Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đặc điểm giáo dục Việt Nam thời phong kiến, ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở Nhà trường hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.22 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.

Giáo dục Việt nam dưới chế độ phong kiến

Trang
4
6

1.1.

Bối cảnh lịch sử

6

1.2.

Tư tưởng giáo dục chủ đạo của nền phong kiến Việt Nam

7

1.3.

8

1.4.

Hệ thống tổ chức của nền giáo dục phong kiến Việt Nam
Lực lượng giáo dục


1.5.

Chế độ khoa cử

9
9

1.6.

Đặc điểm giáo dục

9

Đặc điểm cơ bản của giáo dục quân sự Việt Nam thời

11

phong kiến
Ưu và nhược điểm giáo dục Việt Nam thời phong kiến

12

1.7.
1.8.
2.

Ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục
ở nhà trường hiện nay

13


2.1.

Ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở
nhà trường nói chung hiện nay

13

2.2.

Ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở
nhà trường quân đội hiện nay

18

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

20
21

MỞ ĐẦU
3


1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội. Cũng giống như các yếu tố
khác, giáo dục cần phải được quan tâm nghiên cứu đúng mực, trên tắt cả các
phương diện như lý luận, tư tưởng, lịch sử giáo dục... nhằm đem lại cho
chúng ta một cái nhìn tồng quát nhất, đầy đủ nhất về giáo dục dân tộc. Trên

phương diện lịch sử tư tưởng, giáo dục mở ra nhiều khía cạnh cho chúng ta
có thể nghiên cứu khái quát, từ đó chúng ta có thể kế thừa và phát triển tư
duy lý luận về giáo dục, định hướng cho thực tiễn đa dạng phong phú, đó
cũng là một việc làm cần thiết. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, có rất nhiều vấn đề lý luận được đặt ra cần phải giải quyết,
vấn đề lý luận đó không phải chỉ ở một lĩnh vực, một ngành khoa học nhất
định mà cần phải khái quát ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, giáo dục
cũng không phải là ngoại lệ.
Hiện nay, giáo dục Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, nhưng
vẫn còn những hạn chế nhất định, vì vậy việc nghiên cứu lý luận về giáo dục
đã trở nên quan trọng và không ngừng hoàn thiện trong quá trình xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, Tiểu luận: “Đặc điểm giáo dục Việt Nam thời
phong kiến, ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở Nhà trường
hiện nay”, nhằm tìm hiểu đặc điểm của giáo dục Việt Nam thời phong kiến,
đồng thời đánh giá những ưu điểm và hạn chế để rút ra ý nghĩa trong đổi mới
giáo dục và quản lý giáo dục ở Nhà trường hiện nay.
Là một học viên lớp Cao học Quản lý giáo dục 2019, tôi nhận thức đây
là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, thông qua đó, bản thân có hiểu biết sâu
hơn về lịch sử giáo dục của dân tộc Việt Nam thời phong kiến và hỗ trợ rất tốt
cho học chuyên ngành sau này.
2. Giới hạn của tiểu luận
Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm giáo dục Việt Nam thời phong kiến, ý
nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở Nhà trường hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đi sâu nghiên cứu trong phạm vi của lĩnh vực giáo
dục, ngoài ra còn đề cập đến đặc điềm kinh tế - xã hội - chính trị - văn hoá của
thời phong kiến để có cái nhìn toàn diện nhất về nền giáo dục.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp logic kết hợp với lịch sử, phân tích với
tổng hợp để rút ra những kết luận cơ bản nhất về đặc điểm, ưu điểm và hạn
chế, những bài học của nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến, từ đó rút ra ý

nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở nhà trường hiện nay.
4. Giá trị, ý nghĩa của tiểu luận
4


Tiểu luận phân tích các khía cạnh của nền giáo dục thời phong kiến như
mục tiêu, tính chất, nội dung, phương pháp, hệ thống giáo dục... đồng thời, đánh
giá những thành tựu cũng như hạn chế của nền giáo dục Việt Nam thời phong
kiến. Từ đó, rút ra ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở Nhà
trường hiện nay. Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần củng cố về nhận
thức, làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử phát triển về giáo dục của dân tộc.
5. Cấu trúc của tiểu luận
Tiểu luận gồm mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo.

NỘI DUNG
5


1. Giáo dục Việt nam dưới chế độ phong kiến
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Quá trình phát triển
Năm 257 (TCN), Thục Phán đã thống nhất các bộ lạc Âu Việt và Lạc
Việt, lập ra nước Âu Lạc, xưng là An Dương Vương.
Năm 179 (TCN), Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc và thiết lập chế độ
cai trị của đế chế phương Bắc. Trải qua hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, đã nổ ra
các cuộc khởi nghĩa lớn: khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43), Bà Triệu (248),
Lý Bí (542), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766 -791), Khúc Thừa Dụ
(905), Dương Đình Nghệ (931)...
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, giành quyền độc lập tự
chủ cho dân tộc, mở đầu thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.

