Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

CHẤT HÀI TRONG SÁNG TÁC CỦA DI LI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.27 KB, 21 trang )

CHƯƠNG 1
CHẤT HÀI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VĂN CHƯƠNG CỦA DI LI
1.1.

Chất hài trong tư duy sáng tạo của Di Li

1.1.1. Giới thuyết về cái hài
1.1.1.1 Khái niệm cái hài
Cái hài là một phạm trù vốn có của đời sống, nó xuất hiện ở khắp mọi
nơi với muôn hình vạn trạng khác nhau trong mọi lĩnh vực của xã hội. Đây là
một hiện tượng xã hội được nhiều học giả chú ý và lí giải.
Từ các nhà mỹ học cổ đại Hi Lạp, các nhà triết học cổ điển Đức đến các
nhà văn, nhà tư tưởng Nga cũng tham gia lí giải hiện tượng này. Theo Platon
thì “thiếu hài hước không nhận định được cái nghiêm túc…Cái đối lập được
nhận thức nhờ cái đối lập” [24, Tr.170]. Ông thừa nhận cái hài xuất phát từ
cái đối lập giữa hai mặt của một sự việc. Còn nhà văn, tư tưởng Nga,
Tsernyshevsky lại cho rằng: “Cái hài là sự trống rỗng và vô nghĩa bên trong
được che đậy bằng một cái vỏ huênh hoang tự cho rằng có nội dung và ý
nghĩa thực sự” [18, 30]. Hầu hết các nhận định trên đều thống nhất rằng: cái
hài được sinh ra từ các mặt đối lập.
Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định cái hài là “phạm trù mỹ học phản
ánh một hiện tượng phổ biến của thực tế đời sống vốn có khả năng tạo ra
tiếng cười ở những cung bậc và sắc thái khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn sự
không tương xứng mà người ta có thể cảm nhận được về phương diện xã hội
- thẩm mỹ (chẳng hạn giữa hình thức với nội dung, hành động với tình
huống, mục đích và phương tiện, bản chất và biểu hiện v.v…)” [18, 29].
Trong cuốn Giáo trình mỹ học đại cương của PGS. TS NGuyễn Văn Huyên
cũng cho rằng: “Cái hài là một hiện tượng thẩm mỹ khách quan, mang ý nghĩa xã
hội sâu sắc. Đó là những cái xấu đội lốt cái đẹp, bị phát hiện bất ngờ và gây ra



tiếng cười tích cực, phê phán cái xấu dưới ánh sang của một lí tưởng thẩm mỹ
tiến bộ” [24, 177].
Như vây, cái hài là một phạm trù thẩm mỹ của mỹ học, nó là một hiện
tượng được sinh ra từ các mặt của sự đối lập, nó luôn gắn với tiếng cười. Tuy
nhiên, không phải bất cứ tiếng cười nào cũng là biểu hiện của cái hài. Cái hài
thường không phải là tiếng cười thiên về bản năng, sinh lí mà là cái cười gồm
có một đối tượng cười (tức cái có thể gây cười và bị cười) và chủ thể cười.
1.1.1.2 Đặc điểm và cấp độ của cái hài
Đặc điểm của cái hài
Cái hài là một sự nhận thức. Đặc điểm của nhận thức gắn với tiếng cười
là sự khám phá một số loại mâu thuẫn nào đó trong sự vật, hiện tượng và
quan sát chúng ở một số bình diện khác, từ một phía khác, từ góc độ của cái
buồn cười. Đồng thời, cái hài cũng mang khuynh hướng xã hội, cười cái xấu
là dám tin, dám khẳng định cái đẹp. Cái hài là một hình thức đánh giá, thể
hiện trình độ con người làm chủ đối tượng, làm chủ bản thân mình, là vũ khí
phương tiện để phê phán mặt trái của cuộc sống, để phủ định tất cả những gì
xấu xa, giả dối, lỗi thời. Nó là một hình thức phê phán xã hội đặc biệt, phê
phán bằng cảm xúc đối với những gì đối lập với lý tưởng xã hội.
Cái hài không giống cái buồn cười nên không phải mọi tiếng cười đều là
cái hài. Chỉ có tiếng cười nhằm vào đối lượng cụ thể (đối tượng mang mâu
thuẫn), có mục đích và ý nghĩa xã hội sâu sắc mới mang sắc thái của tiếng cười
trong cái hài.
Cái hài trước hết nói đến cái xấu của con người, hoặc con người có điểm
xấu hay nói đến cái xấu thuộc về đạo đức, lối sống, về lí tưởng xã hội thể hiện
ở quan hệ thẩm mỹ. Nó luôn gắn với tiếng cười – tiếng cười tích cực.
Không chỉ gắn với tiếng cười cái hài còn gắn liền với yếu tố bất ngờ, nó
là “yếu tố riêng biệt biểu thi biên độ sâu và rộng về không gian và thời gian


của cái hài. Thiếu yếu tố bất ngờ thì không có có mối liên hệ giữa chủ thể và

đối tượng của cái hài” [24, 175]. Cái bất ngờ luôn xoáy vào điểm yếu của con
người và luôn bất ngờ bị vạch trần, bị đánh bại, lúc đó tiếng cười bật lên. Nếu vấn
đề mà cái bất ngowg nêu ra có giá trị nhân loại và văn hóa, cái hài sẽ có ý nghĩa
xã hội sâu và rộng hơn.
Cái cười mang tính hài đòi hỏi phải có một đối tượng cười, có nghĩa là
cái có thể gây cười và bị cười. Trong cuộc sống, cái hài rất đa dạng, nó biểu
hiện rất khác nhau nhưng nói chung nó đều là những cái có mâu thuẫn. Có
thể hiểu nó là sự đối lập, không cân xứng, không hài hòa.
Trong lịch sử mỹ học, các nhà mỹ học thường gắn liền bản chất của cái
hài đối với những đối tượng mang mâu thuẫn, cái hài là kết quả của những
mâu thuẫn và các loại mâu thuẫn này bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố
bất ngờ, mới mẻ để tạo ra kịch tính. Cái hài chính là sự mâu thuẫn giữa cái
bản chất xấu nằm trong vỏ bọc là cái đẹp hay cái máy móc nằm trong cái sinh
động hay sự trống rỗng bên trong lại nằm trong cái vẻ ngoài khoa trương.
Tuy, cái hài bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa cái đẹp và cái không phải cái xấu
nào cũng là nguồn gốc của cái hài, chỉ có những cái xấu không đành phận
xấu cố sức làm ra đẹp, tự nó tạo ra mâu thuẫn, đối lập với bản thân nó mới là
nguồn gốc của cái hài.
Cái có thể gây cười còn lại chính là chủ thể cười. Đây là mặt chủ quan
của cái hài, không có nó thì không có cái hài. Bản thân đối tượng cười không
thể gây cười nếu chủ thể không thể nhận thức được những mâu thuẫn chứa
đựng trong nó. Điều này giải thích tại sao có nhiều người xem tranh biếm
họa, tranh vui, đọc truyện cười mà vẫn không cười, đến lúc hiểu ra thì mới
bật cười.
Do vậy, cái hài là một phạm trù thẩm mĩ cơ bản dùng để nhận thức và
đánh giá về một loại hiện tượng của đời sống, đó là những cái xấu nhưng lại


