Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng đông nam bộ đến năm 2030 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.74 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ LÝ HOÀI TÂN

THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG VỀ KINH
TẾ Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ ĐẾN NĂM 2030
VẬN TÀI THỦY-BỘ
NỘI ĐỊA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ngành:
Mã số:

Kinh tế phát triển
9.31.01.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2019


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Tập thể hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Lê Thanh Sang
2. GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài

Phản biện 1:
Phản biện 2:


Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Vào hồi …….giờ, ngày ……… tháng …… năm ……

Có thể tìm hiểu luận án tại:
-

Thư viện Học viện Khoa học xã hội

-

Thư viện Quốc gia Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững (PTBV) và tăng trưởng bền vững (TTBV) dựa
trên sự kết hợp hài hòa của cả ba trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường và đáp
ứng nhu cầu thế hệ mai sau từ đó nổi lên là chiến lược hiệu quả nhất để
hướng đến quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn sau khi
nhận được sự ủng hộ của các thành viên tham gia Hội nghị UNCED tổ
chức tại Rio de Janeiro năm 1992 và Hội nghị WSSD tổ chức ở
Johannesburg năm 2002. Tại Việt Nam, các Văn kiện từ Đại hội VII đến
Đại hội XII của Đảng luôn khẳng định phải thực hiện phương hướng PTBV
là cơ sở để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong đó, thực
hiện phát triển và tăng trưởng bền vững về kinh tế ở phạm vi vùng, đặc
biệt là các vùng kinh tế quan trọng như vùng Đông Nam Bộ (ĐNB), cũng

được đề ra như là một nhiệm vụ quan trọng để thực hiện phương hướng
PTBV cả nước.
Vùng ĐNB là vùng có nhiều lợi thế so sánh về mặt địa lý, khí hậu
thuận lợi, tài nguyên khoáng sản, nguồn nhân lực dồi dào. Bên cạnh các
thành tựu đạt được như Tốc độ tăng trưởng GDP của vùng, đặc biệt là
những tỉnh thành như TPHCM (9,6%), Bình Dương (11,3%) hay Đồng
Nai (12%), cao hơn so với mức tăng trưởng chung của cả nước
(5,6%/năm), là vùng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất cả
nước, tỉ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước (đạt mức 64,15%) …, nhưng vùng
ĐNB vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình PTBV và TTBV
về kinh tế: trong khi TPHCM, các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bà RịaVũng Tàu cho thấy sự phát triển mọi mặt một cách nhanh chóng thì tốc độ
tăng trưởng của Bình Phước và Tây Ninh rõ ràng vẫn chưa đáp ứng được
kỳ vọng và tiềm năng thực sự của 2 tỉnh này trong suốt thời gian qua; tăng
trưởng kinh tế ở vùng chủ yếu dựa vào các yếu tố tăng trưởng chiều rộng
như các nguồn lao động chưa qua đào tạo, tăng đầu tư vốn, tăng cường
khai thác nguồn tài nguyên; dân cư tập trung chủ yếu ở Bình Dương và
TPHCM; môi trường sinh thái tại các địa phương bị xuống cấp, ô nhiễm
trầm trọng .
Cho đến nay, không thể phủ nhận rằng có không ít các công trình
nghiên cứu vùng của các tỉnh, các nghiên cứu phát triển vùng kinh tế, vùng
kinh tế trọng điểm của Bộ, Nhà nước và các quy hoạch cấp tỉnh, địa
phương. Mặc dù có giá tị tham khảo và xây dựng kế hoạch phát triển địa
phương, các kết quả công trình này chủ yếu vẫn ở dưới dạng các bản quy

1


hoạch, trong đó đưa ra hướng phát triển các ngành và tính toán xác định
nguồn lực phát triển vùng (Nguyễn Xuân Thu, 2006: 6). Nói cách khác,
các công trình tập trung phân tích, đánh giá thực trạng TTBV về kinh tế ở

vùng như vùng ĐNB, chỉ ra những thành tựu và hạn chế trong quá trình
tăng trưởng kinh tế của vùng, và tìm kiếm các giải pháp và hướng đi mới
cho chiến lược thúc đẩy TTBV về kinh tế tại vùng nhằm ứng phó hiệu quả
với những bất ổn và thử thách trong tương lai vẫn còn chưa có nhiều. Nhằm
đáp ứng yêu cầu trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Thúc đẩy tăng
trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030” làm luận
án tiến sỹ nhằm đóng góp vào cơ sở lý luận và thực tiễn về đánh giá TTBV
về kinh tế vùng, từ đó giúp cho vùng ĐNB có thể đưa ra những giải pháp
phù hợp để thúc đẩy TTBV về kinh tế.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án nhằm làm rõ hơn nữa những vấn đề lý luận cơ bản về tăng
trưởng kinh tế và định hướng tăng trưởng kinh tế vùng theo hướng bền
vững. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp thúc
đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế tại vùng ĐNB trong tầm nhìn đến năm
2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý thuyết về tăng trưởng bền vững kinh tế vùng và xây
dựng các tiêu chí, chỉ số phản ánh, chỉ tiêu đo lường và đánh giá sự tăng
trưởng bền vững kinh tế vùng;
Đánh giá thực trạng mô hình tăng trưởng kinh tế vùng ĐNB theo các
tiêu chí và chỉ số tăng trưởng kinh tế bền vững để xác định những hạn chế,
yếu kém, và nguyên nhân;
Đề xuất các chỉ tiêu tăng trưởng bền vững kinh tế vùng ĐNB đến năm
2030 và các giải pháp thực hiện, thúc đẩy nhằm đạt được các chỉ tiêu đã
đề xuất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là tăng trưởng bền vững về kinh tế của một vùng, ở đây là vùng ĐNB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về không gian: Vùng nghiên cứu của luận án là vùng lãnh
thổ ĐNB, trên địa bàn của 6 tỉnh, thành phố gồm Thành phố Hồ Chí Minh,
Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Phước và Tây Ninh. .
Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu thực trạng tăng trưởng kinh
tế bền vững về kinh tế vùng ĐNB, trong đó tập trung từ năm 2008 đến năm
2017.

2


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên những quan điểm chung về phát
triển kinh tế và định hướng PTBV về kinh tế trong mối tương quan với
những trụ cột khác của PTBV là xã hội và môi trường. Việc tổ chức và
phân tích dữ liệu dựa trên những cơ sở lý luận chủ yếu sau:
Các lý thuyết về PTBV, TTBV và tăng trưởng kinh tế theo hướng bền
vững.
Kế thừa thành tựu và kết quả nghiên cứu từ các công trình nghiên cứu
có liên quan đến nội dung của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích thống kê: được sử dụng để lượng hóa và phân
tích số liệu thu thập được có liên quan đến thực trạng kinh tế - xã hội –
môi trường, từ đó làm rõ thực trạng TTBV về kinh tế của vùng ĐNB.
Phương pháp đánh giá logic: được sử dụng trong việc nghiên cứu vấn
đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ với PTBV, đánh giá
thực trạng quá trình PTBV về kinh tế tại vùng ĐNB trong suốt thời gian
qua thông qua các phân tích lợi thế đặc thù của toàn vùng ĐNB và đưa ra
những nhận định và đánh giá phù hợp.
Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh số liệu liên quan của

vùng ĐNB ở từng thời điểm khác nhau, của vùng ĐNB với cả nước ở cùng
một thời điểm.
Ngoài ra một số phương pháp khác cũng được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu như phương pháp diễn giải, quy nạp…
5. Những đóng góp của luận án
Đúc kết bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện thúc đẩy tăng
trưởng bền vững về kinh tế vùng tại một số nước trên thế giới có thể áp
dụng cho vùng ĐNB.
Hệ thống hóa và bổ sung lý luận về TTBV về kinh tế vùng.
Xây dựng hệ tiêu chí để đánh giá tăng trưởng bền vững về kinh tế
vùng nói chung và vùng ĐNB nói riêng.
Hệ thống hóa các số liệu phản ánh thực trạng TTBV về kinh tế vùng
ĐNB giai đoạn 2008-2017.
Trình bày và áp dụng phương pháp đánh giá toàn diện để xác định
mức độ bền vững trong TTKT vùng ĐNB giai đoạn 2008-2017.
Đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu để thúc đẩy TTBV về
kinh tế vùng ĐNB giai đoạn đến năm 2030.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1 Ý nghĩa lý luận