Năm 965, xảy ra “Loạn 12 xứ quân”. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12
xứ quân, lập ra nước Đại Cổ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Vào cuối triều Đinh, quân
Tống xâm lược nước ta, triều thần đã tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi
vua; đánh tan quân Tống xâm lược vào năm 981.
Năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh mất (triều Tiền Lê kết thúc), Lý
Công Uẩn lên ngôi vua, năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng
Long. Ba triều đại Lý - Trần - Hồ, gắn liền với các cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh. Triều Lý thực hiện cuộc kháng chiến
chống Tống (1075 - 1077). Triều Trần ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên (1258; 1285 và 1288). Triều Hồ thực hiện cuộc kháng chiến chống
Minh (1406 - 1407). Những năm cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, chế độ
phong kiến Việt Nam dần dần suy yếu. Năm 1527, tập đoàn phong kiến do
Mạc Đăng Dung cầm đầu đã phế truất nhà Lê lập ra nhà Mạc.
Họ Mạc chiếm vùng Bắc Bộ, gọi là Bắc Triều. Nhà Lê (Lê Trung Hưng),
chiếm vùng Thanh Hoá trở vào, gọi là Nam Triều. Cuộc xung đột Nam - Bắc
triều kéo dài gần nửa thế kỷ (1545 - 1592), ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống
nhân dân, trong đó có giáo dục.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến Việt Nam
Tổ chức nhà nước: là nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, chịu
ảnh hưởng của tổ chức nhà nước phong kiến Trung Quốc. Xã hội có hai giai cấp
cơ bản là quý tộc địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân phụ thuộc.
Trong thời kì xây dựng và phát triển dân tộc ta đã tiến hành 4 cuộc kháng
chiến lớn chống giặc ngoại xâm: Kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn, Lý
Thường Kiệt lãnh đạo (TK XI); kháng chiến chống Nguyên Mông do nhà Trần

6


lãnh đạo (TK XIII); kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo (TK
XV); Tây Sơn đánh quân Thanh ( TK XVIII).
Kinh tế: Kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc là mô hình kinh tế chiếm giữ

vị trí thống trị. Ruộng đất nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến.
1.2. Tư tưởng giáo dục chủ đạo của nền phong kiến Việt Nam
Nho giáo là Tư tưởng giáo dục chủ đạo của nền phong kiến Việt Nam, đó
là học thuyết bao gồm các tư tưởng chính trị, đạo đức, triết học, giáo dục do
Khổng Tử (551- 479 TCN) là người sáng lập trong thời Trung Hoa cổ đại.
Về mặt chính trị: Mong muốn phục hưng lễ giáo nhà Chu, ổn định xã hội
Trung Hoa bằng đức trị và lễ trị. Về nhân: Mong muốn tạo ra một mẫu người
quân tử, tầng lớp trên của xã hội, đối lập với kẻ tiểu nhân. Nhân quy lại là cách
đối nhân xử thế giữa người và người theo chế độ đẳng cấp và quan hệ tông pháp
Các môn đệ xuất sắc nhất của Nho giáo gồm có Mạnh Tử (385-354 TCN), Tuân
Tử (298-238). Nho giáo bao gồm 4 vấn đề cơ bản: Thế giới quan duy tâm; quan
niệm về lich sử; đạo đức; trị đạo. Bốn vấn đề cơ bản của nho giáo đó là:
Thế giới quan duy tâm: Tin là có trời. Trời là chủ thể của vũ trụ, chi phối
mọi sự việc trên thế gian. Bên cạnh trời có quỷ thần, quỷ thần bao quát được tất
cả. Dần dần kính và thành trở thành cái gốc luân lí của đạo Nho và trở thành cái
gốc đạo đức luân lý của người VN.
Quan niệm về lịch sử: Các nhà nho luôn tin vào lịch sử, dựa vào lịch sử
và kinh nghiệm của lịch sử để chứng minh cho đạo đức và trị đạo của mình.
Quan niệm về đạo đức: Hạt nhân cơ bản của nho giáo là đạo đức, các
quan điểm đạo đức này chi phối và chỉ đạo đường lối trị nước và hình thành đạo
đức của xã hội. Cái học của nho giáo là đào tạo người hiền nhân, hiền giả. Quan
niệm về đạo đức trong nho giáo - Nho giáo chủ trương lấy đức để trị nước. Đức
ở đây là đạo đức của nhà vua. Nội dung của đức là phải thực hiện được 3 điều:
Thứ, Phú, Giáo (làm cho dân cư được đông đúc, kinh tế phát triển, dân được học
hành). Đạo đức nho giáo cô đọng ở 2 chữ: Luân, thường hay Cương thường
Luân là ngũ luân, bao gồm 5 mối quan hệ: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng,
bạn bè. Sau này ngũ luân rút lại còn 3: vua tôi (Trung: trung quân, trung với
vua); cha con (Hiếu: đạo hiếu); vợ chồng (biểu hiện ở sự phụ thuộc của người
vợ đối với người chồng mà từ đó nảy sinh ra thuyết tam tòng). Đây là 3 mối
quan hệ rường cột của chế độ phong kiến. Thường tức Ngũ thường, biểu hiện ở

