Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đàng sau những ước lệ ngôn từ của "Thiên Đô Chiếu"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.24 KB, 12 trang )

Đằng sau những ước lệ ngôn từ của Thiên Đô Chiếu
Trần Ngọc Vương
Thiên Đô Chiếu được khắc tại Tiêu Sơn tự,
tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
Đã có rất nhiều bài viết, lời bình về tác phẩm đặc biệt này. Tôi vẫn muốn
“chắp nhặt” bằng một vài suy tư tản mạn.
1. Những gì quan sát được từ bản văn
1.1. Một chút đáng tò mò
“Thiên đô chiếu”, tính cả tiêu đề, có 217 chữ (tự). Nhà Lý, từ năm 1009 cho
tới năm 1225, tính theo thế đại, trải hơn 8 đời vua - hơn 8, nhưng không phải
là 9 -, tính vòng quay nhật nguyệt (tức thời gian vũ trụ), thì cũng là 217 năm
(không tròn). Theo một trong những nguyên tắc đọc hiểu của chữ Hán là
đồng âm thông nghĩa, thì tự là chữ cũng có lúc thông nghĩa với tự là lớp lang,
là nối tiếp. Ngạc nhiên chưa?
Vài điều còn khiến lăn tăn ngay từ khoảng khắc sơ kiến này: Bản văn của
Thiên đô chiếu truyền đến nay được bắt gặp sớm nhất hẳn là từ trong Đại
Việt sử ký toàn thư. Bản thân pho Quốc sử được chính thức thành hình lần
đầu vào năm 1479, nhưng được nối tiếp, bổ sung rồi in chính thức trọn vẹn
và lưu truyền được tới nay là bản in Nội các quan bản - mộc bản khắc năm
Chính Hòa thứ 18 (1697). Kinh qua mấy triều đại, dăm bảy sử gia chuẩn
nhuận, bản văn có bị can thiệp nhiều ít gì không, hiện thời ta không biết.
Nhưng nếu nguyên văn được tồn lưu nguyên vẹn - khả năng này, dù sao, là
lớn nhất - thì còn có việc phải làm cho các nhà ngoại cảm và cho giới huyền
học. Không thấy có một dạng văn bản nào in riêng, tách bạch ra thành văn
bản độc lập, nên tuy chính sử nói là “thủ chiếu”, nhưng cũng không tránh
được chỗ “nhòe, mờ”.
1.2. Nội dung bản văn trên thực tế khá giản dị, đặc biệt là nếu đặt trong văn
cảnh của người đọc, người xem, người nghe thời bấy giờ, hay nói chung thời
Hán học còn thịnh. Lắng thấy như lời thì thầm, thân mật:
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以


其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上謹天命,下因民志。苟有便輒改。故國祚
延長。風俗富阜。
而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。
算數短促。百姓耗損。万物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便
江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜
之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ.
Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch
trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí,
cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ.
Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu
chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc,
bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc
long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn
hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải.
Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm
Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế
đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
Lời dịch (có thêm thắt):
“Xưa nhà Thương đến Bàn Canh năm lần thiên đô, nhà Chu tới Thành
Vương cũng dời chỗ ba lượt. Há rằng mấy vị vua thời Tam Đại ấy làm theo ý
riêng, di dời tùy tiện? Hẳn làm thế là để mưu việc lớn, chọn chỗ giữa, tính kế
dài lâu cho con cháu muôn đời. (Làm thế tức là) trên vâng mệnh trời, dưới
theo ý dân, nếu thấy tiện thì dời đổi. (Nhờ thế) nên vận nước bền lâu, đời
sống dồi dào.
Vậy mà hai nhà Đinh, Lê cứ theo ý riêng, lơ đễnh với mệnh trời, dửng dưng

