Công ước Unidroit về cho thuê tài chính quốc tế (Ottawa, 28 tháng 5 năm 1988), tr.1.

8


- Tại thời điểm kết thúc hợp đồng, Người thuê có quyền gia hạn hợp
đồng với phí suất được ấn định tại thời điểm ký hợp đồng;
- Nếu Người thuê quyết định không gia hạn thuê, thì quyền sử dụng thiết
bị sẽ chấm dứt và thiết bị được bàn giao lại cho Người cho thuê.
Ở Việt Nam, hoạt động “Thuê mua tài chính” thường được gọi là “Cho
thuê tài chính” và được diễn đạt: “là hoạt động cấp tín dụng trung và dài hạn
trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa Bên cho thuê tài chính với Bên
thuê tài chính. Bên cho thuê tài chính cam kết mua tài sản cho thuê tài chính
theo yêu cầu của Bên thuê tài chính và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản
cho thuê tài chính trong suốt thời hạn cho thuê. Bên thuê tài chính sử dụng tài
sản thuê tài chính và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê quy định
trong hợp đồng cho thuê tài chính”.1[43]
Căn cứ vào các định nghĩa trên ta thấy dù có những cách diễn đạt khác
nhau, nhưng bản chất chung của cho thuê tài chính (hay thuê mua tài chính):
Là một dạng hoạt động tín dụng ngân hàng thông qua việc tài trợ thiết bị của
Bên cho thuê đối với Bên thuê. Đối tượng của hoạt động tín dụng này là tài sản
và tài sản đó thường có thời gian sử dụng lâu dài, không dễ bị lạc hậu, thời hạn
thuê thường chiếm phần lớn thời gian sử dụng của tài sản nên nó được xem là
tín dụng trung, dài hạn mà mục đích của Người cho thuê là thu hồi vốn và lãi
trên vốn đầu tư (tiền mua thiết bị) còn mục đích của Người đi thuê là sử dụng
vốn (thiết bị) có thời hạn và hoàn trả cho Người cho thuê theo định kỳ dưới
dạng tiền thuê. Tiền thuê được tính toán trên cơ sở đảm bảo cho Người cho
thuê việc hoàn vốn và lợi nhuận đối với số tiền đầu tư ban đầu.

1


Khoản 7, Điều 3, Nghị định 39/2014/NĐ-CP ngày 07/5/2014.

9


1.2. Khái niệm Hợp đồng cho thuê tài chính
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, Hợp đồng được định nghĩa: “Hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự”.1[38]
Từ quan niệm đó về Hợp đồng, dựa trên những đặc điểm riêng có của
hoạt động Cho thuê tài chính mà Hợp đồng cho thuê tài chính có thể được định
nghĩa dưới các dạng thức như sau:
Hợp đồng CTTC là “Hợp đồng cho thuê được ký kết giữa Bên cho thuê
với Bên đi thuê, cho phép Bên đi thuê có quyền sử dụng các thiết bị và nhận
thanh toán các khoản tiền thuê”.2[36]
“Hợp đồng thuê mua tài chính là hợp đồng, trong đó quy định Người đi
thuê sẽ có quyền sử dụng tài sản và trả chi phí cho Người cho thuê, Người đi
thuê sẽ chịu mọi rủi ro phát sinh từ tài sản”.3[35]
“Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang, được ký
giữa Bên cho thuê và Bên thuê về việc cho thuê tài chính đối với một hoặc một
số tài sản cho thuê”.4[43]
Như vậy, Hợp đồng CTTC dù được thể hiện một cách đa dạng trong
pháp luật của nhiều quốc gia và pháp luật quốc tế, nhưng đều được hiểu một
cách thống nhất là phương thức thực hiện giao dịch cho thuê tài chính, là hình
thức pháp lý của quan hệ cho thuê tài chính.
Để đảm bảo giá trị pháp lý của Hợp đồng CTTC, pháp luật các nước
thường quy định về các nội dung cơ bản mà hợp đồng này cần có:
- Các bên trong quan hệ CTTC: Quan hệ CTTC được thiết lập giữa các
chủ thể tham gia bao gồm Bên cho thuê và Bên thuê. Phổ biến ở các quốc gia

1

Điều 385, Bộ Luật Dân Sự 2015.