5 đức tính của người quân tử Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Có được 5 đức tính này
thì người quân tử trở thành người hiền. Theo quan niệm của nho giáo, hạt nhân
của đạo đức là chữ Nhân, biểu hiện cụ thể của nhân là Lễ. Con đường để đạt đến
Nhân là chính danh.
7


Trị đạo: Nguyên tắc trị đạo của Khổng Mạnh là chính danh và lễ trị.
Chính danh: Khổng Tử quan niệm có Danh và Thực. Danh là tên gọi, chức vụ,
thứ bậc của người nào đó phải phù hợp với Thực, tức là phận sự của người đó.
Danh và Thực trong mỗi người phải phù hợp với nhau tức là mỗi người phải làm
theo đúng nghĩa vụ và bổn phận của mình. Lễ trị: theo quan điểm của Khổng Tử
vừa là nghi lễ, vừa là thể chế chính trị, vừa là quy phạm đạo đức. Trong mối
quan hệ giữa Nhân và Lễ thì Nhân là nội dung của lễ, lễ là hình thức của nhân,
nhân lnà chuẩn tắc để quy định lễ, lễ là quy định để thực hiện nhân. Lễ nghi
phong kiến quy định các tục lệ thiết triều của vua, sắc phục, quần áo của các
phẩm hàm quan tước trong triều, các thủ tục ma chay, cưới xin, ăn hỏi…
1.3. Hệ thống tổ chức của nền giáo dục phong kiến Việt Nam
1.3.1. Trường học thầy đồ
Là loại trường tư thục được lập ra ở nông thôn, ở các làng xã thu hút trẻ
em từ 7 tuổi trở lên.
Tổ chức lớp học: số lượng HS không có quy định cụ thể, tùy vào tiếng
tăm của thầy.
Tài liệu học tập: Thông thường là các sách kinh điển của Nho gia, các bài
văn, bài thơ của các vị TS đã thi đỗ trước đó. Phương pháp dạy và học: PP thầy
đọc, trò nghe, học thuộc lòng cổ sử, cổ văn, học thuộc lòng những lời nói của cổ
nhân, thánh hiền. Kỉ luật học tập chủ yếu được duy trì bằng roi vọt đánh mắng
1.3.2. Một vài trường học nổi tiếng
Trường của thầy Chu Văn An (1292-1370), đời nhà Trần, ở xã Thanh Liệt,
huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Trường của thầy Trần ích Phát (Thế kỷ XV,

huyện Chí Linh, Hải Dương). Trường Nghi Am của thầy Nhữ Bá Sỹ (Thế kỉ
XIX). Trường của bà Ngô Chi Lan (Thế kỷ XV ở Kim Hoa, Đông Anh, Hà Nội).
Trường của bà Đoàn Thị Điểm (Thế kỷ XVIII ở huyện Mỹ Hào, Hải Dương).
1.3.3. Trường công
Từ thời nhà Trần trở đi, ở mỗi phủ, huyện có các quan giáo thụ và huấn
học trong nom việc học và dạy tứ thư, ngũ kinh cho các nhà nho. Trường Quốc
tử giám là trường đại học đầu tiên của Việt Nam được xây dựng từ thế kỉ XI
(năm 1076) dưới triều Lý Công Uẩn. Đây là nơi biểu trưng cho trí tuệ và nền
văn hiến Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Sự phát triển của nó tùy thuộc vào
sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi triều đại phong kiến.
Bộ máy tổ chức quản lí nhà trường (thời Nguyễn): Tế tửu và Tư nghiệp là
chức quan quản lí cao nhất của nhà trường. Đội ngũ quan văn làm công tác
giảng dạy gồm có: học chánh, giáo thụ, trợ giáo (tối thiểu phải đỗ cử nhân).
8


Học trò: có Tôn sinh thuộc dòng tôn thất, ấm sinh là con quan triều đình và
con quan lại đứng đầu hàng tỉnh ở các địa phương, giám sinh là con quan lại nhỏ
ở địa phương hoạc những thanh niên tuấn tú xuất thân từ tầng lớp thường dân.
Chế độ học bổng, thưởng phạt: Dựa vào kết quả của các kỳ khảo hạch để
cấp học bổng bằng dầu, gạo cho học trò
Tài liệu học tập Gồm những sách kinh điển chủ yếu của Nho giáo: Tứ thư,
Ngũ kinh. Tứ thư gồm 4 cuốn sách kinh điển của Nho giáo (Đại học, Trung
dung, Luận ngữ, Mạnh Tử). Ngũ kinh gồm 5 kinh (Kinh thư, Kinh dịch, Kinh lễ,
Kinh xuân thu) do Khổng Tử chép và chỉnh lí.
1.4. Lực lượng giáo dục
Gia đình: Truyền cho con cái những lễ nghĩa, quy tắc đức hạnh.
Hội đồng môn: những người bạn học tập hợp nhau lại, có trách nhiệm giữ
gìn phẩm chất cho nhau và giữ gìn lòng biết ơn thầy day.
Hội tư văn: hội của các nhà Nho ở cùng một địa phương.

