Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.26 KB, 62 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế hoá tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc đã mang lại cho nền kinh tế nớc ta
những bớc chuyển biến mạnh mẽ và đạt đợc những thành tựu to lớn trong
những năm qua. Kinh tế tăng trởng khá, lạm pháp đợc đẩy lùi, đời sống kinh
tế của đông đảo quần chúng nhân dân đợc cải thiện.
Tuy nhiên để duy trì đợc nhịp độ phát triển đó tránh nguy cơ tụt hậu, tiếp
tục sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập nền kinh tế khu vực và
thế giới, đòi hỏi phải có một khối lợng vốn lớn, các doanh nghiệp phải tạo ra
những sản phẩm chất lợng cao, mẫu mã đủ sức cạnh tranh trên thị trờng. Để
đạt đợc điều đó, vấn đề đặt ra là:
"Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực
hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nớc
tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với những ngành
mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp không gây ô nhiễm và
khai thác đợc lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, cải
tiến từng bộ phận tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam. Hiện đại
hoá công nghệ trong quản lý". Đây là những yêu cầu để thực hiện "Chiến lợc
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI - Chiến lợc đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hớng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng
để đến năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành nớc công nghiệp" mà báo cáo chính
trị của Ban chấp hành Trung ơng Đảng Khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra.
Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê
tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng cha phù hợp với
tình hình mới, đôi khi giữa các văn bản này còn nhiều điểm chồng chéo, mâu
thuẫn. Bên cạnh đó, hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho
thuê tài chính nói riêng là những vấn đề cha đợc quan tâm nghiên cứu và xem
xét một cách toàn diện. Do đó, việc nghiên cứu để từng bớc hoàn thiện lĩnh
vực này là việc làm quan trọng và cần thiết.


Xuất phát từ nhận thức trên, em mạnh dạn chọn đề tài:" Một số vấn đề
pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam" làm đề tài Khoá luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài
chính, cũng nh thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam trong thời
gian qua, Khoá luận sẽ rút ra những kết luận và kiến nghị nhằm góp phần
1
hoàn thiện pháp luật về cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài
chính nói riêng.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
Khoá luận chỉ tập trung làm rõ một số khía cạnh pháp lý liên quan đến
hợp đồng cho thuê tài chính, đồng thời nêu ra thực trạng pháp luật về hợp
đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra các đề xuất, kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam.
4. Phơng pháp nghiên cứu.
Khoá luận đợc hoàn thành dựa trên, phơng pháp luận của Triết học Mác -
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh về Nhà nớc và pháp luật. Ngoài ra, Khoá luận chủ
yếu vận dụng phơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để giải quyết các vấn
đề đặt ra.
5. Kết cấu khoá luận.
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận đợc cấu
trúc bao gồm ba chơng, nh sau:
Chơng I: Khái quát về cho thuê tài chính và hợp đồng cho thuê tài chính.
Chơng II: Các quy định pháp lý cơ bản về Hợp đồng cho thuê tài chính ở
Việt Nam.
Chơng III: Pháp luật về hợp đồng cho thuê Tài chính ở Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện.
Do hạn chế về khuôn khổ khoá luận, thời lợng, nguồn tài liệu cũng nh
khả năng nhận thức của bản thân, chắc chắn khoá luận không tránh khỏi

những thiếu sót. Em rất mong nhận đợc sự góp ý của thầy cô và các bạn.
2
Chơng I: Khái quát về cho thuê tài chính và hợp đồng
cho thuê tài chính
I.1. Khái niệm và đặc điểm cho thuê tài chính.
I.1.1. Khái niệm:
Hoạt động cho thuê tài sản (Lease) đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử
(cách đây khoảng 4.000 năm) và đợc sử dụng phổ biến để đáp ứng nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt. Trong một giao dịch cho thuê, bên cho thuê chuyển
quyền sử dụng tài sản cho bên thuê trong một thời gian nhất định còn bên thuê
phải trả tiền thuê. Ngời ta gọi phơng thức cho thuê này là cho thuê truyền
thống. Trong suốt thời hạn hợp đồng, quyền sở hữu tài sản không chuyển cho
bên thuê nhng bên thuê phải chịu trách nhiệm giữ gìn tài sản đó nh của chính
mình.
Hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện trớc tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1952
do Công ty t nhân United Stales Corporation sáng tạo ra nhằm đáp ứng những
nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Năm 1960, lần đầu tiên
một hợp đồng cho thuê tài chính đợc ký tại Anh với giá 18.000 Bảng. Cũng
năm này, phơng thức cho thuê tài chính đã đợc ghi vào Luật Thơng mại của
Pháp dới tên gọi "Credit Bail"
(1)
.
Giao dịch cho thuê tài chính hình thành giữa ba bên: Bên cho thuê, bên
thuê và nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Bên cho thuê trở thành chủ
sở hữu tài sản và bên thuê thuê lại theo thời hạn thoả thuận. Cho thuê tài chính
đợc sử dụng nh một phơng thức tài trợ vốn trung, dài hạn cho các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hoạt động cho thuê tài chính có thể đợc nhìn nhận trên hai phơng diện
kinh tế và pháp lý, cụ thể là:
- Dới góc độ kinh tế, cho thuê tài chính là hình thức thuê có tính chất

"tiền tệ". Xét về bản chất kinh tế, cho thuê tài chính là phơng thức tài trợ tín
dụng trung hạn hoặc dài hạn dành cho doanh nghiệp. Bởi vì khoản tiền mà bên
cho thuê bỏ ra để mua tài sản cho thuê chính là một khoản tín dụng mà bên
cho thuê cấp cho bên thuê.
- Dới góc độ pháp lý, cho thuê tài chính biểu hiện một loại quan hệ pháp
lý phát sinh từ một hợp đồng cho vay.
Việc ký một hợp đồng cho thuê tài chính tơng tự nh việc đi vay. Ngay khi
bắt đầu thời hạn thuê, bên thuê lập tức có một tài sản bởi họ không phải trả
tiền cho tài sản thuê. Điều này cũng có nghĩa là bên thuê đã vay đợc một
(1)
Trờng Đại học Luật HN, giáo trình luật Ngân hàng, nhà XB Công an Nhân dân, năm 1998
3
khoản tiền đủ để mua tài sản nhng với cam kết sẽ trả khoản vay này hàng kỳ
bao gồm tiền gốc và lãi vay (tiền thuê) cho ngời cho vay. Chính vì vậy, về mặt
lu chuyển các luồng tiền mặt, phơng thức cho thuê và đi vay là giống nhau.
Trong cả hai trờng hợp, bên thuê đều có một khoản tài sản cả dới dạng tiền lúc
ban đầu và phải trả nó về sau.
Sự khác biệt của phơng thức cho thuê tài chính so với phơng thức vay
chính là lý do lý giải sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp
cho thuê tài chính trên thế giới. Ưu điểm của cho thuê tài chính thể hiện ở
những lợi ích hơn hẳn phơng thức vay mà nó dành cho cả bên thuê lẫn bên cho
thuê nh:
- Đối với bên cho thuê: Bên cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu tài sản cho
thuê. Do vậy, trong trờng hợp bên thuê không thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng thuê (nh không trả tiền thuê, cho thuê lại tài sản thuê mà không đợc sự
đồng ý của bên cho thuê), thì bên cho thuê có quyền thu hồi ngay tài sản
cho thuê. Mặt khác, tài sản thuê không thuộc sở hữu của bên thuê, do đó, bên
cho thuê bớt rủi ro trong trờng hợp bên thuê phá sản hoặc vỡ nợ vì tài sản thuê
này không đa vào bảng tài sản thanh lý của bên thuê.
- Đối với bên thuê: Khi tham gia vào giao dịch cho thuê tài chính, bên

thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh của ngời thứ ba
cho việc thuê. Ngoài ra, trong quá trình thuê, bên thuê không phải chịu một số
rằng buộc nh khi áp dụng với hợp đồng vay chẳng hạn nh phải kinh doanh có
lãi, có phơng án khả thi trong việc sử dụng vốn vay
Hiện nay, trong một số bài nghiên cứu có sử dụng thuật ngữ "Thuê mua".
Theo đó, "Thuê mua" đợc hiểu là hình thức thuê mà mọi rủi ro do bên thuê
phải gánh chịu, bên cho thuê vẫn giữ quyền sở hữu, cuối thời hạn thuê, bên
thuê độc quyền sở hữu đối với tài sản thuê.
Ví dụ, "Thuê mua máy bay" là hình thức thuê máy bay mà bên thuê phải
trả trớc đến 15% giá trị máy bay, hàng kỳ trả tiền thuê máy bay (thờng từ 10 -
12 năm đối với máy bay phản lực, 7 - 10 năm đối với máy bay cánh quạt),
cuối thời hạn thuê bên thuê trả nốt tiền và nhận quyền sở hữu đối với máy bay.
Nh vậy, xét về bản chất "Thuê mua" cũng là một hình thức của cho thuê
tài chính. Nếu trong giao dịch cho thuê tài chính, bên thuê có thể đợc mua lại
tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều khoản đã thoả thuận trong hợp
đồng thuê và những thoả thuận này phải đợc các bên ghi vào hợp đồng. Còn
trong giao dịch "thuê mua", việc nhận quyền sở hữu đối với tài sản thuê vào
cuối thời gian thuê là quyền của bên thuê.
4
ở Việt Nam, khái niệm cho thuê tài chính lần đầu tiên đợc đề cập trong
Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ban
hành theo Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ (sau đây gọi là
Nghị định 64). Trong một số văn bản pháp lý trớc đây, còn có thêm thuật ngữ
"Tín dụng thuê mua" (Thí dụ, tại Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nớc số 149/QĐ - NH 5 ngày 27/5/1995 về việc ban hành Thể lệ Tín dụng Thuê
mua (sau đây gọi là Quyết định số 149). "Tín dụng thuê mua" đợc định nghĩa
là: :hoạt động thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản
xuất kinh doanh đợc các tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê".
Bên thuê thanh toán tiền thuê cho tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã
đợc hai bên thoả thuận và không đợc huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên

thuê đợc quyền sở hữu tài sản thuê, hoặc đợc mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục
thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê
mua". Xét về bản chất, tín dụng thuê mua cũng nh cho thuê tài chính.
Luật các Tổ chức Tín dụng đợc Quốc hội Khoá X, Kỳ họp thứ 2 thông
qua ngày 12/12/1997 (sau đây gọi là Luật Các Tổ chức Tín dụng) đã chính
thức quy định về cho thuê tài chính tại Khoản 11 Điều 20 nh sau: "cho thuê tài
chính là hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê
tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc
thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều
kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong thời hạn thuê, các bên không đợc
đơn phơng huỷ hợp đồng".
Nghị định 64 gần đây đã bị thay thế bởi Nghị định 16 của Chính phủ
ngày 2/5/2001 quy định về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài
chính (sau đây gọi là Nghị định 16). Tuy nhiên, trong bài Khoá luận này, ngời
viết vẫn đề cập tới các quy định của Nghị định 64 trên cơ sở so sánh với Nghị
định 16. Điều 1 Nghị định 16 quy định:
"1. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phơng tiện vận chuyển và các động sản khác. Bên
cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê
và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã đợc hai bên thoả
thuận.
2. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê đợc chuyển quyền sở hữu, mua lại
hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng
cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng
5
cho thuê tài chính, ít nhất phải tơng đơng với giá trị của tài sản đó tại thời
điểm ký hợp đồng".
Nh vậy, chúng ta đã thống nhất sử dụng thuật ngữ "cho thuê tài chính"
trong các văn bản pháp luật nh đã nói ở trên.

1.1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm "cho thuê tài chính" nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm
đặc thù của hoạt động cho thuê tài chính là:
Thứ nhất: tài sản thuê và Nhà cung cấp tài sản do bên thuê lựa chọn mà
không phụ thuộc vào những kỹ năng và ý kiến của bên cho thuê. Chính vì đặc
điểm này mà bên cho thuê không chịu trách nhiệm về việc tài sản không đợc
giao hoặc không giao đúng với các điều kiện do bên thuê thoả thuận với bên
cung ứng (Khoản 1 Điều 24 Nghị định 16).
Thứ hai: thời hạn thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn thời gian
hữu dụng của tài sản và không thể bị huỷ ngang theo ý chí của một bên. Đặc
điểm này nêu bật rõ những lợi ích mà cho thuê tài chính mang lại không chỉ
riêng cho các chủ thể tham gia hợp đồng mà cho cả nền kinh tế.
Thứ ba: Phần lớn những chi phí cho việc vận hành, bảo dỡng, bảo hiểm
tài sản đợc chuyển giao từ bên cho thuê sang bên thuê. Theo quy định tại
Khoản 5, 6 Điều 26 Nghị định 16: "Bên thuê chịu mọi rủi ro về việc mất mát,
h hỏng đối với tài sản thuê và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc sử
dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân khác trong quá trình sử
dụng tài sản thuê. Đồng thời, bên thuê phải có nghĩa vụ bảo dỡng, sửa chữa tài
sản thuê trong thời hạn thuê. Không đợc tẩy xoá, làm hỏng ký hiệu sở hữu gắn
trên tài sản thuê".
Chính từ những đặc điểm nêu trên, có thể phân biệt cho thuê tài chính với
phơng thức thuê vận hành.
6
Tiêu chí Cho thuê tài chính Thuê vận hành
Thời hạn thuê Trung và dài hạn, chiếm
phần lớn thời gian hữu
dụng của tài sản thuê
Thời hạn thuê ngắn
Huỷ ngang Không đợc phép huỷ
ngang theo ý chí của 1

bên
Đợc phép huỷ ngang nh-
ng phải thông báo trớc
một thời gian
Trách nhiệm bảo dỡng,
bảo hiểm
Thuộc về bên thuê Thuộc về bên cho thuê
Chuyển quyền sở hữu Hai bên thoả thuận khi
kết thúc hợp đồng
Tài sản trở lại bên cho
thuê
Trách nhiệm về rủi ro Bên thuê phải chịu kể cả
những rủi ro không phải
do lỗi của mình gây ra
Bên cho thuê phải chịu,
trừ trờng hợp do lỗi của
bên thuê gây ra
Việc một giao dịch đợc phân loại là cho thuê tài chính hay không phụ
thuộc vào bản chất của giao dịch chứ không phụ thuộc vào loại hợp đồng. Một
giao dịch đợc coi là cho thuê tài chính nếu nó chuyển giao gần nh tất các rủi
ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu cho bên thuê. Loại thuê này thờng
không thể huỷ bỏ và đảm bảo cho bên cho thuê việc hoàn vốn và lợi nhuận đối
với số tiền đã cho vay để dùng vào việc mua tài sản. Đồng thời, thông thờng
bên thuê sẽ nhận lại thiết bị khi hết hạn hợp đồng thuê sau khi trả một khoản
tiền mang tính chất tợng trng hay đã sử dụng thiết bị trong phần lớn thời gian
hữu dụng. Bởi vậy, bên thuê tuy không phải chủ sở hữu về mặt pháp lý của
thiết bị trong thời hạn thuê, nhng bên thuê thực sự chịu mọi rủi ro và hớng mọi
lợi ích kinh tế của quyền sở hữu. Bên cho thuê tuy là chủ sở hữu của thiết bị
lại ở một vị thế tơng đơng với một nhà đầu t tài chính chứ không phải là một
chủ sở hữu.

1.2. Lợi ích của cho thuê tài chính.
Tham giao vào một giao dịch cho thuê tài chính thờng bao gồm bên cho
thuê, bên thuê và nhà sản xuất hay nhà cung ứng. Lợi ích của cho thuê tài
chính đem lại cho các bên tham gia nói riêng và nền kinh tế nói chung là:
1.2.1. Đối với bên cho thuê:
- Cho thuê tài chính là một phơng thức tài trợ hạn chế tới mức thấp nhất
những rủi ro có thể xảy ra. Vì trong suốt thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản
luôn thuộc về bên cho thuê. Do đó, nếu có những đe doạ đối với sự an toàn
7
của tài sản thuê (chẳng hạn bên thuê lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải
thể), bên cho thuê hoàn toàn có khả năng thu hồi tài sản thuê ngay lập tức.
Mặt khác, trong cho thuê tài chính, vốn tài trợ đợc thể hiện bằng hiện vật (tài
sản thuê) nên không bị ảnh hởng của lạm phát. Bên cho thuê cũng không phải
chịu những rủi ro do sự giảm giá trị của tài sản do tác động của điều kiện
khách quan;
- Bên cho thuê có thể biết chắc rằng vốn mà họ cho vay đợc sử dụng
đúng mục đích nh trong hợp đồng, vì dới hình thức này, bên cho thuê trực tiếp
mua máy móc thiết bị từ nhà cung cấp (thờng là sau khi ngời đi thuê đã lựa
chọn) và do đó ngời đi thuê không có cơ hội sử dụng đợc tài trợ vào mục đích
khác. Qua đó, bên cho thuê đảm bảo đợc khả năng thu hồi nợ từ ngời đi thuê.
- Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê mở rộng diện khách hàng, đa dạng
hoá việc sử dụng vốn, đồng thời mở rộng mối quan hệ kinh doanh đa phơng.
- Cho thuê tài chính giúp ngời cho thuê linh hoạt trong kinh doanh; Trong
thời gian tài trợ, vốn của ngời cho thuê bỏ ra để mua máy móc tài sản cho
thuê, số tiền này sẽ đợc thu hồi dần và cho phép ngời cho thuê có thể sử dụng
vốn đó để tái đầu t vào những hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi nhuận và
giữ vững đợc nhịp độ hoạt động của mình.
- Hồ sơ tài trợ đơn giản nên bên cho thuê có thể quyết định tài trợ nhanh.
Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với t cách là nhà tài
trợ, cung cấp vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không nhất

