THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI VÀ CÁC HUYỆN TRONG TỈNH
----------------------------------------------------------------------------
HUYỆN LÝ SƠN
LÝ SƠN là huyện đảo duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi, nằm chếch về phía đông bắc tỉnh,
cách đất liền 15 hải lý. Diện tích 9,97km
2
. Dân số 20.033 người (năm 2005). Mật độ dân số
2.009 người/km
2(1)
. Đơn vị hành chính trực thuộc gồm 3 xã (An Vĩnh, An Hải, An Bình;
huyện lị đóng ở xã An Vĩnh), với 6 thôn; trong đó:
Xã An Vĩnh nằm trên đảo lớn có 2 thôn: thôn Đông, thôn Tây;
Xã An Hải nằm trên đảo lớn có 3 thôn: Đồng Hộ, thôn Đông, thôn Tây;
Xã An Bình nằm trên đảo bé có 1 thôn: thôn Bắc.
Huyện Lý Sơn nối với tỉnh lỵ chủ yếu bằng đường biển qua cửa biển Sa Kỳ. Tuy là một đảo
nhỏ nhưng Lý Sơn có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh
Quảng Ngãi. Cư dân ở huyện đảo này là người Việt đã định cư và tạo lập được nhiều di sản
văn hóa quý báu. Đánh cá, trồng hành tỏi là sinh hoạt kinh tế đặc thù của huyện đảo.
*
* *
Về hành chính, đảo Lý Sơn có dân cư từ lâu đời, nhưng trở thành đơn vị hành chính cấp
huyện lại chưa lâu. Thuở xưa, cư dân ở Lý Sơn còn ít ỏi nên cơ chế hành chính chủ yếu phụ
thuộc vào đất liền. Vị trí quân sự được chú ý từ xưa. Giữa thế kỷ XV, Bắc quân Đô đốc Bùi
Tá Hán đem quân nhà Lê Trung hưng vào diệt Mạc, lấy lại thừa tuyên Quảng Nam, đã đi
theo đường biển và đổ quân lên đảo để diễn tập. Trước kia, Lý Sơn có một ít người Chăm
sinh sống nhưng chưa thấy tư liệu nào nói đến việc hoạch định đơn vị hành chính ở Lý Sơn.
Từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII dưới thời Lê Trung hưng và các chúa Nguyễn, cư
dân Việt từ đất liền ra đây lập nghiệp, lập An Hải phường và An Vĩnh phường. Đời vua Gia
Long, năm 1808, Lý Sơn đặt thành một tổng thuộc huyện Bình Sơn, gọi là tổng Lý Sơn,
vẫn có hai phường. Đời vua Đồng Khánh, hai phường Lý Sơn An Vĩnh và Lý Sơn An Hải
nằm trong tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn, về sau lại đặt tổng Lý Sơn. Thời Pháp thuộc, đảo
Lý Sơn có tên Pháp là Paulo Canton. Năm 1931, tổng Lý Sơn đặt là đồn Lý Sơn trực thuộc
tỉnh, có một viên Bang tá cai trị, nặng về quân sự. An Hải phường đổi thành xã Hải Yến,
An Vĩnh phường đổi thành xã Vĩnh Long.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đảo Lý Sơn được gọi là tổng Trần Thành với hai
xã Dương Sạ (Hải Yến cũ) và Vĩnh Long. Năm 1946, tổng Trần Thành đổi thành xã Lý
Sơn, một trong các xã thuộc huyện Bình Sơn, có Uỷ ban kháng chiến hành chính xã. Năm
1951, quân Pháp đánh chiếm đảo Lý Sơn và thiết lập ở đảo một khu vực hành chính, nhập
vào thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1954 đến năm 1975, Lý Sơn có hai xã Bình Vĩnh, Bình
Yến thuộc quận Bình Sơn dưới thời chính quyền Sài Gòn. Sau giải phóng 1975, hai xã vẫn
giữ nguyên tên cũ và thuộc huyện Bình Sơn. Ngày 1.1.1993, huyện Lý Sơn được thành lập,
hai xã của huyện là Bình Vĩnh và Bình Yến đổi tên là xã Lý Vĩnh và xã Lý Hải. Đến năm
2003, các tên xã đổi lại theo tên gọi truyền thống là xã An Vĩnh và xã An Hải. Do đặc thù
nằm ở một hòn đảo cách biệt, thôn Bắc xã Lý Vĩnh (đảo Bé) đồng thời tách lập thành một
xã gọi là xã An Bình. Huyện Lý Sơn có 3 xã: An Vĩnh, An Hải, An Bình (như đã kể trên).
Về tự nhiên, Lý Sơn là một đảo nhỏ nằm trong vùng nội thủy của Việt Nam, bốn phía là
biển. Lý Sơn là một cụm 3 đảo như những ngọn núi nhô cao giữa biển.
