Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn BIỆN PHÁP rèn kĩ NĂNG làm văn MIÊU tả CHO học SINH lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.82 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
------------------------

Mã SKKN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 4

Giáo viên: Vũ Thị Thảo Giang
Môn : Tập làm văn
Cấp học : Tiểu học

NĂM HỌC 2018 - 2019


MỤC LỤC

1


PHẦN 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, ở Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt
quan trọng. Đây là môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp, góp phần rèn luyện thao tác tư duy, tạo
điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các môn học khác.
Đặc biệt, môn Tiếng Việt lại có nhiều phân môn khác nhau. Mỗi phân
môn chứa những nội dung, kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau; song
phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng nhất và khó
nhất đối với học sinh Tiểu học. Nó trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng sản


sinh ngôn ngữ nói và viết, góp phần cùng với các môn học khác mở rộng vốn từ,
rèn luyện khả năng tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ nhằm hình
thành nhân cách con người. Ở lớp Bốn, văn miêu tả là dạng bài dựa vào những
căn cứ quan sát được, cảm nhận về đối tượng (cây cối, con vật, đồ vật) đã để lại
ấn tượng. Từ những hình ảnh trực quan sinh động đó chuyển sang tư duy trừu
tượng và sản sinh ngôn ngữ. Đối với học sinh lớp Bốn, việc nói đúng, viết đúng,
diễn đạt mạch lạc đã khó; vậy mà để làm văn hay có cảm xúc, giàu hình ảnh lại
càng khó hơn nhiều. Để dạy tốt phân môn này, đòi hỏi người giáo viên phải luôn
tìm tòi phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tổ chức hướng dẫn các hoạt động
linh hoạt nhằm kích thích các em hứng thú học tập, lĩnh hội được kiến thức có
hiệu quả.
Xuất phát từ thực tế như vậy, là giáo viên đứng lớp, tôi luôn không ngừng
nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học sao
cho giảng dạy đạt hiệu quả. Vậy làm thế nào để dạy tốt phân môn Tập làm văn
nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt? Vì vậy tôi đã chọn nghiên
cứu đề tài : “Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu nguyên nhân khiến học sinh nhầm lẫn giữa miêu tả và kể lại.
- Tìm hiểu nguyên nhân khiến học sinh chưa biết cách diễn đạt suy nghĩ
của mình, những điều mà mình quan sát được thành câu văn hay, đoạn văn hay.
2


- Tìm ra phương pháp để giúp học sinh biết cách quan sát, miêu tả sao cho
với bất kì sự vật nào thì học sinh cũng có thể miêu tả được.
- Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn ở lớp 4 để
học sinh phát triển được tư duy, nâng cao khả năng mở rộng, suy nghĩ để viết
được những câu văn hay.


1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Tìm hiểu, ghi chép lại những lỗi sai mà học sinh hay mắc phải khi viết bài
văn miêu tả.
- Xây dựng các tiết học Tiếng Việt ( trong đó có các phân môn Tập đọc,
Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện ) để nâng cào vốn từ, cách
đặt câu hay cho học sinh.
- Cung cấp những tư liệu thực tế cho học sinh để các em có nhiều cơ hội
quan sát để miêu tả.
- Thường xuyên luyện tập, kiểm tra, đánh giá kĩ năng của học sinh qua từng
giờ học, từng tháng, từng kì.
- Học hỏi các bạn đồng nghiệp hoặc trên sách, báo, internet để tìm ra những
phương pháp phù hợp với trình độ học sinh.

1.4. Phạm vi nghiên cứu
- Học sinh lớp 4A6 trường tiểu học Khương Đình
- Số lượng học sinh : 62 em
- Thời gian : năm học 2018 – 2019

1.5. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề về thực trạng dạy học phân môn tập làm văn,
thể loại văn miêu tả ở lớp 4.
- Nghiên cứu về nội dung chương trình phân môn tập làm văn lớp 4.
- Nghiên cứu đối tượng học sinh lớp 4 về: Đặc điểm tâm lí lứa tuổi, đặc điểm về
nhận thức và vốn từ, cách các em quan sát, suy nghĩ và thể hiện suy nghĩ của
mình qua các từ ngữ.
- Dự giờ thăm lớp khối 4 để tìm hiểu về thực trạng của việc dạy học phân
môn tập làm văn lớp 4.
3