1.5. Chế độ khoa cử
Nhà Lý năm 1070 mở Quốc Tử Giám làm nơi học tập cho con em quý tộc
quan lại. Chế độ giáo dục và thi cử đã mang tính chất chính quy. Giáo dục gắn
với sự truyền bá Nho giáo.
Nhà Trần: Phật giáo và Đạo giáo vẫn được coi trong. Nho giáo chưa hoàn
toàn được giữ vị trí độc tôn.
Nhà Hồ: Hồ Quý Ly coi trọng chữ Nôm. Năm 1396 ông định phép thi
Hương, thi Hội, thi Đình. Phép thi cử ngày càng trở nên quy củ.
Nhà Lê: Năm 1428, Lê Thái Tổ lập trường Quốc Tử Giám để cho con
cháu quan lại và các thường dân tuấn tú được vào học.
Năm giai đoạn đầu thời Lê, chế độ khoa cử phát triển toàn diện, nho giáo
chiếm vị chí độc tôn và là tư tưởng chủ đạo.
Nhà Mạc: Lập một số văn miếu tại các tỉnh, cứ 3 năm mở một kỳ thi hội,
thi đình để tuyển chọn nhân tài.
Nhà Lê - Trịnh: Việc học vẫn phát triển, các khoa thi vẫn mở để tuyển chọn
nhân tài. Nhưng cuối đời nảy sinh nhiều tiêu cực, nền giáo dục bị suy thoái.
Vua Quang Trung: Việc học được mở rộng, chế độ thi cử được chấn chỉnh
lại. Quang Trung muốn đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức, chữ Hán không còn
giữ vị trí độc tôn.
Nhà Nguyễn: Năm 1918 là khoa thi Hương cuối cùng ở Việt Nam. Địa vị
thống trị của Nho giáo không còn nữa.
1.6. Đặc điểm về giáo dục
Mục tiêu giáo dục: Đào tạo con em quan lại thành người Quân tử, kẻ sĩ.
9


Nội dung giáo dục chủ yếu là nho giáo. Đặc trưng nổi bật của giáo dục
Việt Nam thời Phong kiến là nền giáo dục Nho học. Thời kỳ đầu dựng nước,
bên cạnh giáo dục nho học có sự tồn tại của các loại hình giáo dục Phật giáo
và Đạo giáo. Tuy có sự khác nhau nhưng các loại hình giáo dục trên không

bài trừ lẫn nhau. Tâm giáo thịnh vượng nhất là thời Lý - Trần, triều đình
nhiều lần đứng ra tổ chức kỳ thi Tam giáo bao gồm cả 3 nội dung Nho - Phật
- Đạo. Tuy nhiên, các triều đại Phong kiến nối tiếp nhau luôn lấy Nho giáo
làm hệ tư tưởng chính thống. Vì thế, Nho giáo gần như trở thành hệ thống
giáo dục chính thống và tồn tại trong suốt thời kỳ Phong kiến. Sách giáo
khoa chính của Nho giáo ở bậc cao là Tứ thư, Ngũ kinh và Bắc sử.
Phương pháp giáo dục: Trí dục và đức dục. Trí dục: Chủ yếu phương
pháp thuộc lòng, dùi mài kinh sử, Kinh viện, giáo điều. Đức dục: Chủ yếu sử
dụng phương pháp nêu gương (Thân giáo trọng ư ngôn giáo - Nguyễn Trãi)
Tổ chức trường lớp và thi cử: Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây Văn
miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công và tứ phối (Mạnh tử, Tăng Tử, Tử Tư, Nhan
Uyên ). Năm 1076, Lý Nhân Tông cho xây dựng Quốc Tử Giám, làm nơi dạy
học cho các hoàng tử. Thời Lý, việc tổ chức khoa cử ngày càng nền nếp. Năm
1075, Lý Nhân Tông cho mở khoa thi đầu tiên, lấy tên là Minh kinh bác học
(các kỳ tiếp theo được tổ chức vào các năm 1086, 1186, 1195,…).
Thời Trần, năm 1236, Quốc Tử Giám được đổi thành Quốc Học Viện,
dần dần mở rộng cho con em các đại quan vào học. Năm 1253, Trần Thái
Tông xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước, những người thông kinh sử
được đến Quốc Tử Viện học tập. Tổ chức khoa cử đi vào quy củ, nền nếp
hơn trước. Năm 1232, Trần Thái Tông cho mở khoa thi Thái học sinh. Năm
1247, Trần Thái Tông đặt ra định chế tam khôi: (Trạng nguyên, Bảng nhãn,
Thám hoa - 3 người có kết quả cao nhất trong cuộc thi đình). Thời Hồ, Năm
1404, Hồ Hán Thương định cách thi cử nhân. Do tồn tại trong thời gian quá
ngắn nên triều Hồ chỉ tổ chức được 2 khoa thi, nhưng đã đào tạo được nhiều
danh nho, danh thần nổi tiếng (Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên).
Nhìn chung, dưới các thời Lý - Trần - Hồ, hệ thống trường học được
tổ chức từ bậc Ấu học đến bậc Đại học. Tuy có sự phát triển, tiến bộ so với
các thời kỳ trước, song sự phát triển còn chậm, số trường học do nhà nước
mở còn ít, chỉ có ở kinh đô và một số phủ, châu. Việc học tập ở địa phương,
hầu như do dân tự lo liệu, chủ yếu là do nhà chùa và các nho sĩ mở.