3


Luận án thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để định hướng cho
các công trình nghiên cứu mới đối với những vùng khác hoặc có quy mô
trải rộng hơn.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận án đề xuất một hệ tiêu chí để đánh giá TTBV về kinh tế cho các
vùng.
Luận án có thể được dùng để thiết kế chính sách tăng trưởng kinh tế

vùng cho vùng ĐNB sao cho phù hợp với bối cảnh mới của quốc tế và cả
nước hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm các chương như sau:
Chương 1: Tập trung tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài
nước liên quan đến nội dung của luận án.
Chương 2: Trình bày một số vấn đề cơ sở lý luận liên quan đến TTBV
về kinh tế vùng bao gồm các khái niệm, cơ sở lý thuyết, mô thức, và yếu
tố ảnh hưởng; đánh giá các kinh nghiệm quốc tế và những bài học có thể
rút ra cho quá trình TTBV về kinh tế vùng ở Việt Nam.
Chương 3: Phân tích thực trạng TTBV về kinh tế tại vùng ĐNB, đánh
giá những thành tựu và hạn chế của quá trình TTBV về kinh tế của vùng
ĐNB trong giai đoạn 2008-2017
Chương 4: Phân tích bối cảnh mới trong nước và quốc tế, đưa ra
những dự báo về tăng trưởng của vùng ĐNB, từ đó đề ra một số quan điểm
và giải pháp thúc đẩy TTBV về kinh tế vùng đến năm 2030.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG KINH TẾ VÙNG

1.1.Công trình nghiên cứu quốc tế
1.1.1. Công trình nghiên cứu về mô hình tăng trưởng kinh tế
Tác phẩm “Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of
Nations” (Sự thịnh vượng của các quốc gia) của Adam Smith (1776) cho
rằng xã hội là tổng hợp của các cá nhân – con người kinh tế, là liên minh
của những quan hệ trao đổi. Ngoài ra, ông cũng cho rằng mọi hoạt động
trao đổi của cá nhân đều chịu sự chi phối của tính ích kỷ và lợi ích cá nhân
của mình. Tuy nhiên, do sự tác động của “Bàn tay vô hình” sẽ buộc con
người kinh tế phải bảo vệ lợi ích chung của xã hội nếu muốn bảo vệ lợi ích

của bản thân, bất kể điều này vốn không nằm trong dự định. Cũng trong
tác phẩm này, Adam Smith đồng thời trình bày về thuyết “Tích lũy tư bản”.

4


Ông lập luận rằng cội nguồn của của cải lao động, tài sản của xã hội phụ
thuộc vào 2 nhân tố: Số lượng lao động trong hoạt động sản xuất vật chất;
sự phát triển của hoạt động phân công lao động để tăng năng suất sản xuất.
Thuyết “Tích lũy tư bản” của Adam Smith sau đó được kế thừa và
phát triển bởi nhà kinh tế học David Ricardo (1817) với tác phẩm tiêu biểu
“On the Principles of Political Economy and Taxation” (Những nguyên lý
của kinh tế chính trị và thuế khóa).
Mô hình Harrod - Domar là sự kết hợp của 2 công trình nghiên cứu
độc lập của 2 nhà kinh tế học Roy Harrod (1939) và Evsey Domar (1946).
Harrod – Domar nhận định rằng đầu tư chính là cơ sở để tạo nên vốn sản
xuất tương lai và vốn sản xuất đóng vai trò quan trọng đối với sự gia tăng
quy mô của nền kinh tế, hay nói cách khác, bằng cách thúc đẩy tỷ lệ tiết
kiệm hay khối lượng vốn vào đầu tư thì sẽ đẩy mạnh tăng trưởng.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện
đại dẫn đến sự ra đời của mô hình tăng trưởng Solow (1956) với thuyết
“Kỹ trị” đã đem lại nhiều đóng góp mới trong lý luận tăng trưởng kinh tế.
Trong đó, Solow đề cao vai trò của tiến bộ kỹ thuật đến sự tăng trưởng
kinh tế khi cho rằng chính sự phát triển trong phương pháp sản xuất là cơ
sở để duy trì gia tăng qui mô của nền kinh tế, từ đó dẫn đến tính bền vững
của tăng trưởng kinh tế.
Thông qua việc kế thừa và vận dụng khái niệm tư bản của kinh tế học
cổ điển, Schultz chia tư bản làm 2 hình thức là tư bản thông thường và tư
bản nhân lực. Ông cho rằng việc phát triển các mặt y tế, giáo dục, an ninh
xã hội thông qua đầu tư sẽ làm tăng chất lượng, chuyên môn và kỹ thuật

của con người lao động. Tư bản thông thường nhờ đó trở thành tư bản nhân
lực (vốn nhân lực), từ đó nâng cao sản lượng sản xuất và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế lâu dài. Lucas (1988) xây dựng mô hình tăng trưởng của
tích lũy tư bản nhân lực chuyên môn hóa để bổ sung và phát triển thêm
thuyết “Tư bản nhân lực”. Theo đó, ông chia tư bản làm 2 loại là “tư bản
hữu hình” (vốn vật chất) và “Tư bản vô hình” (vốn nhân lực).
Sự trỗi dậy mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa đòi hỏi sự ra đời của
luồng lý luận mới, thuyết “tăng trưởng mới”, với 2 đại diện tiêu biểu là
Romer (1986, 1990) và Scott (1989) nhằm giải thích tăng trưởng kinh tế
trong nền kinh tế toàn cầu. Các quan điểm của Romer được củng cố bởi
nghiên cứu của Scott (1989) với mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư tư
bản. Trong bài viết của mình, ngoài việc nhấn mạnh vai trò của đầu tư với
tăng trưởng kinh tế (do đầu tư là nguồn gốc dẫn đến tiến bộ kỹ thuật và
tích lũy vốn nhân lực), Scott ủng hộ quan điểm kinh tế học cổ điển khi cho

5


rằng vốn và lao động là nhân tố quyết định “tăng trưởng đầu ra” (output
growth).
Việc đối mặt với các cuộc suy thoái kinh tế bởi các tác động tiêu cực
từ tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên
đặt ra yêu cầu cấp bách đối với nền kinh tế thế giới là phải thực hiện tái
cấu trúc và thay đổi mô hình tăng trưởng mới để đảm bảo sự tăng trưởng
và phát triển được bền vững. Phần lớn nhà kinh tế học xanh đều đồng ý để
thêm yếu tố nguồn vốn sinh thái vào mô hình tăng trưởng kinh tế và cho
rằng đó là động lực quyết định đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Một
mặt, vẫn nhìn nhận vai trò thiết yếu của các yếu tố vốn, đầu tư, lao động
và tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế; mặt khác, bổ sung và nhấn
mạnh vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với tăng trưởng kinh tế và tính

cấp thiết của việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên để thực hiện tăng
trưởng, cũng như nhấn mạnh và mở rộng vai trò của chính phủ trong tăng
trưởng dài hạn
1.1.2. Công trình nghiên cứu về tăng trưởng vùng
1.1.2.1. Các lý thuyết tăng trưởng cân đối trong kinh tế
Các nhà kinh tế học thuộc trường phái này cho rằng trong quá trình
phát triển và tăng trưởng, tất cả các ngành có liên quan mật thiết với nhau,
theo mối quan hệ đầu vào ngành này là đầu vào của ngành kia. Vì vậy, họ
ủng hộ hướng tăng trưởng cân bằng cung cầu trong sản xuất, đặc biệt là
trong lĩnh vực công nghiệp, và xem đó là cách thức tối ưu để đạt được một
sự phát triển cân đối của nền kinh tế ở một vùng, lãnh thổ.
Một số đại diện tiêu biểu của trường phái này bao gồm: (1) Lý thuyết
cú hích lớn của Rosenstein-Rodan (1943), (2) Vòng luẩn quẩn của sự
nghèo đói của Nurkse (1961)
1.1.2.2. Các lý thuyết về tăng trưởng không cân đối trong kinh tế
Nhóm lý thuyết này cho rằng việc tăng trưởng kinh tế hoạt động dựa
theo quy luật của sự tăng trưởng không đồng đều, có sự khác biệt và đặc
thù nên duy trì sự cân đối trong cơ cấu liên ngành là không thật sự cần
thiết. Các hàm ý về liên kết vùng, bao gồm liên kết nội vùng và liên vùng,
cũng bắt đầu được nêu lên và bàn luận.
Một số đại diện tiêu biểu của trường phái này bao gồm: (1) Lý thuyết
cực tăng trưởng của Perroux (1950) và Hirschmann (1969), (2) Lý thuyết
trung tâm - ngoại vi của Friedman (1966), (3) Lý thuyết chữ U ngược của
Kuznet (1955) và Williamson (1965).