PHẦN 2 : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Như chúng ta đã biết dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học gồm nhiều phân
môn, nhưng Phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn khó, mang
tính tổng hợp và sáng tạo cao. Nó có vai trò và vị trí quan trọng trong việc hoàn
thiện và nâng cao dần kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, mà học sinh đã được hình
thành và xây dựng ở các phân môn khác. Học tốt được phân môn Tập làm văn là
giúp cho các em học tốt các môn học khác. Vậy dạy phân môn Tập làm văn là
dạy các kiến thức và kĩ năng giúp cho học sinh tạo lập và sản sinh ngôn bản,
đồng thời giáo dục cho các em tình cảm trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp
góp phần giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt.
Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp cho các em học sinh
có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới, thú vị về thế giới xung quanh,
biết cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động
trước đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó các em có cơ sở để tái hiện lại bằng
ngôn ngữ giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả. Nếu bài tập làm văn thiếu sáng tạo,
thiếu cảm xúc, không dùng từ ngữ giàu hình ảnh thì trở nên bài văn khô khan,
nghèo ý. Vậy để làm được bài văn miêu tả hay, không những phải thể hiện rõ
nét, chính xác, sinh động của đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng
tượng, tình cảm của mình đối với đối tượng miêu tả. Do đó đòi hỏi học sinh phải
có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung
của từng bài, có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, có trí óc tưởng
tượng thật phong phú, biết cách dùng từ viết câu phù hợp, viết bố cục rõ ràng,
diễn đạt mạch lạc...Là một giáo viên giảng dạy lớp Bốn, bản thân tôi luôn trăn
trở, tìm mọi biện pháp để tạo điều kiện giúp đỡ các em học tốt phân môn này.
Với những mục đích nêu trên, để giúp học sinh có kĩ năng viết văn miêu tả
đạt hiệu quả là việc làm vô cùng cần thiết.
2.2. THỰC TRẠNG
Qua quá trình tìm hiểu việc học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp
4A6 nói riêng và học sinh lớp Bốn ở trường Tiểu học Khương Đình nói chung,

4


tôi nhận thấy trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, số lượng học sinh làm
văn hay ít. Phân môn Tập làm văn lớp 4 vô cùng khó, mang tính trừu tượng cao
nên phần lớn học sinh không thích học phân môn này.
Học sinh làm bài hời hợt, chung chung; chưa miêu tả để phân biệt đối
tượng được miêu tả này với đối tượng khác. Những bài văn dạng này giống văn
kể hơn là văn miêu tả.
Vốn từ của các em còn nghèo nàn nên dẫn đến diễn đạt lủng củng, dùng từ
trùng lặp, sai nghĩa, sai lỗi chính tả trong bài Tập làm văn.
Nhiều em chưa phân biệt từ ngữ sử dụng trong văn nói và văn viết.
Đa số các em chưa tích cực đọc sách tham khảo để trau dồi cách diễn đạt và
cách hành văn lưu loát hoặc nếu có đọc, các em thường vay mượn ý của sách, lệ
thuộc vào bài mẫu, có thể chép vào làm bài của mình chứ các em chưa biết vận
dụng, liên tưởng một cách sáng tạo và linh hoạt.
Sở dĩ thực trạng học sinh nêu trên tôi thiết nghĩ là do những nguyên nhân
sau:
* Học sinh:
- Học sinh chưa thực sự thấy yêu thích môn học.
- Học sinh chưa biết quan sát đối tượng được miêu tả hoặc quan sát một
cách qua loa và khi quan sát học sinh không ghi chép lại từng chi tiết cụ thể nên
khi làm bài văn chưa đạt hiệu quả .
- Vốn từ của các em còn nghèo nàn, lại không biết sắp xếp như thế nào cho bài
văn mạch lạc, đảm bảo bố cục và chưa biết cách chọn từ ngữ, hình ảnh miêu tả.
- Học sinh chưa biết cách lập một dàn bài cụ thể để tả.
- Học sinh chưa biết cách sử dụng biện pháp nghệ thuật vào bài và bộc lộ
cảm xúc.
- Cha mẹ học sinh đa phần đều bận rộn công việc và không có chuyên môn
nên việc hướng dẫn các con cùng cô giáo rất khó.

* Giáo viên:
- Giáo viên chưa phân loại từng đối tượng học sinh để đề ra kế hoạch dạy
học phù hợp.
5


- Giáo viên chưa khơi gợi sự ham thích học phân môn Tập làm văn, chưa
phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh, chưa bồi
dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt.
Đặc biệt sau mỗi bài văn, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh nhận thấy
được hình ảnh hay, câu văn hay cần học và những chỗ sai cần khắc phục.
2.3. BIỆN PHÁP
Từ những thực trạng nêu trên, trong thời gian giảng dạy trên lớp, bản thân
tôi có những biện pháp như sau:
2.3.1.Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh
Quá trình dạy ở lớp khoảng vài tuần đầu, tôi căn cứ vào đó để phân loại
từng đối tượng học sinh: học sinh có năng khiếu viết văn, học sinh biết cách
diễn đạt câu nhưng chưa hay, học sinh chưa biết cách viết .
Cụ thể:
Lớp 4A6: 61 em