Ủy ban tiêu chuẩn kế toán Quốc tế (1992), Biên bản ghi nhớ về kế toán Hợp đồng thuê mua - Thực hiện IAS
17 tại các nước Châu Âu.
3
Temporary Law No.(16) for the year 2002 The Financial Leasing Law of Malaysia.
4
Khoản 12, Điều 3, Nghị định 39/2014/NĐ-CP ngày 07/5/2014.
2

10


Bên cho thuê là các công ty CTTC, còn Bên thuê là các tổ chức, cá nhân có
nhu cầu thuê tài sản phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Ở
Việt Nam, chỉ có các công ty tài chính (có đủ điều kiện), công ty CTTC được
thực hiện hoạt động CTTC. Vì thế, Bên cho thuê bao giờ cũng là các công ty
CTTC, Bên thuê là các tổ chức, cá nhân hoạt động tại Việt Nam trực tiếp sử
dụng tài sản thuê phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Đối tượng của Hợp đồng CTTC: Là tài sản. Tài sản trong CTTC
thường có giá trị lớn và có thời gian sử dụng lâu dài. Các tài sản này có thể là
bất động sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác.
Theo pháp luật Việt Nam, tài sản cho thuê tài chính là máy móc, thiết bị hoặc
tài sản khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước
hướng dẫn cụ thể các loại tài sản cho thuê trong từng thời kỳ.1[43]
- Thời hạn của Hợp đồng CTTC: Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế đưa
ra 4 dấu hiệu nhận biết một giao dịch CTTC, đó là: Thời gian của Hợp đồng
CTTC chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản (“Thời gian hữu dụng là

(a) Thời kỳ mà một tài sản khấu hao, theo dự kiến sẽ được sử dụng một cách
hữu hiệu; hay (b) Một số nhất định các sản phẩm hay các đơn vị sản phẩm
tương tự dự kiến sẽ thu được từ tài sản đó”)2 [37, tr.15]. Thời gian đó được xác
định khác nhau trong pháp luật của các quốc gia: Là 60% thời gian hữu dụng
của tài sản (Luật Thuê mua tài chính nước Cộng hòa Macedonia); là 75% thời
gian hữu dụng của tài sản (Luật tạm thời số 16 năm 2002 - Luật Thuê mua tài
chính của Malaysia); 60% thời gian hữu dụng đối với tài sản có tuổi thọ kinh tế
trên 5 năm và 70% đối với tài sản cho tuổi thọ kinh tế dưới 5 năm (Luật Thuê
mua Hàn Quốc). Thông thường, luật pháp các nước quy định thời hạn của Hợp
đồng CTTC khá dài, từ 3 - 7 năm, thậm chí dài hơn đối với những Hợp đồng

1

Khoản 8, Điều 3, Nghị định 39/2014/NĐ-CP.
Ủy ban tiêu chuẩn kế toán Quốc tế (1992), Biên bản ghi nhớ về kế toán Hợp đồng thuê mua - Thực hiện IAS
17 tại các nước Châu Âu.
2

11


cho thuê bất động sản như nhà xưởng, văn phòng và tất nhiên là không hủy
ngang.
- Lãi suất thuê tài chính: Được xác định trên cơ sở các căn cứ: lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước ban hành; lãi suất huy động bình quân của CTTC;
thực tế lãi suất cho vay của các TCTC. Lãi suất cho thuê tài chính thường
tương đương hoặc lớn hơn giá trị của tài sản cho thuê tại thời điểm ký kết hợp
đồng để đảm bảo thu hồi vốn và có lợi nhuận của Bên cho thuê.
- Hình thức của Hợp đồng CTTC: Thể hiện văn bản ghi nhận sự cam kết
của các bên giao kết hợp đồng. Hợp đồng CTTC là hình thức pháp lý của giao