6


1.1.3. Công trình nghiên cứu tăng trưởng bền vững về kinh tế
Báo cáo Brundtland đồng thời nhấn mạnh rằng xu hướng tăng trưởng

hiện tại đang không bền vững. Chính vì lý do đó, để đảm bảo sự PTBV thì
việc giảm thiểu tình trạng nghèo đói thông qua tăng trưởng kinh tế không
chỉ là nhiệm vụ của các quốc gia kém phát triển mà còn là yêu cầu cần phải
được thực hiện bởi các nước phát triển trên thế giới thông qua việc đầu tư
nguồn vốn vào các quốc gia kém phát triển hơn để thúc đẩy quá trình toàn
cầu hóa và đẩy mạnh tự do thương mại giữa các quốc gia, tạo tiền đề cho
sự PTBV toàn cầu (Hoyer và Naess, 2001). Tăng trưởng kinh tế, thường
được xác định bằng GDP và GDP per capita, là giải pháp hữu hiệu nhất để
giải quyết vấn đề bất bình đẳng về điều kiện sống giữa các quốc gia. Nói
cách khác, tăng trưởng kinh tế, dưới hình thức tăng trưởng thu nhập, là
điều kiện bắt buộc để quá trình PTBV được đảm bảo (Kemp và Martens,
2007; Martens và Raza, 2010).
Tăng trưởng kinh tế để đạt được sự bền vững trong thời điểm hiện tại
cần nhấn mạnh nhiều đến các yếu tố công nghiệp hóa và đô thị hóa
(Ogbimi, 2007). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng là một nội dung thường
được đề cập đến trong các nghiên cứu liên quan đến tăng trưởng kinh tế
nói chung và TTBV về kinh tế nói riêng. Nghiên cứu của Temin (1999) đi
sâu hơn về việc tìm hiểu mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tăng trưởng kinh tế thông qua việc xem xét những thay đổi trong dòng
chảy của lao động nông nghiệp ở 15 quốc gia Châu Âu trong thời kỳ 19551975. Tác giả sau đó đưa ra kết luận rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu
hướng tăng 0,8% nếu tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động
giảm 20%. Mặc dù vậy, nhiều nghiên cứu lại cũng cho rằng chuyển dịch
cơ cấu theo hướng hiện đại hóa không đồng nghĩa với việc chỉ xem trọng
các ngành công nghiệp hiện đại công nghệ cao và bỏ rơi vai trò quan trọng
của ngành nông nghiệp và công nghiệp truyền thống. Nghiên cứu của
Spence và cộng sự (2010) thông qua phân tích thực trạng phát triển kinh
tế tại Trung Quốc và Thái Lan đã kết luận rằng sự tăng trưởng trong nông
nghiệp là một trong những điều kiện quan trọng để giải phóng lao động
sang các ngành khác và vì phần lớn người nghèo tập trung sinh sống ở khu
vực nông thôn nên việc tăng năng suất nông nghiệp có tác động tích cực

đến việc xóa đói giảm nghèo.

7


Có thể nói rằng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có đóng góp
đáng kể đến tăng trưởng kinh tế và vai trò của nhà nước thể hiện ở chỗ đưa
ra những chính sách phù hợp để đảm bảo hướng chuyển được thực hiện
thuận lợi, từ đó giúp cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia được giữ
vững trong suốt thời gian tiếp theo (Peneder, 2001). Bên cạnh đó, kế thừa
quan niệm của các lý thuyết tăng trưởng kinh tế tân cổ điển và mới, nhiều
nghiên cứu tìm hiểu về vai trò của vốn nhân lực (vốn con người) trong đảm
bảo tính bền vững trong tăng trưởng trong nền kinh tế hiện đại. Altinok
(2007) cho rằng có sự tồn tại mối quan hệ nhân – quả giữa chất lượng giáo
dục và chất lượng vốn con người. Theo đó, sự cải tiến và hoàn thiện hóa
trong giáo dục là nhân tố quyết định đối với sự nâng cao chất lượng vốn
con người, từ đó dẫn đến sự TTBV về kinh tế của mỗi quốc gia.
Bên cạnh đó, nhiều vấn đề được đặt ra khi xem xét mối liên hệ giữa
TTBV về kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên. Trong bài nghiên cứu
của mình, Solow (1991) nhấn mạnh rằng việc xem tăng trưởng kinh tế như
là điều kiện duy nhất để xóa nghèo đói có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu
cực đến thế hệ tương lai. Do đó, Solow (1993) lập luận rằng các nền kinh
tế của mỗi quốc gia cần phải tìm ra cách trả phí môi trường đối với nguồn
tài nguyên đang cạn kiệt dần như là một phần tất yếu để đảm bảo yêu cầu
cần thiết cho một quá trình PTBV liên thế hệ được diễn ra thuận lợi. Tuy
nhiên, không ít nhà kinh tế học, trong đó nổi bật có nhà kinh tế học Daly
(1993, 1996), nhận định rằng tất cả vật chất trong môi trường sinh quyển
của thế giới này đều bị giới hạn về số lượng. Chính vì lý do đó, khả năng
về một sự thay thế vô hạn của nguồn vốn nhân tạo cho vốn tự nhiên như
nhận định của Solow (1993) là không thật sự khả thi.

Sự hữu hạn của vốn tự nhiên, khả năng thay thế hữu hạn của nguồn
vốn nhân tạo cùng với sự gia tăng của ô nhiễm môi trường dẫn đến yêu
cầu cấp thiết về sự can thiệp của Chính phủ nhằm đưa ra những chính lược,
chính sách để quản lý và bảo vệ nguồn năng lượng quý giá này. Beckerman
(1992) lên tiếng mạnh mẽ về hành động làm giảm đi sự chú ý của thực
trạng nóng lên toàn cầu và những vấn đề liên quan đến môi trường mà các
quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Kula (1998) chỉ ra rằng nhiều
chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước hiện nay bên
cạnh việc mở ra nhiều ngành công nghiệp mới góp phần vào việc đổi mới