Dưới các triều Mạc - Lê, Trịnh - Nguyễn, việc học và thi tiếp tục được duy
trì. Song, cùng với bước đường suy tàn của chế độ phong kiến, nền giáo dục
nước ta có nhiều bước thụt lùi về chất lượng. Nhiều giá trị hầu như bị đảo
lộn, các sĩ tử theo lối học chạy theo danh lợi, xa rời chính học.
10


Tóm lại, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, chế độ giáo dục và thi cử Nho
học vẫn được các triều đại phong kiến ở cả 2 miền Nam Bắc duy trì. Song
trên bước đường suy vong của chế độ phong kiến, nội dung giáo dục và chế
độ thi cử ngày một suy giảm về chất lượng, chỉ còn bề nổi, không còn chiều
sâu; tình trạng này nằm trong sự suy tàn chung của ý thức hệ Nho giáo.
1.7. Đặc điểm cơ bản của giáo dục quân sự Việt Nam thời phong kiến
Nhận thức về vai trò của giáo dục quân sự: Các triều đại phong kiến nhìn
chung đều thấy rõ được tầm quan trọng của giáo dục quân sự. Vì có thông qua
huấn luyện mới đảm bảo cho quân sỹ có đủ khả năng đáp ứng sự nghiệp kháng
chiến cứu nước cũng như bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Không chỉ coi
trọng giáo dục quân sự trong thời chiến mà ngay trong cả thời bình.
Tính chất của giáo dục quân sự: Nhìn chung giáo dục quân sự trong các
triều đại phong kiến mang tính nhân dân. ở các triều đại phong kiến tiến bộ thì
tính nhân dân càng thể hiên sâu sắc. Khi tiến hành chiến tranh yêu nước chống
kẻ thù xâm lược thì trăm họ là lính (bách tính vi binh), toàn dân là lính (tạn dân
vi binh), cả nước đánh giặc.
Tổ chức trường lớp: Ngoài những trường nhà nước mở (Nhà Lý lập xạ đình
1170; Nhà Trần lập giảng võ đường 1235. Còn các trường lớp do dân mở, các
trường lớp trong nhân dân, từ các nhà chùa, từ lò võ vật (Lò võ đường Lâm, Mai
động, Thuận thành, Phái võ Bình Định…)
Mục tiêu giáo dục: Nhằm đào tạo những tướng sỹ có phẩm chất, tài năng,
những người chỉ huy chiến đấu và tham gia chiến đấu đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Nội dung giáo dục: Nhìn chung nội dung giáo dục phong phú thiết thực và
toàn diện bao gồm cả Chính trị, tinh thần và quân sự.
Về chính trị tinh thần: Giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc; ý thức độc
lập dân tộc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng; đạo đức nhân nghĩa lòng trung
quân ái quốc; ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết.
Giáo dục quân sự bao gồm: Võ kinh và võ nghệ
Võ kinh là lý luận quân sự: Võ kinh thất thư, bộ kinh gồm bảy quấn, tuyển
chọn từ trăm bộ binh thư cổ của Trung Quốc trong khoảng 1500 năm. Từ cuối
thời Xuân thu đến thời Bắc Tống gồm: “Binh pháp Tôn Tử; Tư Mã pháp; Lục
thao; Binh pháp Ngô Khởi; Uất liêu tử; Tam lược; Đường lý vấn đối”. Binh thư
yếu lược của Trần Hưng Đạo; Hổ trường khu cơ của Đào Duy Từ.
Võ nghệ là Võ thuật, Kỹ thuật sử dụng trang bị vũ khí; chiến thuật và nghệ
thụt tác chiến (Cách đánh tập kích, mai phục, tiến công, phòng thủ, phản công,
bao vây, chia cắt, phân tán địch).
11