dịch CTTC, vì về mặt nội dung hợp đồng chứa đựng các điều khoản như: Điều
khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi nhằm xác định
quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch và thường là các nội dung về:
Tài sản cho thuê; sử dụng tài sản thuê; thời điểm có hiệu lực của hợp đồng;
thời hạn của hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên; lãi suất (phí thuê tài
sản); các trường hợp chấm dứt hợp đồng trước hạn, giải quyết tranh chấp, xử
lý tài sản,... Pháp luật các quốc gia nói chung cũng như của Việt Nam nói riêng
đều quy định Hợp đồng CTTC phải được thể hiện bằng văn bản.
1.3. Đặc trưng cơ bản của Hợp đồng Cho thuê tài chính
Hợp đồng CTTC là một loại giao dịch không hủy ngang và vào cuối thời
hạn thuê, Bên thuê có quyền lựa chọn tiếp tục thuê hoặc mua tài sản đó.
Đi sâu tìm hiểu các đặc trưng của Hợp đồng CTTC giúp chúng ta phân
biệt các giao dịch CTTC với giao dịch tương tự khác. Việc nghiên cứu làm rõ
những đặc trưng này sẽ giúp các nhà làm luật xây dựng được cơ chế pháp lý rõ
ràng, minh bạch, phù hợp cho từng loại hợp đồng, từng loại giao dịch. Để làm
rõ hơn những đặc trưng cơ bản của Hợp đồng CTTC, chúng ta phải nghiên cứu
các dấu hiệu xác định một giao dịch là giao dịch CTTC.
Hiện vẫn chưa có sự thống nhất giữa các quốc gia cũng như các tổ chức
quốc tế về việc xác định “chuẩn” các dấu hiệu của một giao dịch CTTC. Tuy
12


nhiên có thể liệt kê một số đặc điểm mà các nước và các tổ chức quốc tế đưa ra
để nhận dạng Hợp đồng CTTC.
* Theo Ủy ban Tiêu chuẩn kế toán quốc tế - IASC, nghiệp vụ nào thỏa
mãn một trong bốn điều kiện sau thì được xem là CTTC:
- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho Người thuê khi chấm dứt
thời hạn hợp đồng;
- Hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản khi hết hạn hợp đồng.
- Thời hạn của hợp đồng thuê chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài

sản.
- Hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê do Người thuê trả tối
thiểu bằng hoặc lớn hơn giá trị của tài sản thuê tại thời điểm bắt đầu hợp đồng
thuê.
Hiện nay, phần lớn các nước đưa ra các tiêu chuẩn dựa trên các tiêu
chuẩn mà IASC đã quy định để xác định một giao dịch được gọi là thuê tài
chính. Những giao dịch thuê tài sản thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn này
đều thuộc về phương thức thuê tài chính, những giao dịch còn lại thuộc về cho
thuê vận hành.
Theo Công ước Unidroit về Tín dụng Thuê mua Quốc tế, thì giao dịch
thuê mua gồm những tiêu chuẩn sau:
- Người thuê chỉ rõ thiết bị và lựa chọn nhà cung cấp không phụ thuộc
vào những kỹ năng và ý kiến của Người cho thuê, trong tình trạng mà Người
thuê đã biết rõ về nhà cung cấp;
- Những khoản tiền thuê phải trả theo thỏa thuận của thuê mua phải
được tính theo phương thức trả dần hay trả ngay một phần đáng kể chi phí mua
thiết bị.
Theo tiêu chuẩn của Hội đồng tiêu chuẩn Kế toán tài chính Hoa Kỳ FASB, thì giao dịch thuê mua phải thỏa mãn những điều kiện sau:
13


- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho Người đi thuê khi chấm
dứt hợp đồng thuê.
- Hợp đồng thuê cho phép Người đi thuê được quyền chọn mua tài sản
thuê với giá thấp hơn ở một thời điểm nào đó hay đến khi chấm dứt thời hạn
thuê.
- Thời hạn thuê phải bằng hoặc lớn hơn 75% thời hạn hoạt động ước
tính của giá trị tài sản thuê.
- Giá trị hiện tại của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% so
với giá trị tài sản thuê.