8


cơ sở hạ tầng đô thị vẫn gây ra nhiều hệ quả khó lường do vấn đề môi
trường thường bị bỏ qua. Nghiên cứu sau đó chỉ ra những bất cập của các
chính sách phát triển kinh tế hiện nay là một trong những nguyên nhân dẫn
đến ô nhiễm môi trường trầm trọng và phát sinh vấn đề lãng phí nguyên
liệu ở nhiều nước.
Như vậy, có thể thấy rằng nhiều chính sách tăng trưởng đôi khi dẫn
đến những kết quả không mong muốn. Vì vậy, chính sách PTBV và TTBV
về kinh tế cần phải được đánh giá và xem xét khả năng thích nghi với yêu
cầu thực tiễn lúc đó và đòi hỏi mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ phải có
những tính toán trong việc quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên
quý giá này một cách hợp lý và hiệu quả nhất có thể để đảm bảo sự bền
vững trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
1.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tế nước ta đang ở ngưỡng
phát triển thấp và nhiều vùng còn có tỷ lệ nghèo đói cao, số lượng các
nghiên cứu khoa học tìm hiểu và đánh giá thực trạng của nền kinh tế Việt
nam trong định hướng PTBV và tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững

dần tăng lên. Thực tế cho thấy quá trình PTBV nói chung và TTBV về
kinh tế nói riêng tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu của
Hoàng Thị Chỉnh (2012) phân tích khái quát quy mô tăng trưởng bền vững
về kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2010 cũng chỉ rõ những
mặt còn yếu kém của các mô hình tăng trưởng kinh tế thời điểm đó. Chất
lượng nguồn nhân lực hay chất lượng vốn con người tác động mạnh mẽ
đến sự tăng trưởng kinh tế.
Nguyễn Xuân Dũng (2008) nhận định, sự phát triển của nền công
nghiệp Việt Nam dù nhanh ở một số vùng trọng điểm nhưng vẫn chưa thể
hiện được sự bền vững trong vấn đề khai thác tiềm năng và nguồn lực con
người.
Quá trình đô thị hóa cũng giữ vai trò quan trọng và có tác động không
nhỏ đến sự TTBV về kinh tế của một đất nước hay một vùng lãnh thổ. Tuy
nhiên, nhiều nghiên cứu cũng cho thấy những nghịch lý, mâu thuẫn trong
quá trình triển khai đô thị hóa nhằm thúc đẩy TTBV về kinh tế tại nước ta
hiện nay. Nguyễn Quang Vinh (2013) trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra
rằng mức độ đô thị hóa ở Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng sông

9


Cửu Long nói riêng vẫn còn thấp và chủ yếu tập trung nhiều ở một vài
thành phố lớn, do đó gây ra tình trạng di chuyển dân cư từ khu vực nông
thôn sang khu vực thành thị, và tình trạng ô nhiễm chất thải ở khu vực
nông thôn, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã
hội các khu vực nông thôn của vùng.
Trong quan niệm về PTBV, một trong những vấn đề quan trọng là tìm
được sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường (Lưu Đức
Hải & Nguyễn Ngọc Sinh, 2001). Luật Bảo vệ Môi trường được chỉnh sửa
bổ sung năm 2005 thể hiện rõ sự tiến bộ về mặt nhận thức của Nhà nước

Việt Nam về tác động môi trường với nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự
thiếu kinh nghiệm và năng lực quản lý hiệu quả từ các cấp chính quyền
cùng với việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu sớm chuyển Việt Nam thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại khiến vấn đề thực hiện nghiêm
chỉnh Luật Bảo vệ Môi trường nói trên vẫn còn gặp nhiều khó khăn và bị
xem nhẹ (Clausen và cộng sự, 2011, Lafferty và Hovden, 2003). Cụ thể,
bằng việc phân tích số liệu đáng lo ngại được thu thập từ Tổng cục Thống
kê và nhiều nguồn liên quan, Ngô Thị Thanh Trúc và cộng sự (2008) đã
chỉ ra sự bất ổn và thiếu bền vững trong vấn đề quản lý và sử dụng hóa
chất trong nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Ngoài ra,
sự tăng nhanh của các KCN ở nhiều vùng trong cả nước và sự hạn chế về
nguồn lực đầu tư trong thu gom, xử lý chất thải cũng như nhận thức về vấn
đề môi trường chưa cao ở các KCN này đã phát sinh ô nhiễm môi trường
(Phương Nhung, 2010; Lê Thanh Sang, 2013).
Các tác giả tại Việt Nam đã xác định các tiêu chí đánh giá quá trình
CNH, HĐH như là một phần trong việc xác định mức độ PTBV của quốc
gia hay từng khu vực. Nguyễn Kế Tuấn và cộng sự (2015) trong cuốn
chuyên khảo “Phát triển đất nước thành nước công nghiệp hiện đại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa” đã tập hợp khá đầy đủ các công trình nghiên
cứu của các tác giả trong nước đề xuất hệ tiêu chí đánh giá trình độ CNH,
HĐH của Việt Nam . Các nghiên cứu khác như nghiên cứu của Ngô Đăng
Thành và cộng sự (2009) đề xuất ra 3 nhóm tiêu chí cơ bản, một là nhóm
tiêu chí đánh giá sự phát triển kinh tế, hai là nhóm tiêu chí đánh giá sự phát
triển xã hội, và ba là nhóm tiêu chí đánh giá sự phát triển về môi trường,
để phản ánh mức độ tiến trình thực hiện công nghiệp hóa của nước ta hiện

10


nay. Đỗ Quốc Sam (2009) đã dựa trên cơ sở dữ liệu từ khoảng 20 nước

hoàn thành quá trình công nghiệp hóa trong những năm 1960-1970 đồng
thời kết hợp với các chỉ tiêu liên quan khác để xây dựng những tiêu chí cơ
bản, qua đó đánh giá quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam. Kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên, Nguyễn Hồng Sơn và cộng
sự (2014) cũng đề xuất bộ chỉ tiêu gồm 4 tiêu chí, bao gồm tiêu chí về thu
nhập/người, tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu, tiêu chí về PTBV cùng với
một số tiêu chí tham khảo, nhằm đánh giá cụ thể mức độ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Có thể thấy ràng, đối với nghiên cứu quốc tế, các nghiên cứu trên
mang một giá trị tham khảo cao khi đã khái quát rõ các yếu tố tác động
đến quá trình TTBV về kinh tế, đặt ra yêu cầu cấp thiết cho việc TTBV
nền kinh tế phải đi đôi với định hướng chính sách bền vững về môi trường
và xã hội thông qua một hệ thống quản lý xã hội hợp lý, và tiếp cận vấn đề
mang tính đa ngành, liên ngành. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu liên
quan chưa thật sự đưa ra được các chính sách và định hướng rõ ràng theo
từng giai đoạn tăng trưởng khác nhau, và chưa thể hiện rõ tính khả thi của
những phương pháp TTBV về kinh tế ở từng vùng, từng khu vực. Hầu hết
các công trình nghiên cứu trên được thực hiện với số liệu từ các nước Châu
Âu, Châu Mỹ với nền kinh tế khá khác biệt so với Việt Nam cũng là một
khiếm khuyết khó có thể bỏ qua.
Tổng quan các nghiên cứu trong nước cho thấy các công trình nghiên
cứu này thường tập trung nhiều ở phạm vi cả nước và tiếp cận ở nhiều giác
độ khác nhau. Nói cách khác, mặc dù có nhiều đề tài đề cập đến PTBV về
kinh tế trong thời gian qua nhưng không nhiều đề tài tập trung nghiên cứu
và đưa ra các chính sách cụ thể liên quan đến PTBV về kinh tế ở một vùng
lãnh thổ cụ thể. Ngoài ra, tương tự như các nghiên cứu quốc tế, hầu hết các
công trình nghiên cứu trong nước thường chú trọng đến việc đánh giá tác
động của một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế mà
chưa quan tâm nhiều đến đánh giá ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố đến
quá trình tăng trưởng kinh tế của quốc gia nói chung và của từng vùng nói

riêng. Ngoài ra, các phương thức cụ thể để nâng cao, thúc đẩy TTBV về
kinh tế và các nội dung quản lý và kiểm soát chính sách nâng cao TTBV
về kinh tế ở các cấp vẫn chưa được xác định thật sự rõ ràng. Việc xây dựng