Phương pháp, hình thức giáo dục quân sự: Các phương pháp phong
phú,đa dạng, linh hoạt, két hợp cả phương pháp đức dục và phương pháp trí
dục. Coi trọng việc kết hợp phương pháp giáo dục xây dựng các phẩm chất
nhân cách cho quân sỹ (Thuyết phục, Nêu gương, Rèn luyện, Răn đe, Khen
thưởng, Xử phạt). Coi trong luyện tập thực hành chiến đấu (Luyện tập trận đồ,
hiệp đồng chiến đấu, tập dượt cung tên, cưỡi ngựa, đấu gươm, chèo thuyền
luyện tập thuỷ chiến).
Kết hợp tác chiến chính quy và không chính quy, dài hạn và ngắn hạn. Kết
hợp vừa huấn luyện vừa tổ chức chiến đấu. Chú trọng thi cử cả võ kinh và võ nghệ
thi đấu nhiều môn khác nhau, bổ nhiệm chức danh, chức vụ thông qua thi cử.
1.8. Ưu và nhược điểm giáo dục Việt Nam thời phong kiến
Ưu điểm: Các triều đại phong kiến Việt Nam cùng với việc chăm lo phát
triển các mặt kinh tế, xã hội cũng đã chú trọng tới việc phát triển giáo dục.

Ví dụ: thế kỷ XV - XVI, các phủ, lộ đều có trường công,... Đã phát triển
nhiều trường tư để dạy con em của nhân dân với mong muốn cho con em
của nhân dân đi học vài chữ để làm người; phát triển giáo dục gia đình.
Nền giáo dục Việt Nam thời Phong kiến từng bước được mở rộng và
chính quy nhưng vẫn chưa phải là nên giáo dục giành cho mọi người; chỉ có
con em của những người giàu, quý tộc mới được đi thi (thi là để làm quan);
con em nhà nông cơ bản không được đi thi. Tính độc lập, tự chủ, ý thức tự
lực, tự cường trong giáo dục, nó đã góp phần to lớn trong việc gìn giữ đất
nước, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc.
Giáo dục Việt Nam thời Phong kiến để lại cho chúng ta nhiều bài học
quý trong việc tổ chức nền giáo dục hiện nay. Bài học về tổ chức giáo dục
(giáo dục nhà trường, giáo dục trong gia đình, ở trường công, trường tư,…).
Bài học về tổ chức thi cử, về bổ nhiệm người tài,.. Chế độ khoa cử là một
trong những đặc trưng cơ bản của hệ thống giáo dục phong kiến.
Thông qua chế độ khoa cử để chọn người hiền tài đảm nhiệm các chức
vụ quan lại thực hiện chức năng quản lý bộ máy nhà nước phong kiến. Còn
đối với nhân dân, thi cử là con đường tiến thân lập nghiệp, vì vậy được nhân
dân hết sức coi trọng.
Đồng thời, giáo dục thời phong kiến đã tạo nên một đất nước có truyền thống
hiếu học, yêu chuộng văn hóa, Tôn sư trọng đạo. Tạo nên những nhà văn hóa, nhà
giáo dục, nhà sử học, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu, nhà quân sự nổi tiếng….
Hạn chế: Mục đích của nền giáo dục Phong kiến không nhằm vào
những con người làm khoa học, lao động sản xuất để phát triển xã hội mà
đào tạo những con mọt sách, những đồ đệ phục vụ tầng lớp phong kiến:
12


quân - quân, thần - thần, phụ - phụ, tử - tử. Đào tạo ra thế hệ những con người
bảo thủ, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Tư tưởng giáo dục độc quyền chi phối nền giáo dục và chế độ khoa cử,

tức là đào tạo và lựa chọn quan lại cho bộ máy nhà nước phong kiến. Mục đích
đầu tiên của giáo dục là truyền đạt các khái niệm về đạo đức nho giáo và dạy
chữ Hán. Tạo ra một lớp người hạn chế về suy nghĩ và tình cảm thực sự, những
xác chết, những cỗ máy phục vụ cho cấp trên.
Nội dung giáo dục nghèo nàn, nặng về văn chương; nội dung về lao
động sản xuất, khoa học kỹ thuật hầu như không có (Do ảnh hưởng tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử, mà Khổng Tử thì không quan tâm đến lao động sản
xuất). Phương pháp giáo dục giáo điều, uy quyền, nặng về học cổ, ít quan tâm
phát triển xã hội. Tổ chức bất bình đẳng trong giáo dục: trọng nam kinh nữ,
con em tầng lớp quý tộc mới được đi thi, không phải mọi người đều có cơ hội
đi học. Triều đình chỉ lo giáo dục cho con em vua chúa và quan lại ở Kinh đô
còn ở những nơi khác phải mời thầy đồ về giảng dạy. Tài liệu học tập hết sức
hạn chế, chỉ có 2 loại: Do Trung Quốc biên soạn là tứ thư, ngũ kinh và 1 loại
do người Nam soạn. Tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt nhưng nội dung thi rất
khập khiễng, các đề thi chủ yếu ca tụng vua chúa, ca ngợi triều đình, ca ngợi
nho giáo. Thời gian thi qua các kỳ kéo dài, ngắn: có kỳ 3 năm, có kỳ 10 năm.
Tóm lại, dù có những hạn chế nhất định nhưng nền giáo dục thời
Phong kiến đặc biệt là những lúc đỉnh cao, đã có những đóng góp to lớn cho
nền giáo dục nước nhà; thực sự là đòn bẩy thúc đẩy tinh thần học tập, truyền
thống hiếu học và bồi đắp nguyên khí cho quốc gia trong những giai đoạn
phát triển của lịch sử giáo dục dân tộc. Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc, để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong tổ
chức giáo dục hiện nay.
2. Ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo
dục ở nhà trường hiện nay
2.1. Ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở nhà trường
nói chung hiện nay
Từ những đặc điểm về giáo dục của thời phong kiến, nhất là những ưu
điểm và hạn chế được rút ra, thấy rằng nó có ý nghĩa rất lớn trong đổi mới giáo
dục và quản lý giáo dục ở Nhà trường hiện nay. Ta cần nhận thấy được những ưu