Học sinh có năng khiếu : 5 em - chiếm 8,2 %

Học sinh viết đúng nhưng chưa hay : 25 em chiếm 41%
Học sinh chưa biết cách viết

: 31 em chiếm 50,8 %

Từ đó, tôi nắm chắc từng đối tượng học sinh để đề ra được kế hoạch dạy
học phù hợp, phát triển được năng lực viết văn miêu tả, đồng thời giúp những

em yếu biết vận dụng làm một bài văn miêu tả hoàn chỉnh.
Chẳng hạn: Học sinh năng khiếu viết được bài văn miêu tả đúng bố cục, có
sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, tôi hướng dẫn thêm để học sinh biết sử dụng
nhiều từ ngữ miêu tả giàu hình ảnh và sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào
bài để bài viết hay hơn.
Cụ thể: Đoạn tả chú gà trống: “Con gà trống ra dáng một con gà trống
oai vệ. Chú khoác bộ lông tía sặc sỡ nhiều màu sắc. Trên đầu đội chiếc mào đỏ
chót. Đôi mắt sáng, con ngươi đưa đi đưa lại. Cái đuôi cao vổng lên. Những
ngón chân có móng vuốt sắc nhọn...(bài viết của em Phạm Tuệ Linh ).
Tôi khen bài viết của em đã hay, đã biết dùng từ giàu hình ảnh, em cần sử
dụng thêm phép nghệ thuật vào bài. Tôi hướng dẫn viết lại đoạn viết như sau:
Chú gà trống ra dáng một chú gà oai vệ. Chú khoác trên mình một bộ trang
6


phục màu tía sặc sỡ. Cái mào đỏ chót uốn cong, có nhiều ria nhọn như bông
hoa mào gà. Đôi mắt sáng trong như hai viên ngọc. Cái đuôi cao vổng lên với
những chiếc lông đủ màu như một cái cầu vồng trông thật đẹp mắt. Đôi chân có
móng vuốt sắt nhọn là thứ vũ khí lợi hại của chú.
Còn học sinh chưa biết cách viết, tôi hướng dẫn bước đầu học sinh viết
đúng và đủ bố cục bài văn miêu tả, dùng từ ngữ phù hợp, viết đúng chính tả.
Cụ thể: Nhà em có nuôi một con mèo lông nó màu trắng. Hai con mắt tròn,
nó có bốn chân và cái đuôi. Nó có răng sắc nhọn. Em thích con mèo này. (bài
viết của em Phạm Quang Minh ).
Tôi đã hướng dẫn để giúp học sinh viết lại đảm bảo bố cục. Trước tiên, tôi
cho học sinh nhắc lại cấu tạo bài văn miêu tả con vật gồm mấy phần? (ba phần)
và hệ thống cho học sinh từng phần viết như thế nào?(trình bày thành các đoạn)
Chẳng hạn: Mở bài: Giới thiệu con vật ở đâu? Ai nuôi?(Nhà em nuôi được
một chú mèo trông rất đáng yêu).
Thân bài: Tả ngoại hình: Bộ lông thế nào?(Bộ lông màu xám tro, rất mượt),

Hai mắt ra sao?(Hai mắt sáng và tinh) Tai như thế nào? (Tai vểnh lên để nghe
ngóng. Mỗi khi có tiếng động nhẹ là chú phát hiện ngay) Bốn chân như thế nào?
(Bốn chân thon thon và rất nhanh nhẹn, đi lại nhẹ nhàng)......
Tả hoạt động: Bắt chuột thế nào?(Sau mỗi bữa ăn là chú ngồi ngay bao
thóc để rình, hễ chú chuột nào đến là mèo nhảy ra vồ ngay)
Kết bài: Cảm nghĩ của em về con vật? ( Em rất thích chú mèo này. Nhờ có
chú mà nhà em đã hết chuột phá hoại)
2.3.2. Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả
Để các em có thể vẽ lại được cụ thể, sinh động mọi vật trong đời sống
hằng ngày, các em cần phải quan sát cụ thể vật đó: Quan sát phải kết hợp sử
dụng nhiều giác quan (mắt – nhìn, tai – nghe, mũi – ngửi, tay - sờ…) để thu
nhận được càng nhiều chi tiết thì bài miêu tả càng giống với đối tượng miêu tả;
quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ tổng quát đến cụ thể
rồi ghi chép lại vào sổ tay văn học.

7


* Nếu tả đồ vật: cần quan sát bao quát đồ vật, rồi quan sát tỉ mỉ từng phần
của đồ vật theo trình tự hợp lí từ ngoài vào trong.
Ví dụ: Tả chiếc cặp: quan sát bao quát cặp có hình thù như thế nào ? Màu
sắc gì ? quan sát từng phần đồ vật từ ngoài vào trong, đặc biệt quan sát các bộ
phận có đặc điểm nổi bật: phía trước cặp được trang trí hình gì? Sau cặp có bộ
phận gì ?(quai cặp, dây đeo) Rồi đến quan sát bên trong (cặp có mấy ngăn?),
dùng mũi ngửi thấy mùi gì? Và dùng tay sờ vào từng ngăn cặp có cảm giác như
thế nào?
* Nếu tả cây cối: cần quan sát kĩ từng bộ phận của cây hay từng thời kì
phát triển của cây và ích lợi.
Ví dụ: Tả cây xoài: Quan sát kĩ các bộ phận (thân, gốc, cành, lá, hoa,
quả…) hay từng thời kì phát triển của cây (cây non, cây lớn lên và cây trưởng