thiết phải chịu trách nhiệm về các yếu tố mang tính chất kỹ thuật, nghiệp vụ.
Hơn nữa, độ an toàn cho vốn đầu t cao, nên nhìn chung thủ tục tài trợ th-
ờng đơn giản, nhanh gọn hơn so với trờng hợp cho vay.
1.2.2. Đối với bên thuê.
- Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn
chế về nguồn vốn đầu t. Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công
suất của doanh nghiệp có thể đợc đặt ra vào bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các
nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn tích luỹ. Trong khi đó, các doanh
nghiệp Việt Nam phổ biến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số doanh nghiệp
có vốn đầu t trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 17% tổng số các doanh nghiệp.
Loại doanh nghiệp có quy mô tài sản cố định từ 1 tỷ - 10 tỷ đồng chiếm 58%,
phần còn lại chiếm 25% có quy mô dới 1 tỷ đồng, những doanh nghiệp này th-
ờng gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu đi vay theo
các thể thức tín dụng thông thờng lại thiếu tài sản thế chấp. Thông qua cho
thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà vẫn mua đợc máy
8
móc, thiết bị phục vụ yêu cầu của sản xuất và sau một số năm có thể có đợc
một số tài sản tích luỹ nhất định.
Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang có một nhu cầu rất
lớn về đầu t, từ việc đầu t một nhà máy mới với dây chuyền sản xuất hoàn
chỉnh cho tới việc đổi mới riêng lẻ, từng phần các loại máy móc, phơng tiện
vận chuyển, thông tin liên lạccó trình độ trung bình khá trở lên so với thế
giới. Trong một số ngành không nhất thiết phải có ngay các công nghệ hiện
đại, bởi Việt Nam có lợi thế trong các ngành có lực lợng lao động cao nhờ tận
dụng nguồn nhân lực dồi dào, giá lao rộng rẻ. Ưu thế của tín dụng cho thuê tài
chính có thể giải quyết tốt nhu cầu này.
- Những doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của các Tổ
chức tài chính cũng có thể nhận đợc vốn tài trợ thông qua cho thuê tài chính.
Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay những doanh
nghiệp mới thành lập, cha có uy tín với các Tổ chức tài chính thờng rất khó

thoả mãn các điều kiện chống rủi ro nên thờng bị các tổ chức này từ chối cho
vay. Trong khi đó, do đặc thù của cho thuê tài chính là bên cho thuê nắm
quyền sở hữu đối với tài sản thuê và họ có thể trực tiếp kiểm soát theo dõi việc
sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của bên thuê. Vì vậy, các Công ty cho
thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu t của khách hàng ngay cả
khi vị thế tài chính, uy tín của họ có những hạn chế.
Hơn nữa, do chuyên biệt kinh doanh cho thuê tài chính là các loại tài sản
thiết bị nên các Công ty cho thuê tài chính thờng có mạng lới hoạt động rộng
rãi, có nhiều mối quan hệ với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), có đội
ngũ cán bộ hiểu biết về thiết bị - công nghệ cao nên họ có thể cung cấp cho
các doanh nghiệp các loại thiết bị đúng yêu cầu, điều này tránh rủi ro cho các
doanh nghiệp so với trờng hợp doanh nghiệp tự mua lấy. Đồng thời, thông qua
cho thuê tài chính mà doanh nghiệp có thể thanh lý, chuyển nhợng các máy
móc, công nghệ đã cũ. Dĩ nhiên, điều này phải đi đôi với việc phát triển một
thị trờng công nghệ cũ và mới thông qua các trung gian là các Công ty cho
thuê tài chính. Cũng nhờ có chuyên môn cao về thiết bị, công nghệ nên các
Công ty cho thuê có thể cải tiến, điều chuyển các loại tài sản cho phù hợp với
nhu cầu của khách hàng ở các khu vực thị trờng khác nhau.
- Cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp đi thuê không bị đọng
vốn trong tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và cho thuê lại, các doanh
nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lu động hay chuyển
dịch vốn đầu t cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi
9
vẫn duy trì đợc hoạt động đầu t hiện hành vì tài sản vẫn đợc tiếp tục sử dụng.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp muốn dành vốn tích luỹ cho kinh doanh mà có
nhu cầu về thiết bị và tài sản thì vẫn có thể thực hiện đợc thông qua mua tài
sản cố định.
- Cho thuê tài chính là phơng thức rút ngắn thời gian triển khai đầu t đáp
ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phơng thức tăng vốn khác, cho
thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn nên các thủ tục và điều kiện tài trợ

cũng đơn giản hơn. Do bên thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung ứng tài sản
thiết bị, hay đàm phán, thoả thuận trớc về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà
cung cấp, sau đó mới yêu cầu Công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả
thuận nhu cầu đầu t của khách hàng ngay cả khi khả năng tài chính, uy tín của
họ có những hạn chế.
Hiện nay, các Công ty cho thuê tài chính có xu hớng hoạt động chuyên
môn hoá sâu trong lĩnh vực tài sản cho thuê, thờng tổ chức cung ứng các loại
thiết bị theo phơng thức khép kín, thiết bị thờng bị gắn liền với phụ tùng, linh
kiện, kỹ năng quản trị, sản phẩm cho khách hàng. Điều này giúp bên thuê
nhanh chóng đáp ứng đợc các cơ hội kinh doanh.
- Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc
độ phát triển của công nghệ mới. Trong điều kiện bùng nổ công nghệ hiện
nay, việc thay đổi thiết bị, máy móc theo kịp đà phát triển của công nghệ mới,
góp phần sản xuất ra những sản phẩm chất lợng cao, có sức cạnh tranh trên thị
trờng là một vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhng đây cũng
là một khó khăn đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các quốc gia đang phát triển hoặc đối với các
doanh nghiệp phải tự xuất vốn hay vay vốn để đầu t. Cho thuê tài chính có thể
góp phần vào việc giải bài toán về vốn và công nghệ này.
- Thông qua cho thuê tài chính, việc thay đổi công nghệ của doanh
nghiệp diễn ra có u thế hơn so với các hình thức tài trợ khác (do đặc điểm của
nó là tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, nên mọi rủi ro về mặt
pháp lý và những rủi ro hao mòn vô hình đều thuộc về phía bên cho thuê. Bên
cho thuê thờng phải sử dụng những khả năng chuyên biệt về nghiệp vụ cho
thuê tài chính để khắc phục những rủi ro này).
- Cho thuê tài chính cho phép các doanh nghiệp Việt Nam thu hút vốn
đầu t nớc ngoài. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp Việt Nam có
thể huy động đợc vốn nớc ngoài thông qua các Công ty cho thuê tài chính
quốc tế hay các Công ty liên doanh cho thuê tài chính hoạt động ở Việt Nam.
10

Lợi thế chính là hiện nay mức lãi suất ngoại tệ trên thị trờng vốn quốc tế thấp
hơn lãi suất vay ở Việt Nam, do đó thông qua thuê máy móc thiết bị, các
doanh nghiệp có thể nhận đợc vốn tài trợ có mức lãi suất thấp hơn so với thị tr-
ờng vốn bằng đồng Việt Nam.
- Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hoãn thuế. Các Khoản tiền thuê
phải trả hàng năm đợc tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó chúng làm
giảm mức lợi nhuận của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó,
khoản chi phí này đợc nhân với tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp và
nhân với lãi suất cho vay của ngân hàng sẽ cho ta biết tỷ lệ tiết kiệm do hoãn
thuế bởi cho thuê tài chính đem lại cho doanh nghiệp.
- Số tiền thuê mà bên thuê phải trả đợc tính vào chi phí kinh doanh. Do
đó, chúng làm giảm số thuế mà họ phải trả. Sau khi hợp đồng cho thuê kết
thúc, nếu bên thuê đợc quyền chọn mua tài sản thì giá mua thờng thấp hơn so
với giá trị còn lại của tài sản.
1.2.3. Đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị).
Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) khi chào bán sản phẩm của
mình trên thị trờng đều mong muốn bên mua sẽ trả đủ tiền để nhà sản xuất
(hoặc nhà cung cấp thiết bị) có vốn lu động, tạo cơ hội mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Nhng trên thực tế, không phải tất cả các chủ thể
muốn mua thiết bị đều có đủ khả năng về tài chính hoặc trong trờng hợp có
doanh nghiệp đủ khả năng về tài chính nhng họ không muốn đầu t số tiền này
để làm vốn lu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh). Chính vì vậy,
thông qua hợp đồng cho thuê tài chính mà bên cho thuê trong hợp đồng này sẽ
mua tài sản thuê để cho thuê và hoãn trả toàn bộ số tiền tơng ứng với giá trị tài
sản.
- Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, nhà sản xuất (hoặc nhà cung
cấp thiết bị) sẽ tìm hiểu đợc nhu cầu thiết yếu của bản thân ngời sử dụng thiết
bị, từ đó có kế hoạch đầu t đúng đắn.
- Thông qua cho thuê tài chính, các nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết
bị) có thể bán thiết bị cũ, nhập thiết bị mới hay nhận đợc lời khuyên nên áp