cố sức chứng tỏ là đẹp. Khi mâu thuẫn này bị phát hiện đột ngột tạo nên tiếng
cười tích cực, có ý nghĩa phê phán, phủ định cái xấu nhân danh cái đẹp. Tiếng

cười trong cái hài – đó là sự chiến thắng của cái đẹp đối với cái xấu.
Cấp độ của cái hài
Trong cuộc sống cũng như văn học nghệ thuật cái hài được thể hiện qua
nhiều cấp độ khác nhau: hài hước – dí dỏm, châm biếm - mỉa mai và đả kích.
Đầu tiên là hài hước, ở đây cái cười xuất phát từ mâu thuẫn bề ngoài và
mang tính chất nhẹ nhàng, thoải mái nhằm xây dựng cho đối tượng, loại bỏ
những điểm yếu của đối tượng ngày một hoàn thiện hơn. Hài hước thích hợp
với nội bộ quần chúng nhân dân chứ không mang tính đối kháng. Nó là một
hình thức phê phán nhẹ nhàng nhưng đầy thiện ý nhằm khéo léo vạch trần ra
mâu thuẫn, thông qua tiếng cười vui vẻ giúp người ta nhận ra sự trớ trêu của
tình huống nhờ đó mà phân biệt được đúng – sai. Nó là cấp độ thấp nhất của
cái hài và được biểu hiện chủ yếu của cuộc sống, trong sinh hoạt thường ngày
của con người.
Cấp độ cao nhất của cái hài là châm biếm, đả kích. Đối tượng của nó là
cái cũ, là những hiện tượng lỗi thời, tiêu cực, phản động khi nó tỏ ran nguy
hiểm về mặt xã hội.
Ở cấp độ châm biếm – mỉa mai, tiếng cười ở đây bắt đầu mang màu sắc
phê phán có tính phủ định đối tượng nhưng mức độ còn nhẹ nhàng, chưa nhất
thiết phải mang tính thù địch, nó dành cho những hiện tượng buồn cười, thậm
chí mù quáng nhưng có thể sửa chữa được.
Riêng cấp độ đả kích thì tiếng cười đã thể hiện khuynh hướng xã hội mạnh
mẽ nhất. Sự phê phán ở đây hoàn toan mang tính chất phủ định. Trong trường
hợp này nó có thể không có tiếng cười hoặc chỉ cười một cách nghiêm chỉnh.


Như vậy, cái hài là rất cần thiết trong cuộc sống nói chung và trong văn
học nói riêng. Thông qua cái hài, con người có thể bộc lộ những quan điểm,
những ý kiến tích cực bằng tiếng cười nhẹ nhàng nhưng mang tính nhân văn.
1.1.2


Vị trí của cái hài trong sáng tác của Di Li

Trước nay, văn học thế giới đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm của
Các bậc thầy hài hước. đưa nụ cười vào văn chương, tạo niềm vui cho bạn
đọc đã có từ những vở kịch của Moliere (Pháp), Azit Neshin (Thổ Nhĩ Kì)…
Và ở nước ta, cái hài như một yếu tố không thể thiếu, nó xuất phát từ tiếu
lâm, ca dao, tục ngữ, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, hề chèo, hề tuồng… rồi đến
Nguyễn Trãi, tiếp sau là Hồ Xuân Hương, là Nguyễn Khuyến, nhất là Tú
Xương, Ba Giai Tú Xuất…một vệt cười lớn trong truyền thống văn học và
văn hóa Việt Nam.
Đến văn học Việt Nam hiện đại, ta lại bắt gặp những tràng cười của
Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Đồ Phồn, Lý Toét, Xã Xẹ của Tự Lực Văn Đoàn,
Vũ Trọng Phụng…những tiếng cười mang đậm dấu ấn xã hội đương thời.
Và trên cái nền tảng cười của văn học dân tộc, Di Li cũng mang chất hài
vào văn chương của cô ở các thể loại truyện ngắn, tản văn và bút kí. Tuy nhiên,
chất hài trong sang tác của Di Li không phải mỉa mai châm biếm hay đả kích mà
đó là sự hài hước, dí dỏm nhẹ nhàng.
Ở thể loại truyện ngắn của Di Li, người đọc hay bắt gặp các nhan đề, kiểu
tên nhân vật, cách gọi sự vật một cách hài hước, hóm hỉnh. Ta bắt gặp các nhan
đề như: Mối tình Khoai tây, Đồ mọt sách…rồi tên nhân vật : “hột cơm”, “Khoai
tây Dễ thương”, “Khoai tây Trung Quốc”, “Cheocheo”, “sếp lớn”, “sếp bé”, “sếp
út”… Cách đặt tên nhân vật, sự vật trong truyện ngắn Di Li bên cạnh mục
đích cho người đọc cái nhìn khái quát về nhân vật, nó còn có mục đích tạo sự
hóm hỉnh, hài hước. Có thể kể đến những cái tên: con tàu “Mũi Tên Trên Đại
Dương” trong Hai người trên hoang đảo; “Hội Võ lâm truyền kỳ”, “Hội sưu


tầm xe đạp cổ”, “Hội xài hàng Mango”, “Hội những người sợ lông mèo”,
“Hội những người không thích rửa bát”, “Hội sưu tầm bánh xe đã cũ”, “Hội
thảo Khoai tây”, “diễn đàn Khoai tây” trong Mối tình khoai tây, cửa hàng hoa