Đảo lớn nhất là đảo Lý Sơn (hay còn gọi là đảo Lớn, cù lao Ré), vì ở đây có nhiều cây ré
(một loài thực vật mọc hoang) với năm hòn núi được gọi là Ngũ Linh: núi Thới Lới, Hòn
Tai, Hòn Sỏi, núi Giếng Tiền, Hòn Vung, trong đó núi Thới Lới lớn nhất. Xưa ở Lý Sơn có
nhiều rừng, có suối, như rừng suối Truông, rừng Nhợ, rừng Cây Gạo, rừng Bà Bút, suối
Chình, suối Ốc… Trong đó có loài cây dầu (du thuỷ) được nhà nước phong kiến chú ý và
bắt nộp thuế sản vật. Rừng đã bị tàn phá từ nhiều đời trước và suối nước không còn. Đảo có
các trảng bằng (chủ yếu nằm dọc ở phía nam đảo), là khu dân cư và đất canh tác.
Đảo Bé nhỏ, nằm ở phía tây bắc đảo Lớn, còn gọi là cù lao Bờ Bãi, có cư dân ở (nay là xã
An Bình).
Phía đông nam đảo lớn có hòn Mù Cu, một bãi đất đá nhô lên giữa biển, không có người ở.
Vùng biển ở đảo Lý Sơn có nhiều cá, nhiều loại hải sản, nhiều san hô.
Lý Sơn có nhiều hang động tự nhiên như hang Câu, hang Cò, hang Kẻ Cướp, và nhiều vết
tích miệng núi lửa đã tắt.
Trong tổng số 997ha diện tích đất tự nhiên, tình hình sử dụng đất tính ở thời điểm năm
2005 như sau: 1) Đất nông nghiệp 392ha; 2) Đất lâm nghiệp 171ha; 3) Đất chuyên dùng
159ha; 4) Đất khu dân cư 55ha; 5) Đất chưa sử dụng 220ha.
Lý Sơn là đảo ven bờ, nên xưa kia, các thuyền buôn với điều kiện kỹ thuật thô sơ thường
ghé dừng lại nơi đây và để lại nhiều dấu ấn đậm nét trong giao lưu buôn bán và văn hóa.
Thời Pháp thuộc, ở cánh gà phía đông bắc thuộc xã An Hải trên đảo Lớn đã xây dựng trụ
đèn biển còn tồn tại đến ngày nay. Bọn cướp biển Tàu Ô xưa kia cũng thường ẩn nấp ở đây,
nay còn lưu truyền địa danh hang Kẻ Cướp. Huyện đảo Lý Sơn có một vị trí xung yếu về
quốc phòng.
Là một hải đảo, Lý Sơn ngoài những đặc điểm chung là khí hậu nhiệt đới gió mùa ở vùng đồng
bằng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, còn có đặc điểm riêng: dễ khô hạn về mùa nắng, thiếu nước
ngọt để sinh hoạt, chịu nhiều giông bão về mùa mưa. Năm 2005, nhiệt độ trung bình là
26,40
o
C, lượng mưa 1.970,7mm, giờ nắng trong năm 2.430,1 giờ, độ ẩm trung bình 86,6%.
Về dân cư, các phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy, cách nay 2.500 - 3.000 năm ở đảo
Lý Sơn đã có cư dân chủ nhân của Văn hóa Sa Huỳnh sinh sống, không như nhiều người
nhận định xưa là một hoang đảo. Cư dân sống dọc các suối cổ, bắt ốc và cá, có thể có cả
canh tác nông nghiệp để sinh sống. Cũng từ những phát hiện khảo cổ cho thấy kế tiếp đó là
lớp dân cư Chămpa cũng sống bằng khai thác hải sản và trồng rau củ, hoa màu. Từ cuối thế
kỷ XVI, những cư dân Việt ở hai bên cửa Sa Kỳ là An Vĩnh và An Hải ra khai thác và sinh
sống ở đảo, lập ra An Vĩnh phường và An Hải phường, 15 người thuộc 15 dòng họ gọi là
"thất tộc, bát hiền", trở thành 15 vị tiền hiền của đảo. Như vậy, khác với đất liền, nguồn gốc
cư dân Việt ở đảo Lý Sơn không trực tiếp từ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ di cư vào, mà từ
vùng đất liền tỉnh Quảng Ngãi di chuyển ra sinh sống.
Do đặc thù cách biệt với đất liền, lại không chịu sự tàn phá của chiến tranh, mà văn hóa do
người Việt tạo lập tại Lý Sơn mang rất đậm dấu ấn văn hóa cổ truyền và các di sản được
lưu giữ khá tốt, ít bị mất mát, hư hại, tuy việc học ở đảo phát triển chậm hơn nhiều so với
đất liền.