dụng trình độ công nghệ ở mức nào cho phù hợp với doanh nghiệp, thị trờng
và môi trờng kinh tế vĩ mô.
1.2.4. Đối với nền kinh tế.
Cho thuê tài chính không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể
có liên quan mà hình thức này còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế.
Điều này thể hiện:
11
- Cho thuê tài chính là hình thức thu hút vốn đầu t trung, dài hạn cho nền
kinh tế. Do cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi
hơn các hình thức khác nên cho thuê tài chính có thể khuyến khích các thành
phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế t bản t nhân và nhất là các Tổ chức tài
chính đầu t vốn để kinh doanh. Do đó, hoạt động cho thuê tài chính đã huy
động đợc những nguồn vốn nhãn rỗi trong nội bộ nền kinh tế, thậm chí thu hút
vốn đầu t các lĩnh vực đầu t khác. Mặt khác, trong điều kiện giao lu quốc tế
ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp cho quốc gia thu hút các nguồn
vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua các loại máy móc tài sản cho thuê mà
quốc gia đó nhận đợc. Đồng thời, hình thức thu hút vốn đầu t nớc ngoài này
không làm tăng Khoản nợ nớc ngoài của quốc gia nhận đợc tài sản cho thuê.
- Cho thuê tài chính thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức
tài chính. ở rất nhiều quốc gia, sự phát triển của cho thuê tài chính đã dẫn tới
việc giảm các chi phí, đồng thời tăng các nguồn vốn cho hoạt động đầu t;
- Cho thuê tài chính là nhân tố tác động tích cực cho sự phát triển của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ hầu hết các doanh nghiệp này đều không đáp
ứng đợc một số điều kiện nhất định khi có ý định vay tín dụng tại ngân hàng.
Đồng thời, nó góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết
bị, cải tiến kỹ thuật. Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy
móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến đợc đa vào các doanh nghiệp góp
phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong những điều kiện khó
khăn về vốn đầu t. Ngay cả đối với các nớc có nền kinh tế phát triển cao nh
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Phápcho thuê tài chính vẫn phát huy tác dụng, cập nhật

khoa học công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Đối với các quốc gia chậm phát
triển, nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ và toàn diện thì tác dụng của
nó còn mạnh mẽ hơn nhiều, nhất là trong thời đại ngày nay, việc đầu t công
nghệ hiện đại một cách kịp thời nhanh chóng đối với các nền kinh tế chậm
phát triển gặp rất nhiều khó khăn. Nếu có chính sách đúng đắn, hoạt động cho
thuê tài chính có thể đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ nhanh chóng.
Bên cạnh những lợi thế, cho thuê tài chính cũng có những hạn chế nhất
định. Điều này lý giải tại sao hoạt động cho thuê tài chính không thể thay thế
hoàn toàn cho các hoạt động tín dụng khác với t cách là một kênh cấp vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Những hạn chế đó là:
- Đối với bên thuê: Vào giai đoạn cuối của hợp đồng thuê, mặc dù bên
thuê đã trả gần nh đủ số tiền thuê nhng bên thuê vẫn cha đợc sử dụng tài sản
vào mục đích khác. Hơn nữa, bên thuê có thể phải chịu những rằng buộc bởi
12
một số biện pháp bảo đảm đối với tài sản thuê nh: không cho ngời khác thuê
lại khi cha có sự đồng ý của bên cho thuê hoặc phải chịu sự kiểm tra bất cứ
khi nào theo yêu cầu của bên cho thuê.
- Đối với bên cho thuê, rủi ro có thể xảy ra nh: rủi ro về tài chính, khi mà
bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn hoặc tiền thuê nhận đợc không đủ bù
đắp vốn gốc; hoặc rủi ro liên quan đến tài sản thuê, khi mà tài sản cho thuê
không thu hồi về không thể cho thuê tiếp hay không bán đợc chúng; tài sản do
nhà nhà sản xuất giao cho bên cho thuê không đúng theo hợp đồng, tài sản
không đợc phép kinh doanh; hoặc rủi ro sự thay đổi về luật pháp, do sự biến
động của thị trờng bởi khủng hoảng kinh tế.
(2)
I.3. Các phơng thức cho thuê tài chính
- Cho thuê giáp lng (Under Lease).
Một trong những đặc điểm của cho thuê tài chính là các bên không đợc
huỷ ngang hợp đồng trớc thời hạn. Do đó, nếu sau khi ký hợp đồng, bên thuê
không có nhu cầu sử dụng tài sản nữa và thời hạn thuê vẫn cha hết thì họ sẽ ở

trong tình trạng bất lợi. Để khắc phục tình trạng này, bên thuê có thể tìm một
bên thuê thứ hai để cho thuê lại tài sản. Bên thuê thứ hai sẽ trả tiền thuê cho
bên thuê thứ nhất đồng thời có mọi quyền lợi, nghĩa vụ khác trong việc sử
dụng tài sản thuê. Tuy nhiên, vì hợp đồng ký giữa bên cho thuê và bên thuê
thứ nhất vẫn có hiệu lực nên bên thuê thứ nhất vẫn có nghĩa vụ trả tiền thuê
cho bên cho thuê và phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những rủi ro, thiệt
hại có thể xảy ra đối với tài sản. Việc cho thuê lại chỉ đợc tiến hành nếu có sự
đồng ý của bên cho thuê.
Pháp luật Việt Nam quy định, bên thuê không đợc chuyển quyền sử dụng
tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không đợc bên cho thuê đồng ý
bằng văn bản (điểm a Khoản 2 Điều 63 Luật Các Tổ chức Tín dụng).
Cho thuê bắc cầu: Là trờng hợp ngời cho thuê đi vay để mua tài sản rồi
cho thuê, loại cho thuê này thờng áp dụng cho các dự án đầu t lớn.
- Bán và tái thuê (Sale and Lease - back).
Hình thức bán và tái thuê đợc doanh nghiệp sử dụng khi doanh nghiệp
khó khăn về vốn lu động nhng lại không thể vay hoặc bán đứt tài sản, thiết bị
đang sử dụng đi đợc. Trong giao dịch này, doanh nghiệp bán một tài sản, thiết
bị cho Công ty cho thuê tài chính và ngay lúc đó thuê lại chính tài sản, thiết bị
này từ Công ty. Lúc này, doanh nghiệp sẽ có vốn để tiếp tục sản xuất. Cho đến
cuối thời hạn thuê, khi đã trả hết tiền thuê, doanh nghiệp sẽ thực hiện quyền
(2)
Đoàn Thanh Hà, Cho thuê tài chính - giải pháp về vốn để đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp, Tạp chí
Tài chính doanh nghiệp 11/2000
13
chọn mua (nếu có) và các tài sản, thiết bị này trở lại quyền sở hữu của doanh
nghiệp. Nh vậy, bản chất của thoả thuận bán và tái thuê là: ngời thuê giữ lại
quyền sử dụng trong khi chuyển giao quyền sở hữu.
Hình thức này đã đợc ghi nhận tại Khoản 3, Điều 16, Nghị định 16: Mua
và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính (gọi tắt là mua và cho thuê
lại). Theo hình thức này, Công ty cho thuê tài chính mua lại máy móc, thiết bị,