“Nhanh một phút” trong Điện hoa. Đỉnh cao của tính hài hước trong việc đặt
tên sự vật của Di Li là một loạt tên bó hoa đặt theo tên bài hát: “Chân tình”,
“Người yêu dấu”, “Người tình mùa đông”, “Con yêu”, “Mẹ yêu”, “Trái tim
bên lề”…Bên cạnh cách đặt tên nhan đề, nhân vật hay cách gọi sự vật Di Li
còn tạo ra nhưng mâu thuẫn tiềm ẩn bên trong từng câu chuyện. Chính cái
cách cô tạo ra mâu thuẫn bên trong mỗi tác phẩm là cơ sở khiến bạn đọc bật
cười.
Nếu tiếng cười trong truyện ngắn Di Li được tạo nên bởi cách gọi tên độc
đáo, các mâu thuẫn tiềm ẩn thì ở bút kí, tảp văn lại có tiếng cười thật khác.
Trong Thị thành ký gồm 28 câu chuyện thể hiện cái nhìn của tác giả về
những buồn vui, thậm chí bi hài của nhiều vấn đề trong cuộc sống đương đại.
Mỗi câu chuyện của cô ngồn ngộn những tư liệu, từ chuyện của bạn bè, đồng
nghiệp, đến chuyện bên đất nước Mỹ… Nhưng tất cả chúng lại được kết nối
với nhau bởi trải nghiệm, nhận định của tác giả. Chính bởi cái chân thật, cái
hài hước nhẹ nhàng trong từng câu văn làm cho người đọc thấy thích thú.
Hay trong cuốn Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt, Di Li tiếp tục có giọng
văn được nhiều nhà phê bình tán dương, được nhiều bạn đọc săn đón. Cuốn
sách là 25 câu chuyện viết một cách dí dỏm mà cũng thú vị, sâu cay về hôn
nhân, tình yêu, gia đình, nữ quyền… Đây là những vấn đề rất nhạy cảm, nếu
không chắc tay sẽ gây ra những làn sóng trái chiều, song Di Li rất khéo léo
đưa tiếng cười nhẹ nhàng vào làm mọi thứ trở nên nhẹ nhàng bởi những lời
phê bình, góp ý bằng tiếng cười sẽ khiến người ta dễ tiếp thu và nhớ lâu hơn.
Di Li đã dùng sự thấu hiểu và cách diễn đạt hóm hỉnh của mình để người
đọc thay đổi. Sự chân thành khiến cho nhiều vấn đề được viết với giọng châm


biếm nhưng không hề có sự cay độc, ngược lại chỉ thấy tình cảm thiết tha của cô
dành cho mọi người. Những câu chuyện trong tản văn, bút kí luôn trẻ trung, văn
phong trong sáng khác hoàn toàn với giọng văn lạnh lùng của Di Li ở các tiểu
thuyết trinh thám, khác với giọng văn thông minh, sắc sảo trong các truyện ngắn.

Như vậy, dù ở thể loại truyện ngắn, hay tạp văn, bút kí nữ nhà văn Di Li
luôn mang được tiếng cười vào trong tác phẩm. Chất hài này đã làm những trang
sách của cô trở nên sinh động, vui vẻ và nhẹ nhàng. Đối với thể loại truyện ngắn,
tiếng cười chính là nút mở khiến bạn đọc thích thú, làm cho câu chuyện vỡ òa
bởi các yếu tố bất ngờ. Còn trong tản văn, bút kí, chất hài ấy là chất xúc tác làm
bạn đọc thấu hiểu các vẫn đề xã hội. Nhiều vấn đề phức tạp đều được chất hài ấy
làm đơn giản. Chính vậy, tản văn, bút kí của Di Li luôn được ngóng trông, chờ
đón.
1.2 Di Li – một hiện tượng trong nguồn mạch văn chương Việt Nam
1.1.2. Nhà văn Di Li
Di Li tên thật là Nguyễn Diệu Linh - nữ nhà văn với nhiều cuốn sách
best-seller của Việt Nam. Cô sinh ngày 3/9/1978 tại Hà Nội. Thuở nhỏ học tại
trường PTTH Việt Đức, sau học đại học tại Trường ĐH Ngoại ngữ Hà Nội
(nay là ĐH Hà Nội), chuyên ngành Cử nhân tiếng Đức và Cử nhân tiếng Anh.
Cô đã có bằng Thạc sĩ Quản lý giáo dục. Từ năm 2000 đến nay, cô là giảng
viên văn hóa Anh - Mỹ, trường Cao đẳng Thương mại & Du lịch Hà Nội,
giảng viên PR, trường ĐH Hoà Bình, Hà Nội và chuyên viên tư vấn quảng
cáo & PR, MC. Ngoài ra, Di Li còn tham gia viết văn, viết báo và dịch thuật.
Cô trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 2010), hội viên Hội Nhà văn
Hà Nội (từ 2011), hội viên Hội Nhà văn Châu Á- Thái Bình Dương (từ 2012).
Giới nhà văn nhà báo hiện tại đều dành cho Di Li những lời có cánh như:
Đàn bà đẹp viết truyện kinh dị; “Kiều nữ” Di Li, hiện tượng lạ trong làng văn;


Di Li-Cô gái “kinh dị”; Di Li: Người đẹp đa tài; Nhà văn Di Li-đa đoan nhàn
hạ; Di Li-Người đẹp…kinh dị!; Người đẹp trong làng văn Việt…
Tác phẩm đã in:
- Truyện ngắn: Cocktail, Ma học trò, Tầng thứ nhất (NXB Hội nhà văn 2007), Điệu Valse địa ngục (NXB Hội nhà văn - 2007), 7 ngày trên sa mạc
(NXB Văn học - 2009), Tháp Babel trên đỉnh thác Ánh trăng (NXB Văn học 2010), Đôi khi tình yêu vẫn hay đi lạc đường (NXB Phụ nữ - 2010), Chiếc
gương đồng (NXB Phụ nữ - 2010), San hô đỏ (NXB Văn học - 2012).