điểm để tiếp tục xây dựng một nền giáo dục tiến tiến, đồng thời khắc phục
những hạn chế làm kìm hạn sự phát triển giáo dục của nước nhà. Từ đó, đề ra
những nội dung nhằm đổi mới giáo dục. Đổi mới giáo dục là vấn đề đã được
Đảng và nhà nước quan tâm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ban hành Nghị
quyết số 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, cụ thể:
13


Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với đổi mới giáo dục và đào tạo
Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính
trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất
lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục; gia đình có trách nhiệm
phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho
con em mình.
Coi trọng công tác phát triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các
trường học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi
bộ; các trường đại học có đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục - đào tạo
phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm trước
Đảng, trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo
viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân
dân địa phương để xây dựng nhà trường.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm
các hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Hai là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo
dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học

Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công khai
mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên
ngành đào tạo. Coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở
giáo dục và đào tạo; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người
học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội
dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi,
trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức
công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và
đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất,
kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học
theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học.
Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số; dạy tiếng Việt và
truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài. Đa dạng hóa nội
14


dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo
dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại;
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ
yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội,
ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học.
Tiếp tục đổi mới và chuẩn hóa nội dung giáo dục mầm non, chú trọng kết

hợp chăm sóc, nuôi dưỡng với giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý,
yêu cầu phát triển thể lực và hình thành nhân cách.
Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện
đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân
hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề
và hoạt động giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy
và học phù hợp với từng đối tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số
và học sinh khuyết tật.
Nội dung giáo dục nghề nghiệp được xây dựng theo hướng tích hợp kiến
thức, kỹ năng, tác phong làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng lực nghề
nghiệp cho người học. Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại
học theo hướng hiện đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành đào tạo và việc
phân tầng của hệ thống giáo dục đại học. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo,
kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận
trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới.
Ba là, đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh
giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước
theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy
và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với
đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của
người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.
Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo
hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung
thực, đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận
tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý
15



thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và cá nhân sử
dụng lao động tham gia vào việc đánh giá chất lượng của cơ sở đào tạo.
Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử
dụng kết quả học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả
đào tạo đại học theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi
mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và
công nghệ; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm
việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học.
Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng
chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, không quá nặng về
bằng cấp, trước hết là trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Coi sự chấp
nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh
giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để
định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo.
Bốn là, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh
phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông.
Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện
cụ thể của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới.
Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học
gắn với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân
lực. Thống nhất tên gọi các trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra. Đẩy mạnh giáo
dục nghề nghiệp sau trung học phổ thông, liên thông giữa giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với
nghiên cứu khoa học. Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo định
hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. Hoàn thiện mô hình đại học quốc
gia, đại học vùng; củng cố và phát triển một số cơ sở giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp chất lượng cao đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.

Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất
lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Đa dạng hóa các phương
thức đào tạo. Thực hiện đào tạo theo tín chỉ. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng
lực, kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân
người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình
đào tạo và đánh giá năng lực người học.