phơng tiện vận chuyển và các động sản khác thuộc sở hữu của bên thuê và bên
thuê thuê lại chính các tài sản đó để tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động
của mình.
- Thuê qua biên giới (Cross - border Lease)
Các bên tham gia quan hệ thuê qua biên giới cũng giống nh các bên
trong hình thức thuê bắc cầu. Tài sản cho thuê qua biên giới thờng đòi hỏi vốn
lớn, có giá trị cao nh máy bay, tàu vận tải biển nhng nó khác với thuế bắc cầu
là các bên trong quan hệ thuê qua biên giới nh bên cho thuê, bên thuê có trụ
sở và quốc tịch ở các nớc khác nhau. Lợi thế của hình thức này là các bên đợc
hởng lợi từ việc miễn thuế hoặc do chính sách thuế khác nhau của từng nớc,
nh bên cho thuê không phải nộp thuế xuất khẩu do xuất khẩu đợc hàng hoá,
bên thuê do nhập thiết bị phục vụ sản xuất nên đợc miễn thuế nhập khẩu và
thuế VAT (nh ở Việt Nam hiện nay). Do đợc hởng lợi từ thuế, bên thuê sẽ có
lợi của việc giảm tiền thuê, nhờ đó sẽ giảm tiền khấu hao tài sản của chính tài
sản thuê.
- Cho thuê vận hành:
Cho thuê vận hành (cho thuê hoạt động) là hình thức cho thuê tài sản,
theo đó bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời
gian nhất định và sẽ trả lại tài sản đó cho bên thuê khi kết thúc thời hạn thuê
tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê
theo hợp đồng cho thuê
(3)
.
Thông qua việc giao kết các hợp đồng cho thuê tài chính, các chủ thể xác
lập quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ này sẽ bao gồm những
nội dung gì? Có khác so với hợp đồng thuê thông thờng không?Phần tiếp
theo của khoá luận sẽ nghiên cứu những khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp
đồng cho thuê tài chính trên cơ sở đó có sự so sánh với hợp đồng thuê thông
thờng và nêu ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện chế định này.
I.4. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho

thuê tài chính.
(3)
Theo quyết định 731/ 2004/ QĐ - NHNN ngày 15/6/2004 về việc ban hành quy chế tạm thời cho thuê vận
hành của Công ty cho thuê tài chính.
14
II.4.1. Khái niệm.
Các nớc trên thế giới có hoạt động cho thuê tài chính phát triển không sử
dụng khái niệm về hợp đồng cho thuê tài chính, thay vào đó, họ đa ra khái
niệm về hợp đồng thuê mua. Ví dụ:
- ở ý - Hợp đồng thuê mua là hợp đồng giao kết giữa ngời đi thuê và bên
cho thuê về việc cho thuê các loại thiết bị do bên cho thuê mua hoặc sản xuất,
nội dung của hợp đồng phải phù hợp với giải trình của bên đi thuê và có hiệu
lực trong một thời hạn nhất định. Cuối thời hạn thuê, ngời đi thuê có quyền
lựa chọn mua tài sản thuê theo giá định trớc.
- ở Tây Ban Nha - Hợp đồng thuê mua là loại hợp đồng với mục đích nh-
ợng lại quyền sử dụng động sản hay bất động sản của bên cho thuê theo sự
xác định của ngời đi thuê theo hợp đồng. Hợp đồng này phải cho phép bên
thuê có quyền mua tài sản đã thuê vào cuối giai đoạn thuê mua.
ở nớc ta hiện nay, khái niệm hợp đồng cho thuê tài chính có thể đợc hiểu
trên hai phơng diện:
Thứ nhất: Trên phơng diện lý thuyết, hợp đồng cho thuê tài chính đợc
định nghĩa là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên cho thuê (Công ty tài chính
hoặc Công ty cho thuê tài chính) với bên thuê (tổ chức và cá nhân kinh
doanh), theo đó bên cho thuê cung cấp tài sản thuê cho bên thuê sử dụng trong
một thời hạn nhất định theo yêu cầu của bên thuê, với điều kiện trả tiền thuê
và thoả thuận thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê khi hợp đồng thuê đáo hạn.
Thứ hai: Trên phơng diện pháp lý, Điều 13 Quyết định 149 định nghĩa,
"Hợp đồng tín dụng thuê mua là một hợp đồng đợc giao kết giữa Tổ chức tín
dụng và bên thuê và là cơ sở pháp lý xác định quyền hạn và trách nhiệm của tổ
chức tín dụng và bên thuê trong một giao dịch tín dụng thuê mua". Khái niệm

này không nêu đợc bản chất của hợp đồng tín dụng thuê mua là hợp đồng kinh
tế hay dân sự. Đến Nghị định 64, Hợp đồng cho thuê tài chính đợc hiểu là
"một loại hợp đồng kinh tế giữa bên cho thuê và bên thuê về việc thuê một
hoặc một số máy móc, thiết bị, động sản khác trong một thời gian nhất định
(thời hạn cho thuê) theo những điều kiện quy định tại Điều 3 Nghị định 64
(Điều 18)".
Điều 17 Nghị định 16 Quy định: "Hợp đồng cho thuê tài chính là thoả
thuận (bằng văn bản) giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê một hoặc
một số máy móc, thiết bị, phơng tiện vận chuyển và động sản khác theo những
quy định tại Điều 1 của Nghị định này, phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các
bên. Hợp đồng phải ghi rõ việc xử lý khi hợp đồng chấm dứt trớc hạn. Bên cho
thuê và bên thuê không đợc đơn phơng huỷ bỏ hợp đồng (trừ những trờng hợp
15
nêu tại Điều 27 Nghị định 16)". Khác với Nghị định 64, Nghị định 16 không
khẳng định hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng kinh tế hay dân sự. Cũng
giống với trờng hợp hợp đồng tín dụng, việc xác định một hợp đồng cho thuê
tài chính là hợp đồng kinh tế hay dân sự và thờng căn cứ vào chủ thể và mục
đích của hợp đồng. Nghĩa là:
- Hợp đồng cho thuê tài chính đợc coi là hợp đồng kinh tế khi nó đợc
giao kết giữa Công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê là chủ thể kinh
doanh và việc giao kết hợp đồng cho thuê tài chính là nhằm mục đích kinh
doanh;
- Hợp đồng cho thuê tài chính đợc coi là hợp đồng dân sự khi nó đợc giao
kết giữa Công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê không phải là chủ thể
kinh doanh hoặc là chủ thể kinh doanh nhng việc giao kết hợp đồng cho thuê
tài chính không nhằm mục đích kinh doanh.
Vì là một dạng của giao dịch kinh tế (dân sự), nên trớc hết hợp đồng cho
thuê tài chính phải tuân thủ các điều kiện chung về một giao dịch có hiệu lực
pháp luật. Điều 131 Bộ Luật Dân sự Việt Nam (có hiệu lực từ 1996) quy định
về điều kiện một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật. Theo đó, một giao

dịch dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật khi: (i) ngời tham gia giao dịch có năng
lực hành vi dân sự; (ii) mục đích và nội dung giao dịch không trái pháp luật,
đạo đức xã hội, (iii) ngời tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; (iv) hình
thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Nh vậy, trớc hết hợp đồng cho thuê tài chính phải tuân thủ các điều kiện
chung về một giao dịch có hiệu lực pháp luật (nh đã nêu trên). Ngoài ra, giao
dịch cho thuê tài chính còn phải tuân thủ những điều kiện riêng cụ thể là:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê đợc chuyển
quyền sở hữu tài sản thuê hoặc đợc tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai
bên;
- Nội dung hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên
thuê đợc quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị
thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại;
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản thuê. Quy định này đã gặp nhiều khó khăn cho các
Công ty cho thuê tài chính vì có những tài sản có giá trị lớn, có khả năng
chuyển nhợng dễ dàng và là tài sản có nhu cầu sử dụng của nhiều tổ chức kinh
tế nhng mỗi chủ thể chỉ cần sử dụng trong thời gian ngắn. Trong trờng hợp có
nhu cầu thuê tài sản có giá trị lớn với thời gian ngắn mà các đối tợng đó không
16
thể tham gia vào quan hệ thuê thì sẽ làm mất đi thị phần đáng kể của thị trờng
cho thuê tài chính. Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi, có thể đặt ra
một số khả năng cho các chủ thể lựa chọn. Trong trờng hợp có nhiều bên thuê
có khả năng về cùng loại tài sản nhng không có nhu cầu sử dụng thờng xuyên,
Công ty cho thuê tài chính có thể đồng thời giao kết với nhiều bên thuê về tài
sản. Đơng nhiên, cách thức này sẽ có khó khăn nhất định khi xử lý tài sản hết
thời hạn thuê. Vấn đề này có thể giải quyết trong điều Khoản xử lý tài sản
bằng cách quy định các bên thoả thuận bán lại tài sản cho một chủ thể với giá
danh nghĩa hoặc tài sản thuê vẫn thuộc về bên cho thuê.
Trờng hợp không giao kết đợc hợp đồng theo phơng thức nêu trên, bên