thành cho quả…) và ích lợi (cho quả, tăng thu nhập cho gia đình….)Ngoài ra
cần sử dụng thêm các giác quan khác như mũi ngửi thấy mùi của xoài như thế
nào?, tay sờ thấy vỏ cây, da của quả như thế nào? Và lưỡi nếm vị của quả ra
sao?...
* Nếu tả con vật: cần quan sát kĩ đặc điểm ngoại hình (bộ lông, mắt, mũi,
chân, đuôi…), thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của nó.
Ví dụ: Tả con gà trống: quan sát con gà to cỡ nào ? lông màu gì ? Mào ra
sao ? chân to hay nhỏ, đuôi thế nào ? Thói quen của gà (gáy vào sáng sớm) Hoạt
động chính (tìm mồi, chọi nhau với gà khác). Tôi còn hướng dẫn kĩ cho học sinh
sử dụng những giác quan khác nữa để quan sát con vật như tay thì sờ vào bộ
lông cảm thấy thế nào? Tai để nghe tiếng gáy ra sao?...
Đối với việc quan sát, học sinh được học cụ thể một tiết “Luyện tập quan
sát” Giáo viên tổ chức tiết học này thật kĩ và kèm theo hệ thống câu hỏi định
hướng để học sinh biết cách quan sát phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt
đối tượng miêu tả này với đối tượng khác và quan sát thật hiệu quả. Giáo viên tổ
chức cho học sinh quan sát theo nhiều hình thức: tranh ảnh, vật thật như quan sát
đồ chơi (vật thật) quan sát con vật (tranh ảnh hoặc quan sát con vật trước ở
nhà).
8


2.3.3. Mở rộng vốn từ ngữ và lựa chọn từ ngữ miêu tả
Để giúp học sinh viết văn miêu tả tốt, đòi hỏi phải trang bị cho các em có
vốn từ phong phú, hiểu nghĩa của từ, nhận biết từ phổ thông, từ địa phương, từ
cùng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ nhiều màu sắc biểu cảm…Để đáp ứng được nhu
cầu như vậy, tôi đã giúp cho học sinh tích lũy vốn từ và biết lựa chọn từ miêu
tả phù hợp. Khi dạy các bài Tập đọc, giúp cho học sinh hiểu nghĩa một số từ có
trong bài, học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật của bài đó và cảm nhận
được cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh của mỗi tác giả.
Ví dụ: Bài “Đôi giày ba ta màu xanh” (sách Tiếng Việt trang 81) Tôi chỉ

cho học sinh thấy, tác giả sử dụng câu văn miêu tả đôi giày: “Cổ giày ôm sát
chân. Thân giày làm bằng vài cứng, dáng thon thả, màu vải như màu da trời
những ngày thu”. Tác giả đã dùng từ ngữ giàu hình ảnh và sử dụng phép nghệ
thuật so sánh để tô thêm vẻ đẹp cho đôi giày.
Ví dụ: Bài Con chuồn chuồn nước (sách Tiếng Việt trang 127) Tác giả đã
sử dụng câu văn miêu tả con chuồn chuồn: ”Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng.
Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng
như màu vàng của nắng mùa thu. Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân
vân”. Tác giả đã sử dung hình ảnh so sánh để miêu tả chú chuồn chuồn một cách
sinh động, hấp dẫn.
Không những phân môn Tập đọc mà còn các phân môn khác như Luyện từ
và câu cũng giúp cho học sinh mở rộng vốn từ cho mình như các bài: Mở rộng
vốn từ theo chủ điểm, các em cũng lĩnh hội thêm được một ít từ ngữ và phân
môn Mĩ thuật cũng giúp cho học sinh rèn kĩ năng quan sát và trí tưởng tượng
phong phú…và một số phân môn khác nữa (Kể chuyện, Khoa học…)
Bên một cạnh đó, học sinh đọc các bài tham khảo cần phải biết học tập
cách miêu tả và chọn lọc số từ ngữ miêu tả. Từ đó học sinh bổ sung được vốn từ
ngữ cho mình.
Đặc biệt là học sinh tích lũy vốn từ qua thực tế cuộc sống hằng ngày ví dụ
như nghe và ghi nhớ tiếng kêu của con mèo(meo…meo), Tiếng gáy của con
gà(ò..ó..o), tiếng sủa của con chó(gâu..gâu) …
9


Ngoài ra, tôi còn giới thiệu thêm một số từ, ngữ cần thiết để làm giàu thêm
vốn từ cho học sinh.
Chẳng hạn:
Tả cây cối
Thân cây to xù xì, rễ cây ăn sâu xuống lòng đất, cành đâm ra tua tủa, hoa
kết lại từng chùm, quả treo lúc lỉu, hương thơm ngào ngạt....