- Tiểu thuyết: Trại hoa đỏ (NXB Công an Nhân dân - 2009), Câu lạc bộ
số 7 (NXB Lao động – 2016)
- Bút ký: Đảo thiên đường (NXB Công an Nhân dân - 2009).
- Hồi ký: Nhật ký mùa hạ (NXB Văn học - 2011).
- Ký sự chân dung: Chuyện làng văn (NXB Văn học - 2012).
- Tản văn: Cocktail thị thành (NXB Phụ nữ - 2011), Adam & Eva
(2013), Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt (NXB Phụ Nữ - 2015).
- Sách chuyên ngành: Giáo trình Tiếng Anh chuyên ngành Thương mại
(NXB Hà Nội - 2007), Giáo trình Kỹ năng viết trong quan hệ công chúng
(NXB Dân trí - 2011), Tôi PR cho PR (NXB Văn hóa Thông tin - 2013).
- Truyện dịch sang tiếng Anh: The Black Diamond (NXB Thế giới - 2012)
- Truyện dịch: Người yêu dấu (Tiểu thuyết - Tác giả Sara Zarr, Mỹ) 2008, Người làm chứng (Tiểu thuyết - Tác giả Tami Hoag, Mỹ) - 2009, Giết
người đưa thư (Tiểu thuyết - Tác giả Tami Hoag, Mỹ) - 2009, Bóng đêm
bao trùm (Tập truyện ngắn thế giới) - 2009, Rừng Răng-Tay (Tiểu thuyết Tác giả Carrie Ryan, Mỹ) - 2010, Tàn tích (Tiểu thuyết – Tác giả Scott
Smith, Mỹ)- 2012, Xác chết dưới nước (Tiểu thuyết - Tác giả Patricia
Cornwell, Mỹ) - 2012.


Trong những sáng tác trên, chị đã đạt giải ba cuộc thi viết tiểu thuyết,
truyện và ký về đề tài “Vì an ninh tổ quốc và bình yên cuộc sống 2007 2010” do Bộ Công an phối hợp cùng Hội Nhà văn tổ chức - tiểu thuyết Trại
hoa đỏ, giải ba cuộc thi viết “Hà Nội trong tôi” do báo Kinh tế & Đô thị và
Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức và giải Ba cuộc thi truyện
ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005-2006 - Truyện ngắn Cocktail và
Ma học trò.
Đến nay, Di Li đã ra mắt 28 đầu sách bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn,
tản văn, bút ký, sách chuyên ngành và sách dịch. Cô đã ra mắt hai tác phẩm
trinh thám – kinh dị mang tên Trại Hoa Đỏ (2007) và Câu lạc bộ số 7
(2016). Đặc biệt, tiểu thuyết Trại hoa đỏ đã được tái bản 4 lần. Những tác
phẩm của chị đã phần nào lột tả hết hiện thực đời sống, đồng thời nó còn
phần nào cho bạn đọc thấy được cuộc sống của người phụ nữ xinh đẹp mà

đầy tài năng này.
1.2.2 Di Li – hiện tượng lạ trong làng văn
Trong dòng văn học hiện đại, Di Li xuất hiện và trở thành một hiện
tượng văn học “hot” và có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại. Di
Li xứng đáng là một hiện tượng lạ trong làng văn.
Những cuốn sách của cô làm cho thị trường văn học chao đảo, luôn
trong tình trạng “cháy sách”. Với lối viết ma mị, cô đã dấn thân trên nhiều thể
loại như: Truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, hồi ký, ký sự chân dung, tản văn…
Hầu hết các cuốn sách của cô ở các thể loại này đều là những best – seller. Ở
năm 2007, Di Li trình làng tác phẩm Tầng thứ nhất và Điệu Valse địa ngục
với lối viết huyền hoặc, ma mị có phần ma quái khiến người đọc thích thú.
Đến năm 2009, lúc này Di Li thật sự đóng một dấu mốc quan trong, tạo chỗ
đứng vững chắc cho mình trên văn đàn văn học Việt Nam với tác phẩm Trại
hoa đỏ. Cuốn sách được vinh danh giải Ba trong cuộc thi tiểu thuyết 2007 –


2010 do Bộ công An tổ chức. Khi xuất hiện Trại hoa đỏ khiến người đọc bị
thôi thúc, bị lạc lối vào mê lộ, rồi luôn ngóng trông chờ đợi, luôn hi vọng rồi
lại tuyệt vọng khi không đoán được kết thúc của tiểu thuyết. Sau đó là hàng
loạt các cuốn sách khác cũng “cháy hàng” như: 7 ngày trên sa mạc, Đảo
thiên đường hay Adam & Eva. Nếu Trại hoa đỏ là câu chuyện được Di Li
tung hỏa mù khiến bạn dọc lạc lối thì những cuốn sách sau này đưa bạn đọc
chu du khắp thế gian. Ở Đảo thiên đường người đọc được Di Li trò chuyện,
trao đổi, rồi truyền lại những kinh nghiệm quý báu khi đi du lịch của cô. Có
người đã từng khuyên nếu bạn muốn đi nước ngoài hãy đọc Đảo thiên
đường vì nó có tất cả những thứ bạn cần cho một chuyến đi. Hay ở Adam &
Eva bạn đọc được tiếp cận vấn đề bình đẳng giới một cách hài hước, dí dỏm.
Tuy nhẹ nhàng nhưng tác phẩm để lại ấn tượng mạnh trong lòng bạn đọc.
Nếu chỉ có những cuốn sách best – seller, Di Li chưa thể trở thành một
hiện tượng lạ của làng văn. Điều khiến Di Li trở nên đặc biệt chính là cách cô

dấn thân đến một thể loại mà trước đây dường như đã đi vào quên lãng – thể
loại tiểu thuyết trinh thám. Cô được coi là người hồi sinh cho thể loại tiểu thuyết
trinh thám và là người mở đường cho tiểu thuyết trinh thám kinh dị.
Văn học trinh thám theo thời gian đã giành được một vị trí vững chắc
không thể thiếu trong nền văn học phương Tây, đặc biệt là Anh, Pháp, Đức,
Thụy Điển, Nga, Mỹ… Ở châu Á, văn học trinh thám tuy không phát triển
bằng nhưng ngày càng có nhiều tác giả tạo được trụ cột vững chắc cho thể
loại này. Ở những năm đầu thế kỷ 21 như Lôi Mễ, Tang Thượng, Chu Hạo
Huy (Trung Quốc), Jeong You Jeong (Hàn Quốc), Higashino Keigo, Yoshida
Shuichi (Nhật Bản)… Tuy nhiên, ở Việt Nam tiểu thuyết trinh thám hầu như
giẫm chân tại chỗ. Trải qua gần một thế kỷ, từ những tập truyện đầu tiên của
Phạm Cao Củng theo trường phái của thám tử Sherlock Holmes cho đến Gói
thuốc lá của Thế Lữ, trinh thám đã dừng lại nửa thế kỷ và nhà văn Di Li là tác