cho thuê có thể đợc phép cho thuê với thời gian ngắn đối với nhiều chủ thể có
cùng nhu cầu nhng số tiền thuê phải trả cao hơn so với quan hệ thuê thông th-
ờng (có thể cao hơn 200% so với quan hệ thuê thông thờng). Biện pháp này
vừa tạo điều kiện cho bên thuê cơ hội tốt nhất trong kinh doanh đồng thời
cũng giúp cho bên thuê nhanh chóng thu hồi vốn đầu t (thực hiện khấu hao
nhanh tài sản).
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất
phải tơng đơng với giá của tài sản đó trên thị trờng vào thời điểm ký hợp đồng.
Quy định này có điểm không phù hợp với thực tế áp dụng là đối với những
quan hệ cho thuê không có các biện pháp bảo đảm, bên thuê phải góp vốn để
mua tài sản theo tỉ lệ nhất định, thậm chí có trờng hợp góp đến 50% giá trị tài
sản. Việc bên thuê phải góp vốn để mua tài sản thuê là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ
quy định này gắn trách nhiệm bảo quản và sử dụng tài sản trong quá trình sử
dụng của bên thuê. Thế nhng, nếu xác định tổng số tiền thuê phải trả nh trên,
bên thuê phải trả tới 1,5 lần tổng số giá trị tài sản. Nếu chiểu theo quy định
của pháp luật trong những trờng hợp này không thể áp dụng đợc. Theo chúng
tôi, nên quy định tổng số tiền thuê phải trả ít nhất tơng đơng với giá trị đầu t
của Công ty cho thuê vào tài sản tại thời điểm chuyển giao tài sản cho bên
thuê. Nếu quy định nh vậy, nghĩa vụ trả tiền thuê của bên thuê tài sản luôn t-
ơng ứng với phần tín dụng đợc cung cấp bởi các Công ty cho thuê tài chính.
Theo quy định tại Nghị định 16, điều kiện xác định một giao dịch đợc coi
là cho thuê tài chính nếu:
- Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê đợc quyền lựa chọn mua lại tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho
thuê tài chính.
17
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài
chính, ít nhất phải tơng đơng với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp
đồng (Khoản 2 Điều 1 Nghị định 16).
Nh vậy, Nghị định 16 không quy định điều kiện xác định một giao dịch

cho thuê tài chính khi "Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng
60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê". Theo chúng tôi, pháp luật
cần phải bổ sung quy định về thời hạn cho thuê đối với tài sản thuê, bởi lẽ, nếu
không quy định điều kiện này có thể dẫn tới tính không đồng nhất với nội
dung khái niệm "cho thuê tài chính" đã nêu ra - Cho thuê tài chính là hoạt
động tín dụng trung và dài hạn.
II.4.2. Đặc điểm.
- Đặc điểm đặc trng của hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng thanh
toán trọn vẹn và không thể bị huỷ ngang. Với một hợp đồng thuê tài sản thông
thờng, khi không có nhu cầu thuê tiếp, bên thuê có thể trả lại tài sản thuê và
kết thúc thời hạn. Với hợp đồng cho thuê tài chính, điều này không thể xảy ra
vì tài sản thuê thờng có giá trị lớn mà thời gian khấu hao tài sản dài. Nếu nh
một trong các bên đơn phơng huỷ bỏ cam kết của mình sẽ gây trở ngại và khó
khăn lớn cho bên kia. Giả sử bên cho thuê đòi thu hồi thiết bị trong khi bên
thuê đang tiến hành sản xuất kinh doanh có lãi, điều này sẽ gây ra những thiệt
hại không thể lờng trớc cho bên thuê. Ngợc lại, trong trờng hợp bên thuê yêu
cầu bên cho thuê nhận lại tài sản thuê trớc khi hợp đồng cho thuê tài chính hết
hiệu lực, việc này cũng sẽ gây ra những hậu quả là bên cho thuê khó có thể
tìm ngay ra ngời có nhu cầu thiết bị đó. Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng: tính
chất không huỷ ngang của hợp đồng cho thuê tài chính không hề ngăn cản
việc bên cho thuê thu hồi tài sản thuê trớc ngày đáo hạn và đòi bên thuê phải
trả toàn bộ số tiền thuê theo hợp đồng trong trờng hợp bên thuê có hành vi vi
phạm các điều khoản trong hợp đồng đã ký. Đặc điểm này do tính chất của
giao dịch cho thuê tài chính quyết định là trong mọi trờng hợp sự an toàn đối
với vốn đầu t phải luôn đợc đảm bảo.
- Trong suốt thời gian thuê, bên cho thuê dành cho bên thuê quyền chiếm
hữu và sử dụng (khai thác) tài sản thuê. Đổi lại, bên thuê phải trả cho bên cho
thuê tiền thuê tài sản theo định kỳ. Tuy nhiên, quyền sở hữu cụ thể là việc
định đoạt đối với tài sản thuê vẫn thuộc về bên cho thuê. Trong hợp đồng cho
thuê tài chính mọi rủi ro cũng nh chi phí cho việc sửa chữa và bảo dỡng tài sản

thuê đợc chuyển giao cho bên thuê, nếu bên thuê vi phạm những yêu cầu này,
bên cho thuê có quyền yêu cầu đòi bồi thờng thiệt hại theo Điểm b Khoản 1
Điều 62 Luật Các tổ chức Tín dụng. Đặc điểm này giúp ta phân biệt rõ ràng
18
giữa hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng thuê tài sản thông thờng. Trong
quan hệ hợp đồng thuê tài sản thông thờng, bên cho thuê cũng chuyển giao
quyền sử dụng tài sản cho bên thuê, nhng toàn bộ chi phí về bảo dỡng và sửa
chữa vẫn thuộc về bên cho thuê. Bên thuê cũng có thể tu sửa và làm tăng giá
trị tài sản thuê, nếu đợc bên cho thuê đồng ý và có quyền yêu cầu bên cho
thuê thanh toán chi phí hợp lý (Khoản 2 Điều 484 Bộ Luật Dân sự).
- Trong hợp đồng cho thuê tài chính, quyền tự định đoạt của chủ tài sản
(bên cho thuê) có thể bị hạn chế do bên thuê có quyền lựa chọn mua tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo thoả thuận trong hợp đồng cho thuê, nhng điều
khoản này bắt buộc phải đợc thoả thuận trong hợp đồng (Khoản 2 Điều 17
Nghị định 16). Đặc điểm này cũng cho phép phân biệt hợp đồng cho thuê tài
chính với hợp đồng cho thuê tài sản thông thờng, bởi lẽ, trong hợp đồng cho
thuê tài sản thông thờng, bên cho thuê với t cách là chủ tài sản có toàn quyền
quyết định trong việc bán lại tài sản thuê hoặc cho thuê tiếp hay khi hợp đồng
thuê kết thúc mà không cần phải thoả thuận trớc điều Khoản này trong hợp
đồng.
II.4.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho thuê tài chính.
Nh đã nêu ở phần trên, hợp đồng cho thuê tài chính ngoài việc tuân thủ
những quy định mang tính nguyên tắc chung để có thể xác định một giao dịch
là cho thuê tài chính còn phải đảm bảo các yêu cầu đợc quy định tại Điều 19
Nghị định 64, đó là:
- Đợc lập thành văn bản;
- Đăng ký tại Ngân hàng Nhà nớc.
Trong trờng hợp khi giao kết hợp đồng cho thuê tài chính, các chủ thể đã
không đợc thực hiện đúng theo các yêu cầu trên đây thì hợp đồng sẽ vô hiệu.
Khoản 2, 3 Điều 17 Nghị định 16 khẳng định: hợp đồng cho thuê tài