16


Năm là, đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm
dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở
giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng
Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục,
đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa
phương. Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và
đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ
động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nhất là về chương trình, nội dung
và chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo của nước
ngoài tại Việt Nam. Phát huy vai trò của công nghệ thông tin và các thành tựu
khoa học-công nghệ hiện đại trong quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo.
Các cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo địa phương tham gia quyết định về quản
lý nhân sự, tài chính cùng với quản lý thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.
Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo;
chú trọng quản lý chất lượng đầu ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về
chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục, đào
tạo. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục, đào tạo;

nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia
đánh giá cơ quan quản lý nhà nước.
Hoàn thiện cơ chế quản lý cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam; quản lý học sinh, sinh viên Việt Nam đi học nước ngoài bằng nguồn
ngân sách nhà nước và theo hiệp định nhà nước.
Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo;
phát huy vai trò của hội đồng trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong
nhà trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản
lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
Sáu là, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục và đào tạo
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh,
quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng
cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở,
giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học
trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sỹ
trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.
17


Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý.
Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng
một số trường sư phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; khắc phục tình
trạng phân tán trong hệ thống các cơ sở đào tạo nhà giáo. Có cơ chế tuyển
sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những người có phẩm chất, năng
lực phù hợp vào ngành sư phạm. Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung,
phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn
luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và

năng lực nghề nghiệp.
Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc
tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác.
Có chế độ ưu đãi và quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình
độ cao; có cơ chế miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra
khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong
hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo
tính chất công việc, theo vùng.
Triển khai các giải pháp, mô hình liên thông, liên kết giữa các cơ sở đào
tạo, nhất là các trường đại học với các tổ chức khoa học và công nghệ, đặc biệt
là các viện nghiên cứu.
2.2. Ý nghĩa trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở nhà trường
quân đội hiện nay
Một là, xuất phát từ quy luật khách quan trong lịch sử dân tộc ta - dựng nước
đi đôi với giữ nước, vì vậy đòi hỏi việc huấn luyện giáo dục quân sự phải được
quan tâm tổ chức thực hiện kể cả trong điều kiện thời bình cũng như thời chiến.
Hai là, về mục tiêu, nội dung giáo dục quân sự phải mang tính toàn diện;
phải huấn luyện - giáo dục quân sĩ, những người chỉ huy chiến đấu và tham gia
chiến đấu có đầy đủ đức, tài bảo đảm chiến đấu thắng lợi; huấn luyện - giáo dục
về cả mặt chính trị, tinh thần, cả về mặt võ kinh và võ nghệ (lý luận quân sự và kỹ
thuật, chiến thuật).
Ba là, về phương pháp, hình thức tổ chức huấn luyện - giáo dục đòi hỏi
phải có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm lịch sử, địa lý và
con người Việt Nam. Phần lớn các cuộc chiến tranh, kẻ thù của dân tộc ta là
những thế lực xâm lược to lớn, có quân đông gấp nhiều lần quân ta, vì thế dân tộc
ta luôn phải "lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh". Đó là một
đặc điểm chi phối đến quá trình huấn luyện - giáo dục quân sự.
18



Bốn là, tổ chức quân sự dưới những triều đại phong kiến tiến bộ nhìn
chung là lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân; ông cha ta đánh giặc bằng nghệ
thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, cả nước đánh giặc. Vì vậy, trong thời bình
cũng như thời chiến phải luôn chú trọng huấn luyện - giáo dục cả ba thứ quân,
xây dựng ý thức quốc phòng cho mọi người dân trong cả nước.
Năm là, lịch sử giáo dục quân sự Việt Nam thời phong kiến phản ánh đậm
nét truyền thống yêu nưóc, đoàn kết chống ngoại xâm cùa dân tộc ta. Cùng với
việc thường xuyên giáo dục về lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết cho lực lượng
vũ trang và toàn dân, cần phải xây dựng niềm tin thắng lợi, ý chí quyết chiến,
quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược.

19


KẾT LUẬN
Giáo dục Việt Nam thời Phong kiến để lại cho chúng ta nhiều bài học quý
trong việc tổ chức nền giáo dục hiện nay. Bài học về tổ chức giáo dục (giáo dục
nhà trường, giáo dục trong gia đình, ở trường công, trường tư,…). Bài học về tổ
chức thi cử, về bổ nhiệm người tài,.. Chế độ khoa cử là một trong những đặc
trưng cơ bản của hệ thống giáo dục phong kiến. Thông qua chế độ khoa cử để
chọn người hiền tài đảm nhiệm các chức vụ quan lại thực hiện chức năng quản
lý bộ máy nhà nước phong kiến. Còn đối với nhân dân, thi cử là con đường tiến
thân lập nghiệp, vì vậy được nhân dân hết sức coi trọng.
Dù có những hạn chế nhất định nhưng nền giáo dục thời Phong kiến đặc
biệt là những lúc đỉnh cao, đã có những đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước
nhà; thực sự là đòn bẩy thúc đẩy tinh thần học tập, truyền thống hiếu học và bồi
đắp nguyên khí cho quốc gia trong những giai đoạn phát triển của lịch sử giáo
dục dân tộc. Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, để lại cho chúng ta

nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong tổ chức giáo dục, có ý nghĩa to lớn
trong đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở nhà trường nói chung và ở các nhà
trường quân đội nói riêng hiện nay.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử giáo dục quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội, 2014.
2. Giáo trình Lịch sử giáo dục thế giới và Việt Nam, Nxb QĐND, Hà
Nội, 2010.
3. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

21



×