giả đương đại đầu tiên tiếp nối truyền thống hiếm hoi này với hai cuốn tiểu
thuyết Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ số 7.
Để có thể viết được những tiểu thuyết trinh thám được sự đánh giá cao
của dư luận, Di Li phải tự rèn thói quen tư duy thoát khỏi motif thông
thường, thực sự nhập tâm vào nhân vật, tình tiết vụ án, cô còn đầu tư rất
nhiều thời gian, công sức cho việc tìm kiếm tư liệu để tiểu thuyết của mình
phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Ngoài ra cô đã phải tìm hiểu hàng trăm cuốn
sách về tâm lý học tội phạm, luật hình sự, giám định pháp y và cả các tác
phẩm trinh thám nổi tiếng trên thế giới. Di Li cũng đồng thời tận dụng lợi thế
ngôn ngữ của mình để tham gia các diễn đàn nước ngoài với mục đích tìm
kiếm thông tin.
Những tác phẩm của Di Li mang lại những dấu ấn khác nhau trong lòng
độc giả. Tuy không nhẹ nhàng như tiểu thuyết trinh thám Pháp, cũng chưa
hồi hộp như trính thám Mỹ, nhưng tiểu thuyết trinh thám của Di Li là những
hiện thực gần gũi trong đời sống người dân Việt Nam. Những trang sách của

cô chỉ là những phản ánh từ hiện thực và luôn bám sát vào logic trong cuộc
sống. Mục đích Di Li muốn mang đến cho tác phẩm của mình là tìm ra ý nghĩa
nhân bản trong từng vụ án, tập trung vào lý giải hành động của hung thủ, phân
tích tâm lý hành vi bởi văn chương cuối cùng cũng tìm về với bản ngã của con
người. Do vậy, độc giả có thể tìm thấy sự gần gũi, dễ hiểu khi theo dõi tác
phẩm của nữ nhà văn.
Tuy dòng văn học trinh thám Việt đang phải đương đầu với những khó
khăn khi chưa được phần đông độc giả tiếp nhận và yêu thích, song nhà văn
Di Li vẫn luôn kỳ vọng nền văn chương đương đại Việt Nam sẽ ngày càng có
thêm nhiều cây bút trinh thám sắc sảo, đưa loại hình này tới gần hơn với công
chúng. Di Li từ chỗ dũng cảm khai phá một con đường mới, cô đã tạo dựng
được cho mình chỗ đứng vững chãi trên mảnh đất văn chương trinh thám.


Sau tất cả những li kì, thật giả đan cài, sự trân trọng những giá trị chân thật
của cuộc sống luôn là điều đọng lại cuối cùng qua hai cuốn tiểu thuyết, với
khát vọng đẩy lui những mảng tối của tham vọng, của thù hận, luôn hướng
thiện để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Di Li chính yếu tố đáng để hy vọng văn
học trinh thám kinh dị sẽ có chỗ đứng với lượng độc giả đông đảo.
Nhà văn Nhà văn Mỹ Charles Waugh đã nhận xét:
Di Li đã bắt mạch được xã hội Việt Nam. Với một nhận thức sắc
bén về truyền thống xưa cũ, các câu chuyện của cô đã phản ánh một
cách tỉ mỉ những gì đang diễn ra ở một thế giới hiện tại bằng phong
cách viết điềm tĩnh, lạnh lùng, châm biếm mà không kém phần hồi
hộp. Nếu bạn muốn biết những gì đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay,
nếu bạn muốn được cười, được khóc, được rùng mình sợ hãi, hoặc
suy ngẫm sâu hơn về thế giới đương đại, hãy đọc Di Li [76].
Thêm một lí do để khẳng định Di Li là một hiện tượng lạ của làng văn.
Những sáng tác của cô bàn khá rộng, khá sâu vào những vấn đề rất mới của
xã hội hiện đại. Đó là những chuyện về giới trẻ đang có lối sống lệch chuẩn,

bỏ qua đạo lý truyền thống, bỏ qua sự quan tâm của các bậc cha, mẹ hiện nay.
Một điều khác khá thú vị được Di Li lưu ý đến là những tác động của công
nghệ tiên tiến vào đời sống con người. Không chỉ trẻ em suốt ngày say mê
game, mà ngay cả những người lớn cũng bị các trò chơi trên mạng cuốn hút,
làm cho mụ mị. Rồi hàng loạt các vấn đề khác được cô phơi bày trên trang
giấy một cách nhẹ nhàng nhưng rất sâu cay. Đọc những trang sách của Di Li,
bạn đọc đâu đó bắt gặp bản thân, gia đình, môi trường làm việc hay những
người bạn của mình. Các nhân vật chính là tấm gương phản chiếu rõ hiện
thực cuộc sống của con người hiện đại.


Di Li đã “kể” cho chúng ta những câu chuyện thường nhật của đời sống
hàng ngày. Tuy không thể luồn sâu vào từng ngõ ngách nhỏ nhưng nhờ các
tác phẩm của cô ta phần nào thấy được xã hội Việt Nam hiện nay.
1.3 Cảm quan hiện thực hài hước trong các sáng tác của Di Li
Như chúng ta đã biết, văn học luôn luôn phản ánh hiện thực, đưa diện
mạo của cuộc sống vào trong trang văn. Tuy nhiên, hiện thực trên mỗi trang
sách của nhà văn lại khác nhau bởi cuộc sống được nhìn qua lăng kính của
người nghệ sĩ. Có cùng một hiện thực, nhưng mỗi nhà văn lại mang đến cho
bạn đọc cách cảm nhận khác.
Nhà văn Di Li, cũng đưa hiện thực cuộc sống vào trong trang văn. Ấn
tượng đời sống, đối với Di Li lúc nào cũng quan trọng, nó giúp cô có những
cuốn tạp văn, but kí chân thực, và đầy sức hút. Ngoài ra những ấn tượng đó
còn giúp Di Li thỏa sức tưởng tượng, tao ra một thế giới khác trong những
cuốn tiểu thuyết trinh thám. Tuy nhiên, Di Li nhìn hiện thực với cảm quan hài
hước, điều đó đặc biệt thấy rõ trong các trang truyện ngắn, tạp văn và bút kí.
1.3.1 Cảm quan hiện thực hài hước trong truyện ngắn của Di Li
Khi tiếp xúc vơi truyện ngắn của Di Li, ta sẽ bắt gặp các câu chuyện
thuộc thể loại trinh thám và các câu chuyện về cuộc sống đời thường. Với các
tác phẩm của thể loại trinh thám cô dùng giọng văn sắc lạnh, ma mị làm cuốn

hút bạn đọc, đưa bạn đọc đến hết trang văn này tới trang văn khác. Bên cạnh
giọng văn sắc lạnh, Di Li còn có giọng văn hài hước khi nói đến hiện thực
đời sống vốn có của xa hội hiện nay. Những câu chuyện về nhân phẩm con
người, về hôn nhân, tình yêu… được Di Li nhìn một cách rất hài hước, dí
dỏm.
Ở Hai người trên hoang đảo, Di Li đã nhìn nhân phẩm con người một
cách chân thật nhất. Câu chuyện xây dựng dựa trên tình huống nhân vật nam
chính và nhân vật nữ chính lạc trên một hoang đảo. Nam chính và nữ chính