11


các hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu nhằm đánh giá thực trạng TTBV về kinh
tế ở cấp vùng vẫn còn bị bỏ ngỏ. Cần nhấn mạnh rằng các hoạt động kinh
tế nhằm thúc đẩy phát triển và tăng trưởng là một quá trình diễn ra liên tục
không chỉ ở phạm vi mỗi quốc gia mà còn ở phạm vi mỗi vùng. Từ đó cho
thấy sự cần thiết của một công trình nghiên cứu chuyên sâu nhằm đánh giá
một cách toàn diện quá trình TTBV về kinh tế để trở thành nguồn tài liệu
quan trọng cho công tác định hướng chiến lược phát triển và tăng trưởng
kinh tế vùng sao cho quá trình này được diễn ra một cách bền vững.
Như vậy, chương 1 đã chỉ ra một số điểm còn hạn chế cũng như làm
rõ một số khoảng trống trong những nghiên cứu liên quan đến nội dung
luận án. Với lý do đó, luận án sẽ tập trung: (i) hệ thống hóa lại cơ sở lý
luận và thực tiễn trong việc đánh giá và xem xét thực trạng TTBV về kinh
tế vùng (ii) kế thừa và vận dụng cơ sở lý luận trên để xây dựng hệ thống
tiêu chí nhằm mục đích phân tích, đánh giá TTBV về kinh tế vùng, cụ thể
là vùng ĐNB; (iii) xác định tính đặc thù trong các yếu tố tăng trưởng kinh
tế của vùng ĐNB để đề xuất ra các giải pháp riêng biệt, phù hợp với các
đặc thù của vùng.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC
TẾ VỀ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG KINH TẾ VÙNG
2.1. Một số khái niệm về tăng trưởng bền vững kinh tế vùng
2.1.1. Vùng và kinh tế vùng
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh việc tìm ra khái niệm

chung về vùng lãnh thổ và vùng kinh tế, nhưng nhìn chung các khái niệm
liên quan đến vùng, vùng kinh tế đều thừa nhận mỗi quốc gia là sự tập hợp
của nhiều vùng lãnh thổ khác nhau và nhiều vùng kinh tế khác nhau sẽ tạo
thành nền kinh tế của quốc gia đó. Hiểu rộng hơn, trong khi vùng lãnh thổ
được định nghĩa là một hình thức tồn tại vật chất được giới hạn trong một
vùng không gian xác định thì vùng kinh tế được đánh giá là một không
gian vận động và phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực, là “một tổ hợp kinh
tế tương đối hoàn chỉnh có chuyên môn hóa kết hợp chặt chẽ với phát triển
tổng hợp” (Thôi Công Hào và cộng sự, 2002; Nguyễn Tiến Dũng, 2009).
2.1.2. Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
a. Tăng trưởng kinh tế

12


Theo Nafziger (1984), tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia
tăng hay giảm sút về sản lượng hoặc thu nhập bình quân đầu người của
một nền kinh tế của một quốc gia trong khoảng thời gian ngắn hạn (thường
là một năm) hay thời kỳ này so với thời kỳ trước đó. Sự gia tăng này được
thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng thu nhập. Trong đó, quy mô tăng
trưởng cho biết mức độ gia tăng nhiều hay ít của nền kinh tế, còn tốc độ
tăng trưởng được sử dụng nhằm so sánh một cách tương đối và phản ánh
sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
b. Phát triển kinh tế
Theo Nafziger (1984) thì phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế
kèm theo những thay đổi về phân phối sản lượng và cơ cấu kinh tế. Như
vậy, phát triển kinh tế phản ánh tất cả những thay đổi cả về kinh tế, xã hội,
chính trị, môi trường tự nhiên...Nói cách khác, phát triển kinh tế bao gồm
quá trình tăng trưởng, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (thường hướng
đến việc giảm tỉ lệ nông nghiệp và tăng dần tỉ lệ công nghiệp, dịch vụ trong

nền kinh tế) và sự chuyển biến ngày càng tốt hơn về mặt xã hội (tăng tuổi
thọ bình quân, giảm sự bất bình đẳng trong xã hội…).
2.1.3. Phát triển bền vững
Năm 1987, trong báo cáo Brundtland với tiêu đề "Our Common
Future”, Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED) đã lần đầu
tiên đề xuất một định nghĩa chính thức về PTBV là “sự phát triển thỏa
mãn nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng thỏa mãn
nhu cầu của thế hệ tương lai…” (WCED, 1987: 43).
Ở Việt Nam, Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam mà Thủ tướng
Chính phủ xác định rõ định hướng chiến lược PTBV là cần phải “đạt được
sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng
của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người
và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba
mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường” (Thủ
tướng Chính phủ, 2004: 21). Đại hội Đảng lần XI, lần XII đưa ra yêu cầu
Chiến lược kinh tế - xã hội suyên suốt trong giai đoạn 10 năm từ 2011 đến
2020 với nhiều nội dung quan trọng gắn liền với PTBV, trong đó xem
“phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo
nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và phát triển bền

13


vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách
phát triển kinh tế - xã hội" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011: 9).
2.1.4. Tăng trưởng bền vững về kinh tế
Theo Trần Bình Trọng (2003: 309), tăng trưởng bền vững về kinh tế
là “tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong thời gian
tương đối dài (thường là một thế hệ từ 20 – 30 năm)”. Ngoài ra, dựa trên
khái niệm PTBV và khái niệm tăng trưởng kinh tế, có thể khái quát rằng

tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững hay tăng trưởng bền vững về
kinh tế là duy trì sự ổn định về tăng trưởng kinh tế trong dài hạn nhằm đáp
ứng được các nhu cầu sống của con người mà vẫn duy trì được nguồn tài
nguyên thiên thiên và môi trường cho thế hệ tương lai.
2.2. Mô thức tăng trưởng bền vững kinh tế vùng và tiêu chí đánh giá
2.2.1. Mô thức tăng trưởng bền vững kinh tế
2.2.1.1. Hướng tiếp cận dưới góc độ kinh tế học
Theo Daly (1989) thì hiện nay có 2 mô thức TTBV phổ biến nhất, đó
là mô thức TTBV yếu (weak econmoc growth) và mô thức TTBV mạnh
(strong economic growth).
2.2.1.2. Hướng tiếp cận dưới góc độ môi trường
Theo hướng tiếp cận này thì có 4 mô thức tăng trưởng kinh tế, bao gồm:
a. Mô thức tăng trưởng kinh tế truyền thống
b. Mô thức tăng trưởng kinh tế thông qua khắc phục ô nhiễm, phục hồi
môi trường
c. Mô thức tăng trưởng kinh tế thông qua kiểm soát ô nhiễm môi trường
d. Mô thức tăng trưởng kinh tế xanh
2.2.2. Hệ thống tiêu chí đánh giá và phương pháp đánh giá tăng trưởng
bền vững kinh tế vùng
Luận án đã dựa trên hệ thống các chỉ tiêu cơ bản liên quan đến hệ
thống chỉ tiêu giám sát và đánh giá phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn
2011-2020, hệ thống tiêu chí đánh đá phát triển bền vững vùng của Việt
Nam giai đoạn 2011-2020 cùng với kế thừa các tiêu chí đánh giá mô hình
tăng trưởng mới theo tuyên bố của các nhà lãnh đạo APEC (2013) để cấu
trúc hệ thống các tiêu chí đánh giá TTBV vùng. Đây cũng là cơ sở để đánh
giá thực trạng TTBV về kinh tế vùng ĐNB giai đoạn 2008-2017, bao gồm:
5 thành tố với 15 yếu tố thành phần chia ra thành 48 chỉ số phản ánh chủ
yếu.