Dân số trên đảo Lý Sơn có sự phát triển khá nhanh. Năm 1930 - 1931, số dân có khoảng
4.000 người. Năm 1962, số dân có khoảng 6.400 người. Năm 1990, số dân có khoảng
16.260 người. Năm 2000, số dân có khoảng 18.500 người. Năm 2004, số dân có khoảng
19.802 người. Năm 2005, số dân là 20.033 người.
Mật độ dân số ở Lý Sơn năm 2005 là 2.009 người/km
2
, cao gấp 8 lần so với mật độ dân số
trung bình trong tỉnh Quảng Ngãi (250 người/km
2
, vốn đã rất cao), chỉ thấp hơn thành phố
Quảng Ngãi và cao tuyệt đối so với các huyện khác. Mật độ dân số cao, mà số đông vẫn là
làm nông đã đặt áp lực dân số rất lớn ở đảo.
Tình hình diện tích, phân bố dân cư tương đối cân phân giữa 2 xã trên đảo Lớn, riêng xã An
Bình biệt lập ở đảo Bé do điều kiện khó khăn, cư dân thưa hơn, như bảng kê sau đây của
năm 2005
(2).
TT Xã Diện tích (km
2
) Dân số (người)
Mật độ dân số
(người/km
2
)
1 An Vĩnh 4,25 11.380 2.678
2 An Hải 5,09 8.214 1.614
3
An Bình
0,63
439 697
Cư dân huyện đảo Lý Sơn có một truyền thống yêu nước đáng chú ý. Trải các thời phong
kiến, Lý Sơn là nơi tập trung dân binh góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ quyền
của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài khơi biển Đông. Điều này được
ghi chép rất rõ trong các thư tịch cổ như: Phủ biên tạp lục, Lịch triều hiến chương loại chí,
Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Quảng Ngãi tỉnh chí... cùng nhiều di tích, tư
liệu, thư tịch tại chỗ và các câu ca dao còn lưu truyền ở địa phương:
Hoàng Sa đi có về không
Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi...
Đời Tây Sơn, đảo Lý Sơn là vị trí xung yếu và nơi tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh.
Thời phong kiến tự chủ, bọn giặc Tàu Ô thường xuyên đổ bộ vào cướp của giết người, nhân
dân Lý Sơn đã phải kháng cự, đánh đuổi cướp biển. Trong thời Pháp thuộc, phong trào Duy
tân, Đông du cũng lan đến Lý Sơn tuy chưa để lại dấu ấn gì sâu đậm. Từ khi Tỉnh bộ Việt
Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Quảng Ngãi được thành lập (1926), tư tưởng cách mạng đã
dần dần hình thành. Sau khi Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi được thành
lập, tháng 2.1931, chi bộ Đảng Cộng sản ở Lý Sơn cũng hình thành. Từ đây nhân dân Lý Sơn
có sự lãnh đạo của Đảng, là một bước ngoặt trọng đại trong phong trào yêu nước của nhân
dân Lý Sơn. Cờ Đảng được treo ở đảo, các cuộc mít tinh được tổ chức, truyền đơn vận động
cách mạng được rải ở nhiều nơi; có khi bị địch đánh phá, lực lượng cách mạng có tổn thất
nặng, đứt liên lạc với cấp trên trong đất liền, nhưng nhìn chung phong trào cách mạng ở Lý
Sơn được chắp nối liên tục và hòa nhịp với phong trào ở đất liền. Sau hai ngày Cách mạng
tháng Tám thành công trong đất liền, ngày 16.8.1945, cán bộ và nhân dân đảo Lý Sơn đã nổi
dậy khởi nghĩa lật đổ chính quyền thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, cán bộ và nhân dân Lý
Sơn đã tích cực giữ đảo, đóng góp vào kháng chiến, đấu tranh với bọn Quốc dân Đảng đang
hoạt động lén lút. Tháng 9.1951, quân Pháp đổ bộ đánh chiếm đảo, lập đồn ở đảo để cai trị
khủng bố nhân dân và khống chế vùng biển tỉnh Quảng Ngãi. Nhiều đảng viên và quần
chúng bị bắt và đày ải. Cán bộ cách mạng phải rút vào hoạt động bí mật. Trong thời kỳ
1954 - 1975, Lý Sơn tiếp tục nằm trong vòng kiểm soát của địch. Tháng 10.1962, chi bộ
Đảng Lý Sơn được thành lập lại, trở thành nhân tố quyết định cho phong trào cách mạng ở
Lý Sơn. Do địch đóng đồn và kiểm soát ngặt nghèo nên hoạt động cách mạng ở Lý Sơn gặp
rất nhiều khó khăn, nhưng luôn được liên tục, bằng các hình thức thích hợp. Sau ngày giải
phóng Quảng Ngãi 24.3.1975, hải quân và lục quân chính quyền Sài Gòn với 12.000 quân
tháo chạy tập trung về Lý Sơn để trốn tránh, cố thủ. Ngày 31.3.1975, sau 1 tuần giải phóng
Quảng Ngãi, quân giải phóng đã đẩy lùi được địch và giải phóng đảo, chấm dứt ách thống
trị của địch kéo dài suốt gần 25 năm. Qua các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tấm lòng
yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân huyện đảo Lý Sơn khá nổi bật.