với kinh nghiệm Thương Chu xưa, đóng mãi một nơi này, dẫn đến chỗ đời
nối không dài, số riêng ngắn ngủi, trăm họ chịu hao tổn, vạn vật không thích
nghi. Trẫm thật đau lòng, không dời đi không đặng.
Huống chi thành Đại La, nơi đô cũ của Cao Vương ấy, lại là khu vực ở vào
khoảng giữa của trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đấy là chỗ gặp
nhau của Đông Tây Nam Bắc, thuận trước sau sông núi đi về. Đất ấy rộng
mà bằng phẳng, xứ đó cao mà sáng sủa, dân cư không có cái khổ thấp trũng
tối tăm, vạn vật được nơi nảy nở cực kỳ phồn thịnh. Xem khắp nước Việt ta,
đó quả là thắng địa. Thật là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đáng làm
nơi định đô cho đế vương vạn thế.
Trẫm muốn theo địa lợi ấy mà định nơi ở, ý các ngươi thế nào?”.
Cứ như thiển ý của người viết bài này, thì giọng điệu của văn bản không hẳn
đã là giọng điệu của một văn bản hành chính quan phương, phải mang tính
pháp định (lạnh lùng) ở mức cao nhất, như yêu cầu của thể loại đòi hỏi.
Từ một góc nhìn khác, những người nghiên cứu có cổ Hán học sẽ không
mấy khó khăn để nhận ra rằng văn bản đang được đề cập về hình thức cũng
không mang cấu trúc của một đạo chiếu. Chỉ dấu dễ nhận thấy nhất nằm ở
cả hai phần mở đầu và kết thúc. Cũng có thể nghĩ rằng sử gia khi truyền thụ
lại văn bản đã tỉnh lược “đầu, đuôi”, nhưng dễ chấp nhận hơn, nếu coi đây là
một đạo dụ. Tính quy phạm của dụ co giãn hơn nhiều so với chiếu, chế, cáo,
tấu, biểu. Thậm chí, nhà vua có thể ban ra những “khẩu dụ”.
Vậy nên, có phần chắc là ba chữ lấy làm tiêu đề: Thiên đô chiếu, không nằm
trong thủ bút của Thái Tổ nhà Lý. Tiêu đề của văn bản (có thật) này là gì? Xin
chịu!
1.3. Những ý tưởng hiển ngôn
Không phải ngẫu nhiên mà vào đầu cái văn bản “trưng cầu quan ý” này, Lý
Thái Tổ lại mở lời bằng chuyện thời… Tam Đại: chỉ ở mấy triều đại sớm nhất
của lịch sử Trung Quốc mà tín sử ghi lại được (nên người Việt biết chữ Hán
có thể đọc), mới có chuyện liên tục thay đổi nơi định đô. Việc dời đô ở các
triều đại này thường gắn với những yêu cầu ổn định và phát triển hơn trước.