14



Bên cạnh đó, dựa trên nền tảng hệ tiêu chí đánh giá sự bền vững trong
tăng trưởng kinh tế của vùng được đề cập ở trên, do điều kiện thực tế khó
có thể thu thập hết tất cả số liệu các chỉ số, đề tài đề xuất hệ tiêu chí gồm
14 chỉ số có nguồn số liệu đầy đủ nhất liên tục từ năm 2008 đến năm 2017
để xác định mức độ bền vững trong tăng trưởng kinh tế của vùng ĐNB
trong giai đoạn 2008-2017.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng bền vững kinh tế vùng
2.3.1. Các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội trong vùng
Bao gồm: (1) Điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, địa hình, khí hậu ,
(2) Nguồn lực đất đai, tài nguyên thiên nhiên, (3) Nguồn lực con người ,
(4) Nguồn lực vốn đầu tư, (5) Khoa học và công nghệ.
2.3.2. Các yếu tố thể chế trong nước
Các yếu tố thể chế bao gồm môi trường kinh tế, môi trường chính trị,
môi trường pháp lý, và chính sách được ban hành và thực thi, có ảnh hưởng
trực tiếp lẫn gián tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng ngày
càng hoàn thiện và hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy sức mạnh
các ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế cũng như hỗ trợ cho mục tiêu
PTBV ở cấp quốc gia và cấp vùng lãnh thổ.
2.3.3. Các yếu tố và điều kiện quốc tế
2.4. Kinh nghiệm về tăng trưởng bền vững kinh tế vùng của một số
nước và bài học cho Việt Nam trong tăng trưởng bền vững kinh tế
vùng Đông Nam Bộ
2.4.1. Kinh nghiệm về tăng trưởng bền vững kinh tế vùng của một số
nước trên thế giới
2.4.1.1. Kinh nghiệm từ chính sách tăng trưởng bền vững về kinh tế
vùng ở Châu Á
a. Kinh nghiệm từ miền trung Thái Lan
b. Kinh nghiệm từ Miền Tây Trung Quốc

2.4.1.2. Kinh nghiệm từ chính sách tăng trưởng bền vững về kinh tế
vùng ở Châu Âu
Kinh nghiệm từ bang Schleswig-Holstein, Cộng hòa liên bang Đức
2.4.2. Một số bài học từ kinh nghiệm nước ngoài rút ra cho tăng
trưởng bền vững kinh tế vùng Đông Nam Bộ
Thứ nhất, cần tập trung phát triển và kiên trì xây dựng các ngành nghề
có năng suất lao động cao nhưng vẫn thể hiện được tính đặc trưng của
vùng, từ đó hình thành nên các ngành kinh tế mũi nhọn, các cực tăng
trưởng nhằm tạo nên hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy các ngành khác cùng phát
triển.

15


Thứ hai, cần phải tận dụng một cách triệt để các thế mạnh về mặt địa
lý địa hình tự nhiên để làm điểm tựa cho quá trình tăng trưởng kinh tế được
diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
Thứ ba, chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế cần có lộ trình
vững chắc, mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể, trong đó việc tích hợp tốt chiến
lược và kế hoạch phát triển từng lĩnh vực, từng ngành với sự tham gia của
các địa phương trong vùng là vô cùng cần thiết.
Thứ tư, cần có sự hỗ trợ và hợp tác giữa các bên từ chính quyền trung
ương, chính quyền địa phương với các doanh nghiệp nhằm thực hiện thành
công chiến lược tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, kinh nghiệm của bang Schleswig-Holstein (CHLB Đức)
cho thấy sự cấp thiết của việc huy động và xây dựng một cơ chế tài chính
ngân sách riêng biệt, một quỹ phát triển dành cho vùng ĐNB.
Thứ sáu, thực hiện TTBV về kinh tế phải đồng hành với việc thực
hiện bảo vệ môi trường, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
nhằm xây dựng môi trường sống sạch đẹp, văn minh hiện đại cho dân cư

cả nước nói chung và của mỗi vùng lãnh thổ nói riêng.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG VỀ KINH TẾ
VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
3.1. Khái quát thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng bền
vững kinh tế vùng Đông Nam Bộ
3.1.1. Các yếu tố kinh tế trong vùng
3.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
ĐNB là một trong hai vùng nằm ở khu vực phía Nam Việt Nam bên
cạnh vùng Tây Nam Bộ. Vùng ĐNB bao gồm 5 tỉnh Đồng Nai (ĐN), Bình
Dương (BD), Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT), Tây Ninh (TN), Bình Phước
(BP) và 1 thành phố trực thuộc trung ương là TPHCM. Vùng ĐNB có vị
trí địa kinh tế thuận lợi, có nguồn lực và tiềm năng phong phú về nhiều
mặt, có lợi thế lớn để mở rộng hợp tác giao lưu kinh tế với các vùng khác
ở trong nước và quốc tế.
b. Điều kiện đất đai – khí hậu
Vùng ĐNB có địa hình tương đối bằng phẳng với cấu tạo đất đa dạng.
Trong đó, đất xám bạc màu chiếm diện tích lớn nhất trong vùng ĐNB, tiếp
theo đó là đất đỏ feralit màu nâu trên đá bazan. Bên cạnh đó, vùng ĐNB
cũng sở hữu điều kiện khí hậu tương đối điều hòa, không thay đổi nhiều
trong năm và ít chịu những ảnh hưởng từ thiên tai. Tuy nhiên, vùng vẫn

16


còn chịu ảnh hưởng của hạn hán do mùa khô kéo dài từ 5 đến 6 tháng, gây
khó khăn trong việc sản xuất và sinh hoạt vào thời điểm này trong năm.
c. Tài nguyên thiên nhiên
Vùng ĐNB sở hữu nhiều loại tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước

và tài nguyên du lịch phong phú.
3.1.1.2. Vốn đầu tư để tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
Vùng ĐNB đi đầu cả nước về việc thu hút các nguồn vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước. Điều này tạo động lực vô cùng lớn cho quá trình phát
triển sản xuất từ đó thúc đẩy tăng trưởng và tăng trưởng kinh tế toàn vùng
nói chung và của từng địa phương trong vùng nói riêng.
3.2.1.3. Nguồn lực con người – lao động
Vùng ĐNB có tốc độ tăng dân số cao. Ngoài ra, có thể thấy xu hướng
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nhóm ngành nông nghiệp sang các nhóm
ngành phi nông nghiệp đang diễn ra ổn định. Tuy nhiên, nguồn lực lao
động giản đơn vẫn còn chiếm chủ yếu .
3.1.2. Tác động ảnh hưởng của thể chế trong nước
Vùng ĐNB luôn được Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ thông qua nhiều
chủ trương, chính sách. Nhìn chung, các thể chế chính sách cả nước và
vùng ĐNB luôn được rà soát đánh giá lại cũng như có nhiều điều chỉnh
đổi mới, ngày càng chi tiết, rõ ràng và mang tính thực tiễn trong suốt thời
gian qua. Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc tạo mọi
điều kiện tốt nhất có thể để vùng ĐNB có thể thực hiện đổi mới, xây dựng
và triển khai các mục tiêu chiến lược mạnh mẽ, cụ thể để tạo động lực nâng
cao tính bền vững và chất lượng tăng trưởng của vùng.
Tuy nhiên, việc thực hiện các thể chế chính sách được ban hành vẫn
còn là một vấn đề cần phải được xem xét. Tình trạng cạnh tranh khốc liệt
giữa các địa phương để thu hút nguồn đầu tư dẫn đến xu hướng bỏ qua
hoặc giảm nhẹ kỷ luật và chế tài đối với các vi phạm. Vấn đề phối hợp
đồng bộ giữa các địa phương, đặc biệt trong việc cùng nhau đưa ra giải
quyết các vấn đề còn tồn đọng có thể ảnh hưởng đến quá trình PTBV của
toàn vùng ĐNB, vẫn còn chưa được thực hiện một cách trơn tru và đạt
được hiệu quả cần thiết.
3.1.3. Tác động từ điều kiện quốc tế
Vùng ĐNB đã và đang là nơi thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài,

tiếp nhận công nghệ mới tiên tiên, thuận lợi trong việc xuất khẩu các sản
phẩm hàng hóa nhưng cũng chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nước
ngoài sau khi tham gia các hiệp định thương mại. Tuy nhiên, vùng ĐNB
tuy thu hút nhiều vốn đầu tư FDI nhưng vẫn dựa trên “lợi thế so sánh tĩnh”