Tả con vật
Chú khoác lên mình bộ áo đẹp; đầu tròn, mắt sáng và tinh, tai vểnh lên để
nghe ngóng, chân nhanh nhẹn, đi lại rất nhẹ nhàng, móng vuốt sắc nhọn là vũ
khí tự vệ và rất lợi hại, khi kiếm được mồi, chú mang về cho con cùng ăn ...
Từ vốn từ mà học sinh đã tích lũy được, tôi hướng dẫn cho học sinh lựa
chọn từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả, sử dụng cho phù hợp. Khi trình bày kết quả
quan sát được hoặc khi học sinh luyện viết đoạn, tôi đã uốn nắn, chỉ chỗ sai cho
học sinh ngay khi phát hiện học sinh dùng chưa đúng
Ví dụ: Thân bút màu xanh lá cây, thon thả như búp cây. (sử dụng từ
không phù hợp)
Sửa lại: Thân bút màu xanh lá cây, thon nhỏ như ngón tay em.
Ví dụ: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ mềm
mềm. (sử dụng từ không phù hợp)
Sửa lại: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ đều
đều, mềm mại.
2.3.4. Tìm ý và lập dàn bài
Trước tiên, tôi đã định hướng cho học đọc kĩ đề, xác định thể loại, kiểu bài,
xác định nội dung tả gì? Và thể hiện tư tưởng tình cảm gì vào bài? Đối với bài
văn miêu tả, quan sát đối tượng được miêu tả là cơ sở để học sinh tìm ý. Sau khi
học sinh đã quan sát và có những ghi chép chi tiết về đối tượng miêu tả, tôi
hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn của mình dựa vào hình ảnh đã quan sát và
lựa chọn hình ảnh để lập dàn ý cho bài văn. Một bài văn hoàn chỉnh là bài văn
phải có cách sắp xếp chặt chẽ. Mặc dù mở bài, thân bài, kết bài là ba phần riêng
song chúng phải có sự thống nhất về ý.
10


* Mở bài: Giới thiệu đối tượng định miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con
vật). Phần mở bài giống như một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với
người khách đến thăm “vườn văn” của mình. Lời mời chào ấy phải hấp dẫn, gợi

mở, gây được những ấn tượng ban đầu và nêu được ý muốn diễn đạt ở phần thân
bài( giới thiệu được đối tượng cần nói đến ở thân bài).
Ta có thể dùng cách mở bài trực tiếp (giới thiệu ngay đối tượng) hoặc mở
bài gián tiếp(nói chuyện khác  liên tưởng giới thiệu đối tượng).
Ví dụ: Tả cái bàn học
Chiếc bàn học này là người bạn ở trường thân thiết với tôi gần hai năm nay.
(Mở bài trực tiếp-Bài làm của em Nguyễn Thanh Tùng )
Tôi rất yêu gia đình tôi, ngôi nhà của tôi. Ở đó, tôi có bố mẹ và chị gái thân
thương, có những đồ vật, đồ chơi thân quen và một góc học tập sáng sủa. Nổi
bật trong góc học tập đó là cái bàn học xinh xắn của tôi.( Mở bài gián tiếp- Bài
làm của em Phạm Thái Phương Linh )
* Thân bài: +Tả đồ vật: Tả bao quát đồ vật rồi đến tả những bộ phận có đặc
điểm nổi bật và nêu công dụng.
+Tả cây cối: Tả từng bộ phận của cây hoặc từng thời kì phát triển
của cây và ích lợi của cây.
+Tả con vật: Tả ngoại hình rồi đến thói quen sinh hoạt của con vật
và hoạt động chính của con vật.
Phần thân bài chính là phần trọng tâm của một bài văn. Một bài văn có
phần mở đầu và kết thúc hấp dẫn nhưng phần thân bài sáo rỗng, hời hợt, không
giải quyết được đầy đủ các yêu cầu được đặt ra ở phần đề bài thì chưa phải là
một bài văn hay. Để khắc phục khuyết điểm này, khi lập dàn ý của bài văn,
chúng ta cần tách phần thân bài thành các ý lớn cho đầy đủ, rồi từ các ý đó, viết
thành các đoạn văn hoàn chỉnh
* Kết bài: Nêu cảm nghĩ, ấn tượng, tình cảm của mình với đối tượng miêu
tả.
Nếu như phần mở bài giống như một lời mời chào thân ái thì phần kết bài
giống như một cuộc tiễn đưa người khách vừa đến thăm “vườn văn” của mình.
11