Vào thời kỳ muộn hơn, dời đổi kinh đô là chuyện hy hữu. Tần chỉ có một kinh
đô, (Lưỡng) Hán với vận số bốn trăm năm cũng chỉ dời đô vài lần, nhà Tống
đôi lần, mà mỗi lần dời đi bao giờ cũng gắn với một hay những biến cố tai
họa (catastrophe) đang làm chao đảo triều đại. Không thấy chép việc nhà
Đường dời đô trong ngót ba trăm năm tồn tại. Chuyện dời đô để mở ra vận
hội mới cho quốc gia rõ ràng là chuyện ở những thời điểm các quốc gia đang
nằm trong tiến trình quy hoạch và kiến tạo, trong đà đi lên. Còn lấy “tích” đâu
cho phù hợp hơn “tích” thời Tam Đại nữa?
Ở trên, tôi mạo muội dịch lại một đôi chỗ trong bản văn này. Chẳng dám tự
coi mình là hay hớm chữ nghĩa gì, chẳng qua vì việc cảm nhận đúng các sắc
thái ngôn từ trong trường hợp này có ý nghĩa thực sự quan trọng.
Đang ngồi trong cung điện cũ của nhà Tiền Lê, lại có được ngôi vua dường
như êm ả, Lý Thái Tổ dù sao chăng nữa không thể thống trách “Đinh Lê nhị
gia” quá lời. Trên thực tế, các vua của hai triều Đinh, Lê đều có những giới
hạn rõ ràng trong tầm nhìn, trong vốn văn hóa và viễn kiến chính trị. Vị Thái
Tổ nhà Lý hẳn từ sớm đã âm thầm nhận ra và khắc phục ở chính mình
những hạn chế ấy.(1)
Theo cách nhìn của Lý Thái Tổ, vị trí của kinh đô quan hệ mật thiết, chi phối
trực tiếp đến số phận cá nhân người làm vua, đến thịnh suy của triều đại,
đến sự thăng trầm của “quốc tộ”, rộng hơn và toàn diện hơn, đến bi hoan ưu
lạc của trăm họ, cảnh phồn thịnh hay hư hao của đời sống nói chung. Ngài
đã nói ra cái điều mà bá quan hẳn cũng từng lờ mờ cảm thấy, nhưng giờ đây
thì phải tự giác tri nhận. Theo cách đó, dễ dàng tìm được sự đồng thuận, tìm
ra tiếng nói chung ở hầu hết các thành viên của triều đình.
Trình bày xong cái lý buộc phải rời đất này mà đi, Thái Tổ dĩ nhiên tiếp đó
phải trưng ra cái lẽ của việc lựa chọn nơi cần đến.
Không ít người mang thể thức và thói quen làm văn nghị luận thời nay ra để
đòi Lý Thái Tổ phải đáp ứng yêu cầu và tuân thủ tiêu chí (2). E rằng làm như
vậy, một lối “yêu sách” thoát ly khỏi hoàn cảnh cụ thể - lịch sử, là vô tình hay
hữu ý cấm cản chính mình hiểu đúng được người xưa!

Định quốc đô ở Hoa Lư là sự lựa chọn của người sáng lập nên vương triều
nhà Đinh - vị thủ lĩnh xuất thân trong một hoàn cảnh thiệt thòi hơn nhiều
người bình thường khác, nhưng đã trải qua một thời trai trẻ tự trưởng thành
vượt bậc, từ địa vị một gia tướng, lên địa vị một chủ tướng, rồi “bay trên đầu
thế kỷ nhân gian” thành Vạn Thắng Vương, để “chốt lại” ở danh xưng Tiên
Hoàng đế. Lên đến “cửu tiêu” như vậy rồi, nhưng những năm tháng sau buổi
thiết triều định đô, ngài còn vẫn phải tiếp tục xông pha hòn đạn mũi tên, nam
chinh bắc chiến. Quán tính của lực ly tâm, cát cứ, vốn được nuôi dưỡng lâu
bền từ trong sự bảo lưu dằng dặc của làng xã tự trị, được những người
thuộc tầng lớp hào trưởng (khá đông đảo trên mọi vùng miền) không chỉ kế
tục mà còn chực chờ cơ hội để “phát huy” chống lại quyền lực tập trung về
triều đình trung ương. Ngoài võ công lưu vào sử sách chính danh trong
những cuộc tranh đấu hướng ngoại “phá Tống bình Chiêm”, vị vua khai cơ
của nhà Tiền Lê còn phải “liền năm đánh dẹp” hàng loạt những cuộc “nội
loạn” (3).
Việc tranh chấp quyền lực giữa các phe phái và thế lực như thế diễn ra thậm
chí ở mức độ khốc liệt hơn nhiều ngay trong và sau cái chết của Lê Hoàn,
đến nỗi “trong nước tám tháng không vua”, việc mai táng nhà vua không
được thực hiện đầy đủ lễ nghi tối thiểu, thậm chí không có nổi cả tên thụy và
tôn hiệu.
Tận mắt chứng kiến, và thậm chí tham gia vào những biến cố đó, vị Thái Tổ
tương lai của nhà Lý chắc chắn đã không chỉ nảy sinh những ý đồ mà còn trù
tính cả một kế hoạch dài hơi cho bản thân mình. Việc ngài ôm xác Trung
Tông Long Việt khóc ngay giữa triều đình của kẻ giết anh đoạt ngôi chắc
chắn là một phép thử mang ý nghĩa sinh tử. Vậy mà kẻ bạo quân đó (Ngọa
Triều Long Đĩnh) lại tỏ một thái độ mà ở một góc nhìn nào đó cũng nên được
đánh giá là ít nhiều có “văn hóa chính trị”: “Vua lên ngôi được ba ngày thì bị
Long Đĩnh giết. Bầy tôi đều chạy trốn, duy có Điện tiền quân là Lý Công Uẩn
ôm xác mà khóc. Long Đĩnh lên ngôi, truy đặt thụy cho vua là Trung Tông
Hoàng Đế, cho Công Uẩn làm Tứ sương quân Phó chỉ huy sứ” (4). Ba năm