*
* *
Về kinh tế, Lý Sơn chủ yếu là kinh tế nông - ngư nghiệp. Tuy ở đảo nhỏ hẹp, khó khăn về
nguồn nước, nhưng dân cư sống bằng nghề nông vẫn chiếm nhiều nhất. Cụ thể năm 2005,
trong tổng số 9.475 lao động thì đã có 4.164 lao động nghề nông, 3.420 lao động ngư
nghiệp, 635 lao động công nghiệp và xây dựng, 615 lao động thương mại - dịch vụ.
Trong nông nghiệp, Lý Sơn không trồng được lúa, chỉ trồng trọt các loại cây lương thực,
thực phẩm khác. Lúa gạo chủ yếu mua từ đất liền chở ra đảo. Có nhiều cây trồng rất phổ
biến ở đất liền Quảng Ngãi nhưng có rất ít ở Lý Sơn như cây dâu, cây mía, vì đất đai trồng
trọt ở đảo rất hạn hẹp (đất nông nghiệp 392ha), lại thiếu nguồn nước tưới. Người dân Lý
Sơn từ xưa chủ yếu trồng cây ngô, đậu, gai (đay), rau và khoai lang, khoai mì. Từ khoảng
năm 1960, cây hành, cây tỏi được trồng phổ biến và trở thành cây trồng đặc chủng của Lý
Sơn vì nó tỏ ra rất thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết ở đảo. Diện tích gieo trồng
cây lương thực có hạt ở huyện Lý Sơn chỉ vỏn vẹn 243ha (năm 2004), với sản lượng cây
lương thực có hạt chỉ có 1.486 tấn (trong đó xã An Vĩnh 817 tấn, xã An Hải 669 tấn), bình
quân 74,60kg/người/năm; năm 2005 sản lượng lương thực là 1.524 tấn (xã An Vĩnh 838
tấn, xã An Hải 686 tấn), bình quân lương thực đầu người 76kg, thấp tuyệt đối so với tất cả
các huyện, thành phố trong tỉnh Quảng Ngãi. Lương thực được tính chỉ là ngô. Tuy nhiên,
lương thực không phải là nguồn sống chính của cư dân Lý Sơn.
Cho đến nay, việc trồng hành, tỏi vẫn rất thịnh đạt, hành tỏi Lý Sơn ngon nổi tiếng không chỉ
trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi. Nhờ hành tỏi, nông dân ở Lý Sơn có đời sống tương đối ổn
định. Thời điểm 2005, diện tích trồng tỏi là 297ha, sản lượng 1.557 tấn (trong đó xã An
Vĩnh 146ha, 796 tấn; xã An Hải 151ha, 761 tấn); diện tích trồng hành 282,4ha, sản lượng
1.790 tấn (trong đó xã An Vĩnh 139ha, 898 tấn; xã An Hải 117,4ha, 671 tấn; xã An Bình
26ha, 221 tấn). Diện tích hành tỏi năm 2005 tuy lớn, nhưng giảm sút so với năm 2004, vì có
sự chuyển qua cây trồng khác. Dưa hấu phát triển. Năm 2005, có 49ha dưa hấu với sản lượng
400 tấn. Tuy nhiên, việc trồng hành tỏi ở Lý Sơn không phải dễ dàng. Hằng năm, người nông
dân phải tải đất đỏ từ trên cao về trải đều trên mặt đất, lại tải cát từ bãi biển lên trải ở lớp trên,
để có đất tốt cho cây phát triển. Không chỉ tốn quá nhiều công sức, việc lấy đất cát như vậy
còn có tác hại đến môi trường, gây tình trạng sạt lở, sóng biển xâm thực, biển lấn sâu vào
đảo.
Ngoài ngô, hành, tỏi, ở Lý Sơn còn trồng một số loại cây khác, cụ thể như sau
(3)
: 1) Rau:
năm 2004 diện tích 580ha, sản lượng 4.356 tấn; năm 2005 diện tích 595ha, sản lượng 3.420
tấn; 2) Đậu các loại: năm 2004 diện tích 30ha, sản lượng 36 tấn; năm 2005 diện tích 28ha,
sản lượng 28 tấn; 3) Vừng: năm 2004 diện tích 125ha, sản lượng 59 tấn (không có số liệu