Để tạo cho khách sự quyến luyến không muốn rời xa, cuộc tiễn đưa ấy phải thật
tình cảm và chân thành. Muốn vậy, khi viết phần kết bài, giáo viên hướng dẫn
học sinh viết thật cô đọng, ngắn gọn và súc tích, tránh kết thúc một cách đơn
điệu, tẻ nhạt và cộc lốc. Kết bài chính là kết lại, khép lại nội dung vừa trình bày
ở phần thân bài. Vì vậy cần khép bài một cách khéo léo để nó đọng lại và mở ra
trong lòng người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà chúng
ta đã miêu tả, đã kể trong bài văn của mình.
Ta có thể dùng 2 cách kết bài: Kết bài không mở rộng (Cho biết kết thúc,
không có lời bình luận thêm) và kết bài mở rộng (nói lên tình cảm, cảm xúc của
mình, liên tưởng và có thêm lời bình luận ).
Ví dụ:Tả cái trống trường
Nhờ có anh trống mà giúp cho chúng em thực hiện ra vào lớp đúng giờ.
Khi hết giờ, chúng em tạm biệt anh trống để ra về. (Kết bài không mở rộng-Bài
làm của em Nguyễn Đình Hiếu )
Tiếng trống là nhịp đập thời gian của trường em. Tiếng trống là hiệu lệnh
hoạt động cho tất cả thầy trò trong trường. Theo nhịp trống, chúng em xếp hàng.
Theo nhịp trống, chúng em vào lớp,...Mai đây, em sẽ lớn lên, có thể đi đến bất
cứ nơi nào, song tiếng trống trường sẽ mãi mãi đọng lại trong tâm trí em cùng
với những kí ức đẹp đẽ của tuổi học trò. (Kết bài mở rộng-Bài làm của em
Nguyễn Khánh Vy)
Ví dụ: Tả đồ chơi em thích
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề và hướng dẫn một số câu hỏi: đề bài
yêu cầu gì? Em chọn đồ chơi nào để tả? đồ chơi ấy có đặc điểm gì? Từ đó học
sinh bám vào yêu cầu đề, huy động vốn từ và dựa vào kết quả quan sát được, lựa
chọn những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng và đầy đủ.
Dàn ý: * Mở bài: Gấu bông là con vật em yêu thích.
* Thân bài: Hình dáng không to lắm, gấu luôn ngồi, dáng người tròn,
hai tay trước bụng.
Bộ lông: màu trắng pha hồng rất xinh xắn
Hai mắt: đen láy, trông như mắt thật rất nghịch và thông minh

12


Mũi: màu đen nhỏ, trông như chiếc cúc áo
Trên cổ: thắt một cái nơ đỏ trông thật đáng yêu
Hai tai: cụp xuống trông rất ngộ nghĩnh.
* Kết bài: em rất yêu thích gấu bông và em giữ gìn nó cẩn thận .
2.3.5. Hướng dẫn sử dụng nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc
Để giúp cho học sinh làm được bài văn hay hơn, sinh động hơn, lôi cuốn
người đọc, tôi đã hướng dẫn học sinh sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa vào
bài; đồng thời bộc lộ cảm xúc của mình để thấy đồ vật, con vật, cây cối thân
thiết và gần gũi với mình hơn.
Để học sinh vận dụng được, tôi giúp các em tìm hiểu kĩ tiết Luyện tập miêu
tả các bộ phận, tổ chức cho học sinh trình bày, luyện cho học sinh nói, viết
những câu có hình ảnh và sử dụng phép nghệ thuật đồng thời bộc lộ cảm xúc
của mình.
Ví dụ: Miêu tả về thói quen của con chó-(Bài làm của em Nguyễn Hoàng
Quân)
“Bữa nào chú cũng được ăn cơm. Chú thật hốc ăn. Chú chỉ xốc hai miếng
là hết bát cơm to, lại ngẩn ngơ liếm mép. Bữa bữa, chú nhìn chăm chú mọi
người ăn cơm, cái đầu cứ lắc lắc theo từng đôi đũa khi mọi người gắp thức ăn.
Trông chú như đang đói và thèm ăn lắm”.
Ví dụ : Tả ngoại hình con mèo –(Bài làm của em Phạm Việt Anh )
“Lông mèo mượt như tơ. Đầu nó tròn bên trên có hai cái tai dựng đứng, hết
quay phía này lại quay phía khác để nghe ngóng. Hai con mắt nó mới sáng làm
sao, ở ngoài sáng mắt xanh biếc, trong đêm tối mắt nó lấp lánh như ánh lửa”.
2.3.6. Nhận xét, đánh giá và chữa bài
Mỗi dạng bài đều có một tiết trả bài văn viết, tiết này rất quan trọng nhằm
giúp các em thấy được ưu điểm và nhược điểm trong bài viết của mình, của bạn
để học hỏi, trao đổi lẫn nhau, tìm ra cách sửa sai để cùng tiến bộ và qua đó tôi

biết được học sinh hiểu bài và vận dụng thế nào.
* Đánh giá, nhận xét: Tôi tiến hành chấm bài thật kĩ, xác định học sinh làm
đúng bố cục hay chưa? và bố cục có chặt chẽ không? Tôi phát hiện những ưu
13