đã trải qua những ngày tháng vất vả cho đến ngày trở về đất liền. ban đầu,
theo sự tưởng tượng của các bạn trẻ đây sẽ là chất xúc tác tạo nên một tình
yêu nồng nàn, say đắm nhưng theo cách nhìn, cách cảm của Di Li thì nó đã đi
hoàn toàn ngược lại.
Ở trên đảo hoang, để sinh tồn, con người phải bất chấp tất cả, phải từ bỏ
những phẩm chất lịch thiệp của thế giới văn minh, thay vào đó là sự ích kỉ,
nhỏ nhen, là chiếm đoạt đôi khi phải dung đến vũ lực để đạt được thứ mình
muốn. Hai nhân vật chính đã thương lượng mua bán thực phẩm, khâu vá, sửa
hàng rào cho nhau… tất cả đều được tính toán sao cho có lợi nhất. Mâu thuẫn
giữa nam chính và nữ chính không thể cứu vẫn chính là khi cả hai đều phát
hiện ra chiếc xuồng cao su dạt vào đảo. Cả hai đều muốn mình có được chiếc
xuồng. Cuối cùng, họ cầm vũ khí tấn công nhau bởi cái suy nghĩ nhỏ nhen, sợ
đối phương chiếm đoạt chiếc xuồng làm của riêng. Mọi việc chỉ được giải quyết
khi hai vị thuyền trưởng của hai con tàu San Hô Đen, Mũi Tên Trên Đại Dương
cập đảo hoang để tránh bão. Nam chính và nữ chính hân hoan lên tàu. Câu
chuyện tám tháng trôi dạt trên đảo hoang kết thúc không có tình yêu khi cả hai
đều hạnh phúc tột cùng khi được tách khỏi nhau.
Bạn đọc sẽ bật cười khi tiếp xúc những trang văn miêu tả cái ích kỉ của
hai nhân vật, cũng thở phào nhẹ nhõm khi họ không về chung một nhà. Quả
thật, tình yêu không thể đẹp khi ta sống trong hoàn cảnh khó khăm. Sau khi

đọc câu chuyện của Di Li, bạn đọc mỉm cười nhẹ nhàng vì nhận ra đâu đó
bản thân bởi đôi khi ta cũng nhỏ nhen. Di Li truyền tải một thông điệp nhẹ
nhàng bằng sự dí dỏm khiến chũng ta không thể làm ngơ.
Khác với câu chuyện tình chưa bắt đầu đã kết thúc của hai nhân vật
chính trong Hai người trên hoang đảo, Pizza chiều thứ sáu là câu chuyện
tình yêu của một đôi sinh viên muốn tận hưởng những tháng ngày sống thử
ngọt ngào. Nhưng đời không như mơ, công việc đã chiếm hết thời gian của


họ, sẽ không có những bữa cơm ăn chung mà chỉ là thức ăn nhanh – đó là
Pizza. Pizza trở thành nỗi ám ảnh của chàng trai trong khi cô gái vẫn hào
hứng, tôn sùng. Đỉnh điểm cao trào của xung đột khi chỉ vì hai phiếu khuyến
mãi dùng pizza mà nàng phủ nhận mối tình của hai người. Vậy là cái mộng
căn nhà nhỏ đầy tình yêu vỡ tan, giải thoát chàng trai với những chiếc bánh
pizza chán ngấy để về với mái nhà có căn bếp ấm cúng của mẹ “với những
đĩa cá quả chiên vàng ruộm, bát canh rau muống dầm sấu chua tê đầu lưỡi,
liễn thịt kho dừa thơm ngậy, và những quả cả pháo giòn tan”.
Đâu đó trong cuộc sống ta vẫn bắt gặp những câu chuyện như trên,
nhưng ta nhìn nó rất màu hồng, tình yêu sẽ làm mọi thứ trở nên dễ dàng.
Những bước chân vào cuộc sống hôn nhân ta mới thấy khó khăn mới thầy
màu hồng chỉ là tưởng tượng. Di Li đã rất khéo léo đưa câu chuyện muôn thở
của sinh viên vào trang văn, đưa một lời khuyên sâu sắc qua giọng văn bông
lơn khiến bạn đọc phải suy nghĩ. Qua câu chuyện của Di Li, ta nhận ra chỉ
tiến tới hôn nhân khi đã thực sự trưởng thành.
Bên cạnh vấn đề sống thử, nữ nhà văn còn hướng ngòi bút đến vấn đề
tình yêu online. Đồ mọt sách nói về nhân vật Biên tình cờ được đồng nghiệp
trong cơ quan giới thiệu game, anh đắm mình trong thế giơi ảo, với các nhiệm
vụ , rồi say mê cùng người con gái có nickname “Cheocheo” mà quên đi cuộc
sống thực. Biên chỉ thực sự tỉnh ngộ để rồi hoá điên thật sự khi công ty chàng
làm việc, gắn bó suốt chín năm chuyển đi nơi nào không biết, còn số điện thoại

của nàng “Cheocheo” xinh đẹp chỉ là một số giả.
Lời cảnh tỉnh cho các bạn trẻ đang say mê trong các cuộc đọ sức của thế
giới ảo, các bạn có khi nào nghĩ rằng ngôi nhà của mình cũng rời đi mà các
bạn khônng hề hay biết như nhân vật Biên không? Hay có bao giờ các bạn thắc
mắc, nàng “Cheocheo” của Biên là nam hay là nữ? Sau khi đọc xong câu
chuyện của Di Li, nhiều bạn đọc chắc chắn sữ phá lên cười và cũng thầm nghĩ