sau thời điểm ấy, Ngọa Triều băng khi mới 24 tuổi. Chính sử chép mơ hồ về
nguyên nhân cái chết, bằng cách “kể” rằng vua mắc trĩ, từng phải “nằm coi
chầu” nên mới có “uế danh” là Ngọa Triều, nhưng dã sử thì “đồn vụng đồn
trộm”, ghi chép úp mở rằng cái chết ấy hình như có liên quan đến đôi tay của
người từng ôm xác vua anh khóc mấy năm trước đó! Kém tuổi hẳn một giáp,
dù có thể cũng là người thông minh cơ trí và lắm tham vọng, Lê Long Đĩnh
vẫn chưa thể là đối thủ thực sự của viên Điện tiền chỉ huy sứ của mình.
Chắc chắn rằng sau khi đã được tôn lập, một trong những việc cần làm ngay
được nhà vua xác định và nhanh chóng thực hiện, là việc dời đô. Như đã nói
ở trên, ngài khẳng quyết tường minh rằng, việc dời đô cùng một lúc có quan
hệ mật thiết và trực tiếp đến an ninh cá nhân, dòng dõi hoàng tộc, nhu cầu
an cư lạc nghiệp của cư dân nơi đế đô, điều kiện nắm quyền trị nước và lớn
nhất, xa nhất là vận mệnh vương triều - vận mệnh quốc gia. Nhà vua không
hề giấu giếm, ngược lại, thẳng thắn bộc bạch nỗi niềm canh cánh ấy. Nội
dung chủ yếu của bản “chiếu” này chính là một sự giãi bày cùng những lý lẽ
thuyết phục quần thần về quyết định quan trọng đó.
Việc dời đô diễn ra tuy không quá vội vàng, mà được trù hoạch cẩn thận,
nhưng cũng có thể nói là khẩn trương, gấp gáp.
Nửa sau của lời “chiếu”, như đã biết, ít nhiều làm dấy lên những sự phân
vân, những lời “phản biện”, nhất là đối với độc giả thời nay. Nhưng trước khi
thể hiện “lập trường”, hãy tĩnh trí quan chiêm đôi dòng lịch sử.
Cũng nên dừng lại bàn đôi lời về cách nhìn nhận, đánh giá đối với các “yếu
nhân nhập cư” trong cả một thời gian khá lâu dài trong lịch sử, để hiểu hơn
cách thế ứng xử từng được tỏ ra ở các tác giả, tác phẩm của “người Nam”
về sau, trong đó có Lý Thái Tổ.
Giữa các nhân vật từng là quan lại người Trung Quốc đô hộ ở nước ta, có
một số tên tuổi để lại những dấu ấn đậm nét. Cao Biền là một người được cả
chính sử lẫn dã sử có không ít truyện tích cùng rất nhiều ý kiến đánh giá,
bình nghị trái chiều.
Cao Biền, như chính sử Việt chép, sau hơn mười năm chinh phạt ở nhiều

nơi, sang Giao Châu với chức quan Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ “giữ phủ xưng
vương, đắp La Thành…” (5). Theo ghi nhận của các sử gia, trong thời gian trị
nhậm nơi này, Biền làm được nhiều việc mang lại ích lợi lớn cho cộng đồng

×