điểm của bài văn hay, câu hay, ý hay, dùng từ sáng tạo…và nắm được những lỗi
mắc phải còn tồn tại: dùng từ chưa chính xác, câu văn chưa hoàn chỉnh, lặp từ,
lặp ý…Tôi đánh giá, nhận xét cụ thể vào từng bài của học sinh
Chẳng hạn có những nhận xét như sau :
- Bố cục chặt chẽ, lời văn súc tích, có nhiều hình ảnh hay trong bài. Em
cần phát huy thêm.(học sinh năng khiếu)
- Đảm bảo bố cục, viết thành câu. Em cần sử dụng phép so sánh, nhân hóa
vào bài để bài văn hay hơn.(học sinh trung bình)
- Bài viết còn lủng củng, còn sai lỗi chính tả, viết chưa thành câu. Em cần
chú ý cô hướng dẫn để về nhà viết lại đúng em nhé.(học sinh yếu)
- Bố cục chưa rõ ràng, dùng từ ngữ chưa phù hợp, diễn đạt còn lủng củng.
Em cần chú ý cô hướng dẫn để về nhà viết lại cho đúng. (học sinh yếu)
Trong quá trình đánh giá, tôi chọn bài tiêu biểu của lớp và các bài văn hay
năm trước đọc cho học sinh nghe và phân tích những điểm hay để học sinh học
tập.
* Chữa bài: tôi hướng dẫn cho học sinh chữa lỗi
+ Chữa lỗi về dùng từ và sai chính tả: Đưa câu văn của học sinh dùng từ
thiếu chính xác rồi giáo viên gợi mở để học sinh sửa lại câu đúng.
Ví dụ: từ ngữ sai: Tả con vật
Mắt nó dựng ngược

mắt chú xếch ngược trông rất hung dữ

Chân nó nhanh thăn thắt


chân nhanh thoăn thoắt

Hai mắt tròn xeo

hai mắt tròn xoe

Tai mèo rât tinh

tai mèo rất thính

+ Chữa lỗi về câu:
- Học sinh viết chưa thành câu: Có lá xum xuê, rễ mọc dưới đất  Lá cây
bàng xum xuê. Rễ ăn sâu vào lòng đất.
- Sử dụng dấu câu sai: Đến mùa hè. Cây ra hoa đỏ rực. Đến mùa hè, cây
phượng nở hoa đỏ rực. Giáo viên gợi mở để học sinh biết sử dụng dấu câu hợp lí.
+ Chữa lỗi về diễn đạt
Ví dụ: Tả đồ vật
14


- Trước cái cặp có hình siêu nhân và sau có dây đeo rất sung sướng.
Mặt cặp được trang trí hình siêu nhân trông rất đáng yêu. Sau lưng cặp
có dây đeo rất tiện lợi.
- Cái bút thon nhọn và dài bằng gang tay của em.
Cây bút dài bằng gang tay của em. Ngòi bút nhọn, viết ra những nét chữ
thật đều và đẹp.
+Chữa lỗi lạc đề:
Ví dụ:Tả con mèo
Chú mèo này thật giỏi. Hễ nó nghe tiếng động của lũ chuột là nó nhảy vồ

đến và chụp ngay chú chuột. Chú chuột này chịu thua và kêu chít chít như mắng
chửi mèo vậy.
Sửa lại: Chú mèo này bắt chuột thật giỏi. Hễ nó nghe tiếng động của lũ
chuột là nó đi nhẹ nhàng đến rình, rồi nhảy vồ đến chụp ngay chú chuột.Thế là
con chuột xấu số đã nằm gọn trong móng vuốt của nó.
2.4. HIỆU QUẢ ĐỀ TÀI:
Năm học 2018-2019, tôi đã vận dụng những biện pháp nêu trên cùng với sự
nổ lực cố gắng của các em học sinh, tôi tiến hành khảo sát một bài văn miêu tả
đồ vật cuối kì I và miêu tả con vật cuối kì II đã cho kết quả như sau:
Điểm thi môn Tiếng Việt cuối kì I :
Số bài
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
61
23 (37,8%)
29 (47,5%)
9(14,7%)
0 (0%)
Nhìn chung, các em trong lớp đã viết được bài văn miêu tả đồ vật, đảm bảo
bố cục, lời văn mạch lạc, đặc biệt đã có nhiều em viết bài giàu hình ảnh, sử dụng
câu văn sáng tạo, và nhiều câu đã sử dụng phép nghệ thuật làm cho bài văn sinh
động hơn, hay hơn.
Điểm thi môn Tiếng Việt cuối kì II :
Số bài
62

Điểm 9-10
35 (56,4%)


Điểm 7-8
23 (37%)

15

Điểm 5-6
4 (6,6%)

Điểm dưới 5
0 (0%)


Không những thế khi học đến những bài văn miêu tả con vật và cây cối thì
kết quả được nâng cao dần. Số lượng các em đạt khá, giỏi tăng rõ rệt. Học sinh
hứng thú học tập hơn. Trong giờ học các em tập trung hơn, say sưa cùng bạn bè
quan sát đối tượng cần miêu tả. Tôi rất vui khi thấy có khá nhiều học sinh đã có
cuốn sổ tay riêng để ghi những điều quan sát được và những câu văn hay, từ ngữ
gợi tả, gợi cảm,…Có thể nói rằng học sinh đã không còn ngại khi học văn miêu
tả. Học sinh dùng từ chính xác, sử dụng từ hay biết viết thành câu, kĩ năng viết
văn có tiến bộ, nhiều em viết hay được chọn làm bài mẫu để đọc trước lớp. Thể
loại văn miêu tả được các em thích hơn.
Học sinh có tinh thần hợp tác, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của bạn bè
mình và mạnh dạn nhận xét về bài làm của bạn.