chính phải đợc lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật. Bên
thuê và bên cho thuê không đợc đơn phơng huỷ bỏ hợp đồng cho thuê tài
chính (trừ những trờng hợp do pháp luật quy định). Nh vậy, trong thời gian tới
các hợp đồng cho thuê tài chính sau khi đợc giao kết sẽ không phải làm thủ
tục đăng ký tại Ngân hàng Nhà nớc và cơ quan quản lý hợp đồng nơi Công ty
cho thuê tài chính đặt trụ sở theo quy định của pháp luật. Quy định hợp đồng
phải đăng ký là thủ tục hành chính rờm rà. Quy định này đã gây ra không ít
khó khăn (ví dụ nh việc nhũng nhiễu của một số nhân viên Ngân hàng Nhà n-
ớc khi Công ty cho thuê tài chính đến đăng ký hợp đồng) trong quá trình Công
ty cho thuê tài chính tiến hành giao kết hợp đồng với khách hàng. Chính vì lẽ
đó, Nghị định 16 mới đây đã bỏ quy định hợp đồng cho thuê tài chính phải
19
đăng ký và chỉ quy định: Tài sản cho thuê tài chính phải đăng ký tại Trung
tâm giao dịch bảo đảm (Điều 19).
1.5. Phân loại hợp đồng cho thuê tài chính:
Về bản chất, HĐCTTC đợc hiểu đơn thuần là hợp đồng cho thuê vốn, tuy
nhiên hoạt động CTTC ngày càng đa dạng và phong phú, nên cần phân loại
HĐCTTC để từ đó nhìn nhận rõ hơn bản chất kinh tế của nó, đồng thời tạo cơ
sở pháp lý để thiết lập các loại HĐCTTC nhằm thu hút nguồn vốn đầu t.
Hiện nay, dựa trên các tiêu chí khác nhau, có rất nhiều cách phân loại
HĐCTTC. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến cách phân
loại phổ biến và là cơ sở để áp dụng hình thức CTTC đó ở Việt Nam.
Căn cứ vào các bên tham gia HĐCTTC:
* HĐCTTC có sự tham gia của hai bên: Theo phơng thức này bên cho
thuê sử dụng thiết bị họ đã có sẵn để trực tiếp tài trợ cho bên thuê. Trong trờng
hợp này bên cho thuê đồng thời là bên cung ứng, thờng là nhà sản xuất và là
Công ty cho thuê tài chính sử dụng chính tài sản của mình để tài trợ chô bên
thuê. Trớc thời điểm khởi đầu của sự thoả thuận CTTC, bên cho thuê đã nắm
quyền sở hữu tài sản thuê. Nhìn chung, phơng thức này thờng đợc sử dụng và
thực hiện dới HĐCTTC có đối tợng là bất động sản. Đối với phơng thức cho

thuê này có những đặc điểm đặc trng là: HĐCTTC thờng đợc sử dụng bởi các
Công ty xây dựng bất động sản và các Công ty sản xuất máy móc thiết bị
thông qua việc đầu t xây dựng cao ốc, văn phòng.sau đó ký kết hợp đồng
cho thuê với khách hàng.
Chủ thể tham gia trong quan hệ này chỉ có hai bên. Bên cho thuê (đồng
thời là nhà cung ứng) và bên thuê. Trong phơng thức này cho phép bên cho
thuê có thể mua lại thiết bị khi chúng lạc hậu. Về cơ bản, phơng thức tài trợ
này thờng đợc các nhà sản xuất sử dụng để đẩy mạnh việc tiêu thụ do họ sản
xuất ra, mặt khác nhờ đó họ luôn cập nhật những công nghệ mới để chế tạo
các máy móc thiết bị nên các nhà sản xuất có thể sẵn sàng mua lại những
trang thiết bị đã lạc hậu về mặt công nghệ để tiếp tục cung cấp những máy
móc công nghệ hiện đại do họ chế tạo ra.
Với những phơng thức giao dịch này, việc tham gia của các doanh nghiệp
Việt Nam với các đối tác nớc ngoài sẽ giải quyết đợc vấn đề máy móc thiết bị,
dây chuyền công nghệ hiện đại cho đất nớc và tránh cho Việt Nam không trở
thành nơi phế thải của các máy móc thiết bị sau thời gian sử dụng nhất định.
* HĐCTTC có sự tham gia của 3 bên: Bên cho thuê, bên thuê và nhà
cung ứng. ở đây bên thuê có quyền lựa chọn tài sản với bên cung ứng phù hợp
20
với yêu cầu của mình. Đây là loại HĐCTTC đợc áp dụng phổ biến nhất và có
các u điểm sau: (i) Việc chuyển giao tài sản đợc thực hiện trực tiếp giữa nhà
cung ứng và bên thuê. Hai bên phải cùng chịu trách nhiệm trực tiếp về tình
trạng hoạt động của tài sản, cũng nh việc bảo hành, bảo dỡng tài sản. Nh vậy,
bên cho thuê rút bỏ gánh nặng về tình trạng hoạt động của tài sản; (ii) Bên cho
thuê không phải mua tài sản trớc, do vậy vòng quay vốn sẽ nhanh hơn, vì
không phải dự trữ hàng tồn kho, hơn nữa bên cho thuê cũng có thể tài trợ cho
nhiều đối tợng mà không phụ thuộc vào sản phẩm bên thuê yêu cầu. (iii) Bên
cho thuê không phải trực tiếp nhận tài sản rồi sau đó chuyển giao cho bên thuê
và nh vậy sẽ hạn chế đợc rủi ro liên quan đến việc nhận hàng của bên thuê nếu
có sự nhầm lẫn về mặt kỹ thuật có thể xảy ra.

Hiện nay, trên thế giới phơng thức này đợc áp dụng phổ biến (chiếm
80%). Theo chúng tôi phơng thức tài trợ này phù hợp với nhu cầu của nền
kinh tế Việt Nam hiện nay, tránh đợc những rủi ro cho bên thuê (bởi lẽ khả
năng chuyên môn của bên cho thuê không thể hoàn hảo trên mọi lĩnh vực để
thẩm định tài sản thuê hoặc sản xuất, cung ứng tài sản theo yêu cầu của khách
hàng).
Căn cứ vào tổng số tiền thuê theo hợp đồng.
* HĐCTTC hoàn trả toàn bộ: Trong giao dịch này, tổng số tiền thuê mà
bên cho thuê nhận đợc trong thời hạn cơ bản của hợp đồng đủ bù đắp toàn bộ
chi phí mua sắm tài sản, lãi suất vốn tài trợ, các chi phí quản lý cho bên thuê.
Với phơng thức giao dịch này mang lại những tiện tích cho cả hai bên (cho
thuê và đi theo) nên nó đợc áp dụng rất phổ biến. Theo thống kê của cơ quan
thuế Hoa Kỳ, số lợng hợp đồng theo phơng thức này chiếm 90%
(4)
. Phơng thức
cho thuê tài chính này cũng đợc áp dụng phổ biến ở Việt Nam.
* HĐCTTC hoàn trả từng phần: Tức là sau khi kết thúc thời hạn cho thuê,
tổng số tiền thu đợc cha đủ bù đắp chi phí để thu hôi đủ vốn và đem lại lợi
nhuận, ngời cho thuê cần phải cho thuê tiếp bằng hợp đồng mới. Với phơng
thức giao dịch này, ngời thuê có quyền lựa chọn mua tài sản thuê hoặc tiếp tục
thuê tài sản thêm một thời gian khi kết thúc thời hạn của hợp đồng.
Nh vậy, ta có thể rút ra một số đặc trng của HĐCTTC hoàn trả từng phần
nh sau:
- Trong thời hạn thuê các bên không có quyền huỷ ngang hợp đồng nếu
không có sự nhất trí chung.
(4)
Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản, tìm hiểu và sử dụng thị trờng tín dụng thuê mua. NXB trẻ TPHCM, 1996
21
- Hết thời hạn thuê các bên có quyền tự do lựa chọn tiếp tục thuê tài sản
đó thêm một thời gian hay mua chúng theo một giá cả hợp lý. Trờng hợp tiếp

tục thuê thì bên thuê có quyền huỷ ngang hợp đồng nh thuê vận hành.
- Do tính chất của hình cho thuê này, bên cho thuê thờng tăng tốc độ
khấu hao, tức là tăng tiền thuê trong thời hạn cơ bản. Đối với hợp đồng thuê
lại này khi kết thúc thời hạn cơ bản thì tiền thuê cao hơn, bên thuê cũng có
nhiều sự lựa chọn hơn trong việc kết thúc hợp đồng.
- Tiền thu hồi vốn cao trong giai đoạn đầu đợc đa vào quỹ phòng ngừa rủi
ro
(5)
.
Căn cứ vào tính chất của giao dịch CTTC:
* Loại hợp đồng tiếp cận từ phơng diện ngời cho thuê sử dụng sẵn máy
móc thiết bị của họ để cho thuê. Trên thực tế, nhiều nhà sản xuất ở các nớc
phát triển đợc thực hiện loại cho thuê này nh một giải pháp mở rộng doanh số
bán hàng.
+ HĐCTTC liên kết: Là loại hợp đồng gồm nhiều bên cùng tài trợ cho
một bên thuê. Trong trờng hợp này do một ngời cho thuê không đủ vốn để tài
trợ hoặc sợ rủi ro vì tập trung vốn quá lớn với một khách hàng, nên họ liên kết
với nhau để CTTC. Đối với loại hợp đồng này, tài sản cho thuê thờng có giá trị
lớn.
Với phơng thức cho thuê liên kết, pháp luật Việt Nam đã tạo cơ sở pháp
lý để thực hiện, đó là hình thức cho thuê hợp vốn với quy định tại Thông t số
08/TT - NHNN ngày 09/06/2001 về hớng dẫn thực hiện NĐ 16/CP (mục 2.2),
nhng những rủi ro đối với loại hợp đồng này là không nhỏ. Để hạn chế những
rủi ro có thể xảy ra, pháp luật Việt Nam đã có quy định đó là giới hạn cho
thuê đối với 1 khách hàng không đợc vợt quá 30% vốn tự có của Công ty cho
thuê tài chính.
+ Hợp đồng cho thuê bắc cầu: Là trờng hợp ngời cho thuê đi vay để mua
tài sản rồi cho thuê, loại cho thuê này thờng áp dụng cho những dự án đầu t
lớn. Đây không phải là phơng thức cùng tài trợ mà ngời cho thuê vẫn phải là
trái chủ trong quan hệ cho thuê, còn ngời cho vay là trái chủ của ngời cho thuê