- Trong pháp luật của các quốc gia, tiêu chuẩn được đưa ra linh hoạt tùy
theo tình hình mỗi nước, nhưng cũng dựa trên những tiêu chuẩn chung nói
trên. Ví dụ: thời gian thuê tối thiểu là 2 hoặc 3 năm hay 70% thời gian hữu ích
của tài sản;...Thông thường, các dấu hiệu nhận biết một giao dịch cho thuê tài
chính bao gồm các dấu hiệu sau:
(1) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, Bên thuê được chuyển
sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.
(2) Khi kết thúc thời hạn thuê, Bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài
sản thuê với giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời
điểm mua lại.
(3) Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian
cần thiết để khấu hao tài sản thuê.
(4) Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê ít nhất
phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
Như vậy, Hợp đồng CTTC có sự kết hợp các đặc điểm của Hợp đồng
thuê tài sản với những đặc điểm của Hợp đồng mua bán và Hợp đồng tín dụng.
Kết hợp với những dấu hiệu về chủ thể của Hợp đồng CTTC (đã được phân
14


tích ở trên), chúng ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của Hợp đồng
CTTC như sau:
- Thứ nhất, chủ thể giao kết Hợp đồng CTTC một bên bao giờ cũng là
các công ty CTTC (pháp luật Việt Nam ghi nhận đó là các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng) và bên kia là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu thuê tài sản.
- Thứ hai, Hợp đồng CTTC có thời hạn chiếm phần lớn thời gian sử
dụng hữu ích của tài sản và là loại hợp đồng không được phép hủy ngang bởi
các bên tham gia hợp đồng.
- Thứ ba, trong Hợp đồng CTTC, Bên cho thuê luôn nắm giữ quyền sở
hữu pháp lý đối với tài sản thuê và có quyền thu hồi tài sản cho thuê khi Bên

thuê vi phạm hợp đồng, Bên thuê có quyền sử dụng và khai thác tài sản cho
các mục đích thỏa thuận trong hợp đồng. Mọi rủi ro đối với tài sản trong suốt
thời gian của hợp đồng được chuyển giao cho Bên thuê, bù lại Bên thuê được
hưởng những lợi ích kinh tế do tài sản mang lại.
- Thứ tư, hiện giá các khoản thuê phải lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của
tài sản thuê nhằm đảm bảo cho Bên cho thuê bù đắp được chi phí mua tài sản
ban đầu và có lãi.
- Thứ năm, hết thời hạn hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về việc: (1)
Bên thuê được chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản vào lúc kết thúc Hợp
đồng CTTC; (2) Bên thuê mua lại tài sản thuê (quyền chọn mua) vào cuối thời
điểm của hợp đồng sau khi đã trả một khoản tiền theo nguyên tắc giá bán được
tính toán trên cơ sở hiện giá. Thường đó chỉ là một khoản tiền tượng trưng.
* Phân biệt CTTC với thuê vận hành:
Giao dịch CTTC và cho thuê vận hành tương có những điểm tương đối
giống nhau về hình thức, song khác nhau về mặt kinh tế nghiệp vụ. Từ những
đặc trưng cơ bản nêu trên của Hợp đồng CTTC, chúng ta có thể phân biệt giao
dịch CTTC với thuê vận hành, thể hiện bằng bảng biểu dưới đây.
15