16


PHẦN 3 : KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ
3.1. Ý nghĩa của đề tài

Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân,
nhằm xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ cho trẻ và hình
thành cơ bản ban đầu nhân cách con người. Đặc biệt Tiếng Việt có vị trí quan
trọng, nó hình thành khả năng giao tiếp và phát triển tư duy cho trẻ.
Như vậy, mục đích của việc dạy phân môn Tập làm văn lớp 4 là giúp cho
học sinh viết thành bài văn hoàn chỉnh, lời văn gãy gọn, bố cục rõ ràng, súc tích,
diễn đạt có hình ảnh, sinh động và gợi cảm và yêu thích làm văn.Tuy nhiên,
cũng phải thấy một điều là một số giáo viên vẫn để cho học sinh dựa vào văn
mẫu hay chép lại những bài văn cô đọc, điều đó làm cho học sinh không thể tư
duy, phát triển trí tưởng tượng và sẽ không thể học tiếp môn học này ở các bậc
học cao hơn. Chính vì điều đó, tôi thường để học sinh tự viết ra những điều các
em cảm nhận được qua sự hướng dẫn của cô giáo, đó là những cảm nhận rất
trong sáng, hồn nhiên và thật nhất. Phân môn Tập làm văn tuy khó, mất nhiều
thời gian để dạy các em nhưng thành quả gặt hái được thì lại là điều giáo viên
chúng tôi đều cảm thấy hạnh phúc.

3.2. Bài học kinh nghiệm
Quá trình rèn luyện cho học sinh viết văn tốt đòi hỏi giáo viên phải sử
dụng phương pháp linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp và luôn tuân theo nguyên
tắc từ đơn giản đến nâng cao, quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh. Bên cạnh
đó giáo viên luôn động viên khuyến khích, biểu dương sự tiến bộ của học sinh
dù rất nhỏ, luôn tạo niềm vui trong học tập. Mỗi tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự
nhiên tránh áp đặt và tạo tâm thế học tập cho các em. Với những biện pháp đề ra
cùng với lòng yêu nghề mến trẻ, quyết tâm khắc phục những khó khăn trong
giảng dạy và rèn luyện cho học sinh ngày học tập tốt hơn.

3.3. Đề xuất
Phân môn tập làm văn là một phân môn đòi hỏi kiến thức thực tế rất nhiều
nhưng đa phần học sinh ngày nay ( nhất là học sinh thành phố ) lại được tiếp xúc
17



ít với những sự vật mà các em học trong văn miêu tả. Vì thế, theo tôi, cần cho
học sinh có những hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhiều hơn để các em được mở
rộng tầm hiểu biết, qua đó học tốt hơn phân môn này.
Về phía nhà trường trong các buổi sinh hoạt chuyên môn ở tổ, mỗi giáo
viên cần nêu ra những vướng mắc khó khăn trong giảng dạy môn tập làm văn để
thảo luận tìm phương án phù hợp nhất.
Trên đây là toàn bộ nội dung đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Rèn kĩ năng làm
văn miêu tả cho học sinh lớp 4 ” tôi đã nghiên cứu và áp dụng trong năm học 20182019. Đây là những cách làm mà tôi đã thực hiện và thực sự có hiệu quả.Tuy nhiên
khi viết thành đề tài sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong hội đồng khoa học các
cấp góp ý để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
`

Khương Đình, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Người viết

Vũ Thị Thảo Giang

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học ( NXB Giáo dục, Hà Nội )
2. Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học ( NXB Giáo dục, Hà Nội )
3. Giáo dục học ( NXB Giáo dục, Hà Nội )
4. Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ( NXB Giáo dục, Hà Nội )
5. Luật giáo dục ( NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội )

6. Những vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại ( NXB Giáo dục, Hà Nội )
7. Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới ( NXB Giáo dục, Hà Nội )
8. Tiếng Việt 4 tập 1 và 2 (SGK+Sách giáo viên) - Nhà xuất bản giáo dục
9. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 4 – Nhà xuất bản Hà Nội
10. Hướng dẫn viết SKKN của phòng giáo dục và đào tạo Quận Thanh Xuân

19


NHẬN XÉT CỦA BAN GIÁM HIỆU
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................

............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................
20



×