thế giới ảo và tình yêu online không bình yên như chúng ta vẫn nghĩ. Cả câu
chuyện chỉ là sự giả định, nhưng Di Li đã làm người đọc tỉnh ra mà không một
chút oán giận bởi cái văn phong hài hước – dí dỏm.
Quả thực, với cách nhìn hiện thực bằng con mắt hài hước, Di Li đã làm
bạn đọc đi hết câu chuyện này đến câu chuyện khác, được cảm nhận rõ
những vấn đề xã hội. Và mỗi bạn đọc đều nhận ra rằng, nếu ta nhìn cuộc đời
như Di Li thì có lẽ cuộc sống đã vui vẻ, nhẹ nhàng hơn.
1.3.2 Cảm quan hiện thực hài hước qua tạp văn, bút kí của Di Li
Cảm quan hiện thực hài hước không chỉ nằm trong các câu truyện ngắn
của Di Li, mà nó còn theo chân cô đi chu du khắp thiên hạ, cảm nhận mọi
vấn đề nhạy cảm của cuộc sống. Tât cả những góc nhìn trong các cuốn tạp
văn, bút kí của nữ nhà văn đều mang cái cảm quan này.
Di Li là người thích chủ nghĩa xê dịch nên cô bỏ ra nhiều thời gian, tiền
của để đặt chân đến nhiều nơi và thứ cô mang về nhiều hơn thế nữa. Những
chuyến đi xa là nguồn cảm xúc vô tận và kỳ ảo, nó phần nào thỏa mãn cô với
những khát khao phiêu lưu và khám phá thuở còn miên man trong thế giới cổ
tích. Và tất cả nằm trong cuốn du ký Đảo thiên đường, cuốn sách ghi lại
hành trình qua nhiều quốc gia của Di Li trong suốt 10 năm qua. Ấn tượng đầu
tiên về cuốn sách là khả năng đi nhiều, đi miệt mài từ Đông sang Tây của Di
Li, sau đó là lối dẫn dắt bởi một ánh mắt, lúc trầm tư, lúc bay bổng lãng mạn,
lúc lại sục sạo vào mọi ngõ ngách của những mảnh đất xa lạ. Chính vì vậy,
những chuyến đi trong Đảo thiên đường luôn hấp dẫn. Tác giả đã tỉ mỉ, chi

tiết mang đến một lượng thông tin rất phong phú, từ những chuyện nhỏ nhặt
như cách đi nhà ga, tàu điện; cách đối phó với thủ đoạn móc túi… đến những
chuyện lớn, đòi hỏi cái nhìn khái quát hơn như mô hình du lịch Thái Lan,
nghệ thuật bán hàng của người Trung Quốc...vv.


Di Li lại viết rất hóm hỉnh. Cô cách viết sao cho người đọc không bị xao
lãng bởi câu chữ của mình mà chỉ tập trung vào nội dung thông tin chị
chuyển tới. Chính vì vậy, cuốn sách sẽ như là lời chuyện trò dí dỏm với
những ai, cũng như chị, đã đặt chân tới một mảnh đất nào đó, sẽ như là lời
hướng dẫn tận tình với những ai sắp tới nơi mà chị đã đi qua.
Với cách quan sắt tỉ mỉ, Di Li đã nắm bắt được những nét gần như đặc
sắc nhất của những miền đất xa lạ. Chị viết về Thái Lan với điểm đến 3S: Sea
(Tắm biển), Shopping (Mua sắm) và Sex (Tình dục); Amsterdam với Tự do
tình dục và ma túy; Trung Quốc với nghệ thuật bán hàng lừa bịp và những
chiêu chèo kéo khách của người buôn bán… Xen giữa những quan sát rất sắc
sảo, Di Li đôi lúc khiến người đọc bật cười bởi những nhận xét hài hước: "Ở
một đất nước mà đạo Phật là quốc giáo nhưng có một điều mâu thuẫn, ấy là
đi 10 m lại có một ngôi chùa nhưng cũng 10 m lại có một cô gái làm nghề
quán bar" (Điểm đến ba chữ S - Thái Lan), "Các vụ trộm xe đạp xảy ra hàng
ngày. Người ta trộm xe đạp không phải vì giá trị của nó mà chỉ vì bất kỳ khi
nào cần sử dụng, họ liền chôm một chiếc xe dựng sơ hở, đi xong lại đem
liệng xuống các kênh đào. Vì lẽ đó, cứ hàng năm, chính phủ lại cho làm vệ
sinh các con kênh và lần nào cũng vớt lên được hàng trăm chiếc xe đạp đủ
loại" (Amsterdam - đèn đỏ treo cao - Hà Lan).
Di Li không chỉ nhìn hiện thực của các nơi chị đi hài hước bôn lơn mà
chị nhìn tuổi thơ của mình cũng không kém phần trong sang, hồn nhiên. Điều
đó được thể hiện tất rõ qua Nhật kí mùa hạ, cuốn sách là tập hợp những câu
chuyện từ thuở thơ bé tới khi học đại học của Di Li. Đó là những câu chuyện
có thực, được chị kể lại với giọng điệu vui tươi, lôi cuốn.

Đọc Nhật ký mùa hạ, những đọc giả yêu quí Di Li hẳn sẽ phải kinh ngạc
với một “tiểu Di Li” bướng bỉnh, đanh đá luôn “gây chiến đánh lộn” với đám
con trai “đầu bò đầu bướu”. Cô “nàng” có mối tình đầu từ lớp 5, bắt đầu viết


“thư hộc bàn” từ lớp 10, phải sống tự lập từ nhỏ và trở thành “nhiếp ảnh gia
vườn” từ thời trung học… Sau đó, người đọc lại được dịp phì cười với cô bé
chơi đồ hàng bằng cách bắc 3 viên gạch làm ba ông đầu rau và nhóm lửa lá
khô nấu chảy nồi cơm nhựa. Ngộ nữa là Di Li bé cực yêu chó nhưng cũng
thậm ghét mèo, có một “cuộc tình” hồi học tiểu học. Hay thật ngạc nhiên vì
cô bé sẵn sàng cấu véo bất cứ tên con trai “đầu gấu” nào…
Những câu chuyện Nhật ký mùa hạ đã phác họa nên hình ảnh một cô bé
trong trẻo, thẳng thắn, thông minh và bản lĩnh. Những câu chuyện hồi ức của
nhà văn Di Li gần gũi với mỗi bạn đọc ở lòng tốt, niềm tin hồn nhiên, sự
trong trẻo, chân thành của tuổi học trò. Người đọc sẽ mỉm cười chợt nhớ,
chợt bâng khuâng về những tháng ngày đẹp đẽ xa xưa không bao giờ còn
quay trở lại và rồi ước muốn có một chuyến tàu quay trở về với tuổi thơ.
Với lối diễn đạt tự nhiên, linh hoạt pha chút hài hước, hóm hỉnh nên mỗi
câu chuyện trong Nhật ký mùa hạ đều có được sự vận động cốt truyện, tính
văn học, tính rành mạch, điểm nhấn và tính nhân văn của Di Li nhẹ nhàng.
Nhật ký mùa hạ trong trẻo nhưng mang lại cảm xúc mãnh liệt không chỉ ở từ
ngữ mà còn ở vẻ đẹp của sự hoài niệm giản dị, yêu quý.
Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt cũng là một cái nhìn khác lạ nữa của
Di Li. Đây là 24 câu chuyện hài hước về những siêu tưởng của phụ nữ về
đàn ông và của đàn ông về phụ nữ được góp nhặt. Những câu chuyện nói về
“Những hotboy ế vợ”, “Hết duyên nhưng vẫn còn tình”, “Đàn ông hoàn hảo”,
“Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt”... và các câu chuyện khác là sự lật ngược
hoàn toàn vấn đề của tác giả đối với những quan niệm thường thấy trước nay
của số đông.
Đây là cuốn sách hướng thiện, hướng con người đến cuộc sống tốt hơn.