Tiêu chí

CTTC
Thường dài hơn một

1. Thời hạn thuê

nửa cho đến bằng đời
sống hữu ích của tài sản


2. Quyền hủy ngang
hợp đồng

Cho thuê vận hành
Rất ngắn so với đời
sống hữu ích của tài sản

Không được quyền hủy

Được quyền hủy ngang

ngang hợp đồng

hợp đồng

Thông thường mức thu
hồi vốn gốc được thu
3. Mức thu hồi vốn của

hồi gần bằng với giá trị

một hợp đồng

tài sản (tổng số tiền tài

Mức vốn được thu hồi
nhỏ hơn rất nhiều so với
giá trị tài sản

trợ), đặc biệt đối với cho

thuê động sản
4. Trách nhiệm bảo
dưỡng, bảo hiểm và
đóng thuế tài sản

5. Cung ứng tài sản thuê

Người thuê chịu mọi chi

Người cho thuê chịu

phí vận hành, bảo

mọi chi phí bảo dưỡng,

dưỡng, phí bảo hiểm và

đóng bảo hiểm và

đóng thuế tài sản

thuế tài sản

Tài sản cho thuê thường

Tài sản thuê thường do

do Người thuê đặt hàng,

Người cho thuê cung


nhận và sử dụng

cấp

Trong hợp đồng có quy
6. Chuyển quyền sở hữu
hoặc bán tài sản

định chuyển quyền sở
hữu tài sản hoặc bán lại
tài sản sau khi kết thúc

Trong hợp đồng không
có thỏa thuận chuyển
quyền sở hữu hoặc bán
lại tài sản

hợp đồng
7. Rủi ro

Người thuê chịu mọi rủi

Người cho thuê chịu

ro thiệt hại

mọi rủi ro thiệt hại

Ngoài ra, Ủy ban Tiêu chuẩn kế toán quốc tế - IASC còn đưa ra bốn tiêu

chi để xác định một giao dịch là CTTC hay thuê vận hành:
16


- Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao từ Người cho thuê
sang Người thuê khi kết thúc hợp đồng? Nếu có thì đó là giao dịch CTTC, nếu
không thì là thuê vận hành.
- Trong hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc
hợp đồng với giá danh nghĩa không? Nếu có đó là giao dịch CTTC, nếu không
là thuê vận hành.
- Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng
của tài sản không? Nếu có thì giao dịch CTTC, nếu không thì là thuê vận
hành.
- Hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê tối thiểu do Người thuê
trả tương đương hoặc lớn hơn giá trị của tài sản tại thời điểm bắt đầu ký kết
hợp đồng không? Nếu có là CTTC, nếu không thì là thuê vận hành.1 [37]
Bất cứ một giao dịch thuê tài sản nào thỏa mãn một trong bốn tiêu chí
trên thì được IASC coi là giao dịch CTTC.
* So sánh Hợp đồng CTTC với Hợp đồng tín dụng trong hoạt động
cho vay thuộc tổ chức tín dụng
Hợp đồng CTTC như đã nói ở trên, thực chất là một loại Hợp đồng tín
dụng trung và dài hạn nhưng Hợp đồng này có những đặc trưng so với các Hợp
đồng tín dụng khác trong hoạt động cho vay của ngân hàng, thể hiện ở chỗ:
- Trong giao dịch CTTC, Bên cho thuê tài trợ cho doanh nghiệp bằng
các tài sản như máy móc, phương tiện, thiết bị,... gọi chung là các động sản.
Còn trong cho vay ngân hàng, ngân hàng sẽ tài trợ cho doanh nghiệp trực tiếp
bằng tiền và doanh nghiệp sẽ sử dụng số tiền đó để mua máy móc, thiết bị
phục vụ hoạt động sản xuất của mình. Như vậy, so với tín dụng ngân hàng,

1


Ủy ban tiêu chuẩn kế toán Quốc tế (1992), Biên bản ghi nhớ về kế toán Hợp đồng thuê mua - Thực hiện IAS
17 tại các nước Châu Âu.