17


là chủ yếu với sự năng động của các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp
thực phẩm chiếm tỷ trong lớn.
Ảnh hưởng từ các mối quan hệ thương mại với các nước trên thế giới,
bao gồm: Trung Quốc; Mỹ, Châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản; các nước
ASEAN, cũng tác động không nhỏ đến quá trình tăng trưởng và phát triển
của vùng ĐNB.
3.2. Phân tích thực trạng tăng trưởng bền vững về kinh tế vùng Đông
Nam Bộ
3.2.1. Nhóm tăng trưởng nhanh gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vùng
Có thể nói rằng quá trình tăng trưởng của vùng ĐNB đã có nhiều diễn
biến phức tạp với biến động giữa các năm là khá lớn. Điều này chứng tỏ
tăng trưởng kinh tế của vùng ĐNB đang có hiện tượng tăng trưởng “nấc
cục” với nhiều năm có mức tăng trưởng cao bên cạnh những năm có mức
tăng trưởng giảm mạnh và cũng phần nào cho thấy sự không ổn định trong
tăng trưởng kinh tế của vùng ĐNB trong giai đoạn 2008-2017.
3.2.2. Nhóm hiệu quả trong tăng trưởng kinh tế vùng
Vốn đầu tư vào địa bàn tăng nhanh dẫn đến sự ra đời của nhiều dự án
mới được thực hiện và triển khai trong vùng ĐNB. Ngoài ra, sự tăng lên
nhanh chóng của năng suất lao động xã hội của vùng cũng phần nào phản
ánh sự phát triển vượt trội trong trình độ lao động, khả năng áp dụng
KHCN, máy móc hiện đại hơn so với cả nước nói chung và các vùng khác

nói riêng. Tuy nhiên, tương tự như tốc độ tăng trưởng GRDP của vùng bị
ảnh hưởng tiêu cực bởi những diễn biến phức tạp trong tình hình kinh tế
trong và ngoài nước cũng như của giá dầu thế giới nên tốc độ tăng trưởng
trong năng suất lao động không thật sự ổn định trong suốt giai đoạn này.
Điều này cho thấy điểm nghẽn trong quá trình sản xuất hiện nay của vùng
và đòi hỏi một giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này.
3.2.3. Nhóm bền vững môi trường
Diện tích rừng của vùng nhìn chung vẫn được giữ ở mức ổn định cho
thấy kết quả của việc bảo vệ và giữ gìn môi trường sinh thái rừng bền
vững.Tuy nhiên, mặc dù có tỷ lệ xây dựng hệ thống xử lý nước thải ở khu
vực khá cao nhưng tình trạng vi phạm các quy định về môi trường tại nhiều
khu công nghiệp và dự án FDI trên địa bàn vùng vẫn diễn ra thường xuyên.
Điều này khiến cho nhiều kênh rạch ở TPHCM như Ba Bò, Thầy Cai…trở
thành những dòng kênh chết với mùi hôi nồng nặc bởi dòng nước thải và
chất thải khổng lồ từ hoạt động sản xuất công nghiệp và chất thải sinh hoạt.
3.2.4. Nhóm sáng tạo

18


Vùng ĐNB là vùng có tốc độ tăng trưởng TFP tốt nhất cả nước với
tốc độ tăng trưởng TFP cả vùng trong giai đoạn 2008-2014 đạt mức gần
6% mỗi năm. Đây cũng là vùng chịu ảnh hưởng ít từ cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008 khi chỉ giảm khoảng 2% và đang tiếp tục đà phục hồi rất
mạnh mẽ trong suốt thời gian qua. Mặc dù vậy, tỷ trọng đóng góp của TFP
vào tốc độ tăng trưởng GRDP toàn vùng vẫn còn thấp. Điều này cho thấy
tăng trưởng kinh tế của vùng ĐNB trong giai đoạn này hầu hết đều do đóng
góp của vốn, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và lao động. Đây là
dạng tăng trưởng kém bền vững và ngắn hạn.
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và đạt mức đại học trên địa bàn hiện

nay vẫn còn rất thấp, không thật sự tương xứng với vai trò đầu tàu của
vùng ĐNB trong nền kinh tế toàn quốc. Điều này phần nào phản ánh tình
trạng thiếu hụt lao động có chuyên môn, tay nghề cao ở vùng ĐNB. Ngoài
ra, vẫn còn tồn tại sự phân hóa về trình độ lao động giữa các địa phương
trong vùng và nguồn nhân lực có trình độ có xu hướng tập trung chủ yếu
ở một số địa bàn có sự phát triển cao hơn như TPHCM, BR-VT. Điều này
đòi hỏi một hướng giải quyết phù hợp để làm sao đảm bảo được sự phát
triển đồng đều giữa các địa phương trong vùng.
3.2.5. Nhóm cân bằng
Kim ngạch xuất khẩu của vùng ĐNB đang có xu hướng vượt trội so
với kim ngoạch nhập khẩu. Nhìn chung, đây là tín hiệu tích cực cho nền
kinh tế vùng để đảm bảo được dự trữ ngoại hối và giúp ổn định nền kinh
tế vĩ mô. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng xuất khẩu của vùng ĐNB
hiện nay vẫn đang phải phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên phụ liệu. Trong
đó, nền công nghiệp hỗ trợ của vùng ĐNB nói riêng và Việt Nam nói chung
vẫn chưa phát triển mạnh.
Sự thâm hụt và không ổn định trong cán cân thương mại toàn quốc
vẫn còn khá lớn. Chính vì vậy, thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế
vẫn sẽ là một thách thức không nhỏ cho nền kinh tế khi phải chống đỡ với
các cú sốc bên ngoài và khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam thấp và không
chắc chắn.
Hệ số Engel của vùng ĐNB ở mức khá thấp cho thấy tỷ trọng chi phí
cho lương thực và đồ uống trong tiêu dùng hộ gia đình trên địa bàn là khá
thấp, từ đó phản ánh mức sống và chất lượng sống khá cao của dân cư tại
đây. Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo ở mức thấp nhưng hệ số bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập (GINI) vẫn còn khá cao, đạt mức bình quân 0,4. Điều
này phản ánh khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp xã hội trong nội bộ
vùng chưa được thu hẹp.
3.2.6. Nhóm an toàn


19


Số liệu thống kê cho thấy hiện tượng bội thu cho ngân sách nhà nước
diễn ra liên tục ở vùng ĐNB trong suốt giai đoạn 2008-2017. Nhìn chung,
đây là biểu hiện tình trạng lành mạnh và ổn định trong ngân sách nhà nước,
tạo cơ sở để tăng cường dự trữ tài chính cho nội bộ vùng. Tuy nhiên, thực
trạng về cơ cấu thu chi ngân sách lồng ghép và cào bằng hiện đang khiến
vùng ĐNB không thể tạo và sử dụng nguồn thu đúng với sức mình.
Về mặt an ninh và an sinh xã hội, số liệu thống kê cho thấy số người
chết do tai nạn giao thông trên địa bàn đã giảm. Ngoài ra, tỷ lệ trẻ em dưới
5 tuổi bị suy dinh dưỡng toàn vùng (trong 100 trẻ) cũng đã giảm. Mặc dù
vậy, tỷ lệ này vẫn còn khá cao. Ngoài ra, mặc dù số lượng giường bệnh
trên 1 vạn dân của vùng đã được cải thiện ít nhiều suốt thời gian qua nhưng
số lượng bác sĩ trên 1 vạn dân toàn vùng lại giảm.
Vấn đề an toàn vệ sinh môi trường ở vùng ĐNB hiện nay đang được
chính quyền địa phương quan tâm đúng mức với những giải pháp hợp lý.
Điều này được phản ánh qua các chỉ tiêu về an toàn vệ sinh môi trường
như tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh, tỷ lệ hộ dùng nhà vệ sinh hợp vệ
sinh, tỷ lệ dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước và
tỷ lệ chất thải rắn được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường trong suốt 3 năm,
từ 2015 đến 2017, đều được cải thiện và tiệm cận gần đến mức 100%.
3.2.7. Mức độ tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ
Ta xác định mức độ bền vững của vùng ĐNB theo các giai đoạn như sau:
−1
S2008-2012 = V*𝐵2008−2012
= 2,1998 -> Mức độ bền vững trung bình
−1
S2009-2013 = V*𝐵2009−2013
= 2,2317 -> Mức độ bền vững trung bình

−1
S2010-2014 = V*𝐵2010−2014
= 2,2561 -> Mức độ bền vững trung bình
−1
S2011-2015 = V*𝐵2011−2015
= 2,2770 -> Mức độ bền vững trung bình
−1
S2012-2016 = V*𝐵2012−2016
= 2,2816 -> Mức độ bền vững trung bình
−1
S2013-2017 = V*𝐵2013−2017 = 2,2459 -> Mức độ bền vững trung bình
3.3. Đánh giá chung thực trạng tăng trưởng bền vững về kinh tế ở
vùng Đông Nam Bộ
3.3.1. Những thành công
Thứ nhất, các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế như chỉ số GRDP bình quân
đầu người, năng suất lao động, cơ cấu GRDP của các khu vực phi nông
nghiệp của vùng luôn chiếm tỉ trọng áp đảo trong cơ cấu GRDP toàn vùng.
Thứ hai, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn vùng ĐNB tăng; Thứ
ba, công tác thu hút nguồn vốn đầu tư vào các hoạt động tăng trưởng kinh
tế đạt nhiều kết quả khả quan, trở thành một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; Thứ tư, nhiều mặt an ninh xã hội và
môi trường đều có bước cải thiện và phát triển rõ nét.