trong quan hệ cho vay. Trong quá trình thực hiện HĐCTTC ngời cho vay đợc
hoàn trả khoản tiền cho vay từ các khoản tiền thuê và thờng là do bên thuê
trực tiếp chuyển trả khoản tiền cho vay từ các khoản tiền thuê, sau khi thanh
toán hết các món nợ vay, bên cho thuê đợc hởng những khoản tiền thuê còn
lại. Hình thức cho thuê này mở rộng khả năng tài trợ khỏi phạm vi nguồn vốn
của ngời cho thuê.
(5)
Tác giả "nh trên"
22
* Loại hợp đồng tiếp cận từ phơng diện ngời thuê.
- Hợp đồng bán rồi thuê lại: Các doanh nghiệp có thể bán tài sản của họ
cho các Công ty CTTC sau đó thuê lại. Đây là trờng hợp mà doanh nghiệp
thiếu vốn lu động để khai thác tài sản cố định hiện có trong hoạt động sản
xuất kinh doanh song lại không đủ uy tín để vay vốn ngân hàng, trong trờng
hợp này họ buộc phải bán một phần tài sản cố định cho ngân hàng hoặc Công
ty CTTC, sau đó thuê lại tài sản đó để sử dụng, và nh vậy sẽ có nguồn tài
chính để đáp ứng nhu cầu vốn lu động.
Đặc trng chủ yếu của loại hợp đồng này là bên thuê giữ lại quyền sử
dụng tài sản và chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê, đồng thời nhận
tiền bán tài sản, nhng tài sản đem bán phải còn giá trị sử dụng hữu ích và giá
trị của tài sản đó tuỳ thuộc vào giá cả hợp lý của tài sản đó trên thị trờng tại
thời điểm diễn ra hoạt động mua bán.
Với đặc thù là các loại hình doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, phơng thức giao dịch này đáp ứng đợc nguồn vốn lu
động cho nhiều doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam khi
nguồn vốn kinh doanh còn hạn chế, cơ chế vay vốn Ngân hàng còn gặp nhiều
khó khăn.
Phơng thức cho thuê này đợc ghi nhận trong khoản 3, điều 16, NĐ 16/
CP tiếp cận dới phơng diện bên cho thuê nên sử dụng thuật ngữ "mua và cho
thuê lại".

- Hợp đồng cho thuê giáp lng: Với sự cho phép của ngời cho thuê, ngời
thuê có thể cho ngời khác thuê tiếp. Loại hợp đồng cho thuê này đợc áp dụng
trong những trờng hợp bên thuê thứ hai cần tài sản muốn đi thuê nhng không
thực hiện trực tiếp từ những ngời cho thuê chuyên nghiệp - bên Công ty
CTTC, do hoạt động yếu kém, do không đảm bảo uy tín hoặc đơn giản chỉ vì
doanh nghiệp đó cha đợc ngời cho thuê biết đến. Ví dụ nh Công ty CTTC nớc
ngoài thờng chỉ chấp nhận tài trợ cho những Công ty lớn của Việt Nam (bên
thứ nhất). Hình thức cho thuê này cũng có thể áp dụng trong trờng hợp bên
thuê thứ nhất khi đã thực hiện một phần hợp đồng, không còn nhu cầu thuê,
do đó họ phải tìm đến bên thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng với sự chấp
thuận của ngời cho thuê. Phơng thức này giúp bên thuê thứ nhất không bỏ phí
tài sản thuê, đồng thời có thể kiếm lời từ bên thuê thứ hai. Bù lại bên đi thuê
thứ nhất vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm đối với những rủi ro thiệt hại liên
quan đến tài sản thuê vì họ là ngời trực tiếp ký hợp đồng với bên cho thuê ban
23
đầu. Mặc dù, kể từ thời điểm hợp đồng thuê mới lại đợc ký kết, mọi quyền lợi
và nghĩa vụ và tài sản đợc chuyển giao sang bên thứ hai.
- Hợp đồng cho thuê trả góp: Đây là phơng thức tài trợ khá đặc biệt của
CTTC. Thực chất là hình thức mua trả góp tài sản trong khoảng thời gian từ 1
đến 5 năm, đợc áp dụng đối với ngời mua có tài sản thế chấp và cả ngời không
có thế chấp.
Theo phơng thức này, hợp đồng CTTC có hiệu lực và ngời mua thờng
phải trả ngay cho nhà tài trợ một khoản tiền chiếm từ 25% - 30% giá trị tài sản
và vào thời điểm kết thúc hợp đồng chủ tài sản sẽ chuyển giao quyền sử dụng
cho ngời thuê, hình thức tài trợ này giúp cho bên cung ứng bán đợc tài sản của
mình và tạo cho bên thuê có ngay tài sản để sử dụng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh mà không phải trả ngay những khoản tiền đó.
Nhng bên cạnh đó, cũng có những bất lợi trong phơng thức này đó là tỷ
lệ lãi suất thực tế quá cao (thờng lên tới 15%/ năm) và nguy cơ mất quyền sở
hữu tài sản vào thời điểm kết thúc hợp đồng nếu không thực hiện đúng tiến độ

thanh toán.
Nh vậy, phơng thức tài trợ vốn thông qua hình thức cho thuê tài chính có
thể đợc thực hiện dới nhiều hình thức khác nhau. Các chủ thể tham gia trong
hợp đồng cho thuê tài chính có thể lựa chọn cho mình một phơng thức phù
hợp để đạt đợc mục đích hoạt động kinh doanh của mình.
24
Chơng II: Các quy định pháp lý cơ bản về
Hợp đồng cho thuê tài chính ở việt nam
II.1. Chủ thể của hợp đồng cho thuê tài chính.
Chủ thể của mỗi quan hệ hợp đồng là những bên tham gia quan hệ hợp
đồng. Các chủ thể trong quan hệ hợp đồng đều đóng vai trò quan trọng và nó
góp phần vào việc xác định loại hợp đồng và từ đó phần nào xác định đợc nội
dung công việc của loại hợp đồng cũng nh cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khi có tranh chấp hợp đồng.
Chủ thể trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính khác so với chủ thể
trong quan hệ hợp đồng thuê tài sản thông thờng và trong quan hệ hợp đồng
tín dụng. Sự khác biệt này không chỉ về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên trong hợp đồng, mà còn về số lợng các chủ thể tham gia vào quan hệ
hợp đồng.
Trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài sản thông thờng và quan hệ hợp
đồng tín dụng thờng chỉ bao gồm hai chủ thể bên cho thuê và bên thuê. Còn
trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính, ngoài hai chủ thể cơ bản của hợp
đồng thuê còn xuất hiện một chủ thể thứ ba trong quan hệ đó là nhà sản xuất
(hoặc nhà cung cấp thiết bị). Thực chất, chủ thể tham gia giao kết hợp đồng
cho thuê tài chính chỉ gồm hai bên: bên cho thuê và bên thuê. Nhng thông th-
ờng khi hai bên thoả thuận xong về các điều Khoản và đối tợng của hợp đồng
thuê sẽ làm xuất hiện bên thứ ba là nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị),
và khi đó bên thứ ba sẽ có trách nhiệm cung cấp đúng, đầy đủ các yêu cầu về
máy móc thiết bị của bên thuê.
Có thể nói rằng: Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại "hợp đồng tín

dụng đặc biệt" vì khi tham gia vào quan hệ hợp đồng thờng xuất hiện ba chủ
thể. Ngoài ra, trong một số trờng hợp, tham gia vào quan hệ hợp đồng cho
thuê tài chính có thể chỉ gồm hai bên chủ thể (ví dụ, hình thức thuê trực tiếp,
hình thức bán và tái thuê) và có thể có 4 bên hoặc nhiều hơn nữa (ví dụ, hình
thức thuê liên kết, thuê đòn bẩy)
Dới đây, chúng ta sẽ xem xét từng chủ thể trong một quan hệ hợp đồng
cho thuê tài chính thông thờng.
II.1.1. Bên cho thuê.
Theo thông lệ quốc tế, việc cho thuê thờng do các Công ty tài chính thực
hiện. Các Công ty này có thể là Công ty độc lập hoặc là Công ty thành viên
của một tập đoàn tài chính - ngân hàng.
25

×