17


CTTC đảm bảo cho bên tài trợ là khoản tiền bỏ ra đã được sử dụng đúng mục
đích.
- Trong hoạt động CTTC thường có quan hệ nhiều bên: Bên đi thuê, Bên
cho thuê, nhà cung cấp, nhà bảo hiểm. Ngược lại, trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thì thường chỉ có quan hệ song phương giữa Người đi vay và Người
cho vay (trừ một số trường hợp).
- Phí cho thuê đối với hoạt động CTTC thường cao hơn so với lãi suất
cho vay trung và dài hạn của ngân hàng do phí cho thuê được tính trên cơ sở
lãi suất cho vay trung và dài hạn cộng với chi phí phát sinh đối với tài sản và
chi phí quản lý của công ty CTTC.
Hoạt động CTTC (cho vay bằng hiện vật) thường gắn liền với quyền sở
hữu về tài sản. Trong đó, Bên cho thuê nắm giữ giấy tờ chứng minh quyền sở
hữu và là người sở hữu tài sản. Khi doanh nghiệp đi thuê (vay) bị phá sản thì
Bên cho thuê tài sản được bảo đảm quyền thu hồi tài sản thuê. Trong khi đó
cho vay ngân hàng (cho vay bằng tiền) thì chỉ thông qua Hợp đồng tín dụng để
nhận biết được là Bên đi vay đã vay với số tiền là bao nhiêu. Do đó, về lý
thuyết, tín dụng thông qua hoạt động cho thuê tài chính có mức độ an toàn cao
hơn tín dụng bằng tiền, đồng thời với thủ tục tương đối đơn giản, nó giúp cho
các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với nguồn vốn
trung và dài hạn.
Trong hoạt động CTTC, tỷ lệ tài trợ thường cao hơn so với các hoạt
động cho vay và đầu tư thông thường. Xuất phát từ vấn đề sở hữu tài sản trong
suốt thời gian thuê, Bên cho thuê có thể yên tâm rằng: Khoản cho thuê của

mình là hoàn toàn đúng mục đích, và được bảo đảm bằng chính tài sản cho
thuê. Do vậy, Bên cho thuê có thể yên tâm nâng tỷ lệ tài trợ (nhiều khi lên đến
100% giá trị tài sản cho thuê).
* Điểm khác nhau chủ yếu giữa CTTC và một khoản vay ngân hàng để
đầu tư cho trang thiết bị được chỉ rõ dưới đây:
18


TT
1

2

Tiêu chí

Cho thuê tài chính

Vay vốn ngân hàng

Người cho thuê

Người vay

Người thuê

Người vay

Cách thức xử lý

Thu hồi, phát mại thiết bị;


Kiện tụng và thu hồi

khi không trả

kiện đòi trả tài sản và bồi

nợ, phát mại tài sản

được nợ

thường

bảo đảm

Quyền sở hữu tài
sản
Quyền sở hữu sau
thời hạn cho thuê

3

4

Thời hạn tài trợ

Trung và dài hạn (dựa trên thời Ngắn hạn, trung hạn
gian hữu dụng của tài sản)
- 100% tiền cho thuê được


5

Thuế

tính là chi phí.
- Thuế GTGT đối với tiền

và dài hạn
Khấu hao thiết bị và
lãi khoản vay được

cho thuê

tính là chi phí

1.4. Các loại Hợp đồng Cho thuê tài chính cơ bản
Hợp đồng CTTC được ký kết giữa các Bên cho thuê và Bên thuê về việc
cho thuê một số máy móc - thiết bị và động sản khác trong một thời gian nhất
định theo những điều kiện nhất định. Trên thực tế, hoạt động CTTC diễn ra rất
đa dạng, trong đó các chủ thể tham gia được tự do thể hiện ý chí sao cho phù
hợp nhất với điều kiện thực tế của mình. Do vậy, cùng với sự phát triển của
hoạt động CTTC, trên thế giới ngày nay xuất hiện các loại Hợp đồng CTTC rất
đa dạng.
Dưới đây là một số dạng phổ biến nhất.
1.4.1. Hợp đồng cho thuê tài trợ trực tiếp (direct lease)
Hợp đồng cho thuê tài trợ trực tiếp là loại hợp đồng có sự tham gia của 2
bên, trong đó Bên cho thuê dùng tài sản có của mình trực tiếp tài trợ cho Bên
19



×