20


3.3.2. Những hạn chế
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế của vùng trong giai đoạn 2008-2017 là
không đều và thiếu bền vững; Thứ hai, cơ cấu ngành của vùng trong giai
đoạn 2008-2017 là không đều và thiếu bền vững; Thứ ba, vốn chi đầu tư

cho phát triển thấp; Thứ tư, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế về chất lượng
nguồn nhân lực của vùng; Thứ năm, tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc
biệt ở các khu công nghiệp, vẫn còn tồn tại; Thứ sáu, mức độ bền vững
trong quá trình tăng trưởng kinh tế tại vùng ĐNB giai đoạn 2008-2017 vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng.
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, cơ chế, chính sách quy hoạch tăng trưởng kinh tế của vùng
ĐNB còn thiếu linh hoạt; Thứ hai, hệ thống giáo dục đào tạo tuy được chú
trọng nhưng chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa đáp ứng được yếu cầu
sử dụng nhân lực của xã hội; Thứ ba, khó khăn trong sử dụng nguồn vốn
đầu tư giới hạn để đạt hiệu quả; Thứ tư, hệ thống cơ sở hạ tầng dù phát
triển nhưng chưa theo kịp nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
và đang ngày càng quá tải; Thứ năm, cơ chế quản lý và xử lý sai phạm còn
lỏng lẻo, chưa đủ tính răn đe.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TĂNG
TRƯỞNG BỀN VỮNG VỀ KINH TẾ VÙNG ĐẾN NĂM 2030
4.1. Bối cảnh phát triển mới
4.1.1. Bối cảnh mới của toàn cầu và khu vực
4.1.1.1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
4.1.1.2. Diễn biến phức tạp của chính trị toàn cầu
4.1.1.3. Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ
4.1.1.4. Biến đổi khi hậu toàn cầu ngày càng gia tăng
4.1.2. Bối cảnh mới của đất nước
Về chiến lược phát triển kinh tế xã hội cả nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần VIII chỉ rõ mục tiêu đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành “một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại”. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII tổ chức năm 2016 sau đó có những điều chỉnh trong
phương hướng phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 2016 – 2020 trong
đó xác định mục tiêu:

“Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5
năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả
và sức cạnh tranh... Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu

21


sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XII: 60).
4.1.3. Bối cảnh phát triển mới của vùng Đông Nam Bộ
Vùng ĐNB trong thời gian qua đã và đang tiếp tục giữ vững vai trò
là một trong những vùng có nền kinh tế phát triển nhất cả nước. Về định
hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Quyết định số 943/QĐ-TTg với mục tiêu đến năm 2020
phải xây dựng và phát triển vùng ĐNB thành vùng động lực thúc đẩy phát
triển với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn so với mức bình quân
chung của cả nước; là trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại lớn của đất
nước và khu vực. Mặc dù vậy, tình hinh phát triển của vùng ĐNB nhìn
chung vẫn còn nhiều điểm bất cập. Chất lượng môi trường ngày càng suy
giảm do hệ lụy từ việc mở rộng KCN và việc thực hiện phối hợp giữa các
địa phương nhằm giải quyết ô nhiễm thiếu quy hoạch đồng bộ và còn kém
khiến nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng và ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống của người dân trong vùng. Nguồn nhân lực tuy đông nhưng chưa tinh,
chất lượng và trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu của các
ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt ở các khu vực liên quan đến KHCN chất
lượng cao. Quá trình phát triển không đồng đều giữa những tỉnh, thành phố
trong vùng khiến sự chênh lệnh về trình độ phát triển kinh tế xã hội theo
không gian của vùng ngày càng trở nên rõ rệt.
4.2. Dự báo và nhận định các trường hợp tăng trưởng của vùng Đông

Nam Bộ đến năm 2030
4.2.1. Các trường hợp tăng trưởng của vùng ĐNB đến năm 2030
4.2.1.1. Trường hợp 1
Các địa phương phát triển hơn (TPHCM, BR-VT và BD và ĐN) tiếp
tục là các địa phương được ưu tiên để đầu tư phát triển, từ đó trở thành
động lực cho quá trình tăng trưởng và phát triển toàn vùng.
4.2.1.2. Trường hợp 2
Vùng ĐNB không tập trung ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở
các địa phương phát triển hơn.
4.2.1.3. Trường hợp 3
Các địa phương phát triển hơn tận dụng thành công nguồn vốn đầu tư
để thực hiện bứt phá về tốc độ TTBV, nâng cấp cơ sở hạ tầng tiên tiến,
phát triển các ngành công nghệ cao với đội ngũ lao động có chuyên môn,
kỹ thuật chất lượng cao.

22


4.2.2. Nhận định các khả năng tăng trưởng của vùng ĐNB giai đoạn
2020-2030
So sánh cả 3 trường hợp, có thể thấy trường hợp 1 là trường hợp khả
thi và đem lại nhiều triển vọng nhất cho tăng trưởng và phát triển vùng
ĐNB đến năm 2030.
4.3. Quan điểm và mục tiêu để tăng trưởng bền vững về kinh tế vùng
(1) Tái cấu trúc kinh tế vùng theo hướng phát huy lợi thế và liên kết
chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng; (2) Phát triển có trọng điểm
nhưng luôn chú ý đến sự phát triển của tất cả địa phương trong vùng để
đảm bảo sự ổn định cho tăng trưởng; (3) Từng bước chuyển đổi sang nền
kinh tế xanh dựa trên nền tảng KHCN cao, nguồn nhân lực chất lượng cao
và quản trị hiện đại; (4) Phát triển nông nghiệp trên cơ sở gắn bó với công

nghiệp và dịch vụ trên địa bàn vùng; (5) Tăng trưởng kinh tế vùng phải hài
hòa và thúc đẩy xã hội và môi trường vùng bền vững.
4.4. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh
tế vùng Đông Nam Bộ
4.4.1. Nhóm các giải pháp đối với cấp Trung ương
(1) Điều chỉnh Chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế vùng đến
năm 2030 cho phù hợp với bối cảnh mới của quốc tế, trong nước và vùng;
(2) Xây dựng thể chế quản lý sự phát triển vùng.
4.4.2. Nhóm các giải pháp đối với cấp chính quyền địa phương vùng
ĐNB
(1) Thực hiện chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế trong vùng theo
hướng hiện đại; (2) Thúc đẩy hoạt động đào tạo và phát triển nhân lực chất
lượng cao để đáp ứng nhu cầu lao động của vùng, mục tiêu trở thành trung
tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao lớn nhất cả nước; (3) Phát triển khoa
học công nghệ của vùng ngày càng trở nên hiện đại; (4) Hiện đại hóa đồng
bộ hệ thống kết cấu hạ tầng trên địa bàn vùng; (5) Thúc đẩy tăng trưởng
xanh dựa trên cơ sở bền vững môi trường.
KẾT LUẬN
ĐNB là vùng đất năng động với vị trí đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế cả nước. Nhìn chung, quá trình TTKT của vùng ĐNB giai đoạn
2008-2017 đã đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, phân tích
cũng phản ánh những hạn chế còn tồn tại trong giai đoạn 2008-2017 và

23


×