Trong cuốn sách, Di Li đã đặt ra những vấn đề rất nóng hiện nay trong cuộc
sống gia đình như người già 60, 70 tuổi có được yêu không? Khi chia tay nên


có thái độ như thế nào với người “cũ”… Đó là những câu chuyện thường
ngày của cuộc sống nhưng rất nhiều gia đình đã vấp phải và không thoát ra
được. Những câu chuyện vụn vặt ấy rất sắc sảo, mạch lạc nhưng được bọc
bởi một tấm vải lụa mềm mại, mượt mà.
Cuốn sách này không chỉ là một cuốn tản văn mà còn là một cuốn sách
thống kê rất đầy đủ và chi tiết tỉ lệ ly hôn, tỉ lệ chênh lệch giới tính, bao nhiêu
cô dâu Việt Nam lấy chồng nước ngoài đều được thống kê rất chính xác và
đầy đủ. Chính những thông tin, số liệu của cuốn sách là những mảnh ghép
của bức tranh xã hội đương đại.
Với giọng văn hài hước, hóm hỉnh, tác giả như trò chuyện, tâm tình,
chia sẻ những khúc mắc trong đời sống hằng ngày, giúp người phụ nữ biết
yêu bản thân hơn, tìm lại chính mình và đàn ông thêm hiểu phụ nữ để cùng
họ xây dựng và vun đắp mái ấm gia đình.
Cuốn sách này của Di Li đã đi ngược lại với số đông nên nó đón nhận
những cuộc tranh luận không có hồi kết, nhưng với cách nhìn hài hước, Di Li
luôn biết cách biến những điều phức tạp trở nên giản đơn. Vì thế, cuốn sách
đã nhận được những lời tán dương của các nhà phê bình cũng như bạn đọc.
Đọc xong Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt, bạn sẽ đổi mới tư duy.
Và cuốn Thị thành ký gồm 28 tản văn, là những câu chuyện ngắn được
tác giả chứng kiến, nghe kể lại hoặc cảm nhận, như những lát cắt phản ánh
nhiều chiều cuộc sống đô thị và tâm lý thị dân thời hiện đại. Đó là những câu
chuyện vừa bi, vừa hài về tính cách người Việt như thích chê vùi dập, thích
khen bốc giời, nghiện mua sắm, chỉ coi trọng “cửa trước” mà coi thường
“cửa sau”...Những câu chuyện này cũng được Di Li nhìn bằng cảm quan hiện
thực hài hước.
Có người cho rằng những câu chuyện của Di Li chẳng qua chỉ là lí sự,

nhưng sau khi đọc xong tác phẩm ta thấy đây là 28 câu chuyện này thực ra


không hoàn toàn là lý sự. Tết không còn như xưa, hay Ta ăn Tết tây thuần
túy là những ghi chép dễ thương, những cảm nhận tinh tế, đầy nữ tính về
những khoảng tĩnh lặng giữa những ồn ào trong đời sống của một thị dân trẻ
tuổi. Nhưng, những ghi chép ấy chỉ là một hai nét điểm xuyết bất ngờ trong
suốt tập sách này.
Phần còn lại của cuốn sách giống như một tập khảo luận về tâm lý và
văn hóa thị dân đương đại. Rất nhiều vấn đề khác nhau xung quanh thói, tật
của thị dân đương đại đã được Di Li đem ra để lý sự. Từ cơn sốt mua sắm đã
trở thành ‘căn bệnh’ của tất cả nam, phụ, lão, ấu đến thói a dua chạy theo
những giá trị vật chất tạm thời của người trẻ. Và cả những sự lai tạp, hổ lốn,
thậm chí là hụt hẫng về văn hóa sống của giới văn nghệ, thậm chí là trí
thức...Độ phổ rộng của những vấn đề được Di Linh đề cập trong cuốn sách
này khiến chúng ta tin rằng bất cứ ai đọc qua cũng sẽ thấy bóng dáng của
chính mình, những hành vi đã trở thành thói quen của bản thân đang bị người
phụ nữ ấy kín đáo quan sát và phân tích.
Như vậy, cảm quan hiện thực hài hước là thứ không thể thiếu trong
các sáng tác của Di Li. Nó làm cho các trang văn của cô nhẹ nhàng, hấp
dẫn, khiến cho những trang văn của cô không quá khô khan. Chính cái
cách Di Li nhìn cuộc đời hài hước, không đao to búa lớn, cứ tưng tửng
mà viết, mà kể những chuyện để người đọc vừa cười tủm tỉm vì nó dí
dỏm, nhưng cũng khiến ta phải suy nghĩ. Chính điều đó làm bạn đọc
thêm mến mộ và tìm đến các sáng tác của cô.
Tiểu kết chương 1
Tóm lại, thể loại tản văn, bút kí đã có rất nhiều nhà văn thử nghiệm
nhưng để lại dấu ấn bởi cái cảm quan hiện thực hài hước thì đâu đó trong văn
học Việt Nam chỉ có vài người, trong đó có nữ nhà văn xinh đẹp mang tên Di
Li, một hiện tượng lạ của làng văn Việt. Kế thừa chất hài của truyền thống,



Di Li tiếp nối và đưa nó sâu vào từng thể loại khác nhau. Trong các sáng tác
của cô, cái hài đi từ nhưng câu truyện ngắn đến những trang tạp văn sinh
động và về bên những kí ức tươi đẹp ở thể loại bút kí. Qua đó, có thể thấy,
chất hài trong tạp văn bút kí của Di Li chính là chất xúc tác khiến bạn đọc
thích thú, say mê trên mỗi trang văn.



×