Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

TÁC ĐỘNG của LUẬT các tổ CHỨC tín DỤNG 2017 đến QUẢN TRỊ NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.61 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
------------------

TIỂU LUẬN

MÔN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 2017
ĐẾN QUẢN TRỊ NHTM

Giảng viên:
Nhóm thực hiện: Nhóm 2
Lớp:

TCNH1

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM:
1. Khổng Minh Huyền
2. Phạm Thị Thu Hà

6. Nguyễn Quốc Hưng

3. Trần Ngọc Hải

7. Đặng Thu Hương

4. Chu Thị Hoàng

8. Nguyễn Lệ Hường



Hà Nội, tháng 4 năm 2020


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Ngân hàng thương mại.......................................................................................1
1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại...................................................................1
1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại...........................................................1
1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng.....................................................................1
1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán.................................................................1
1.2.3. Chức năng tạo tiền.........................................................................................2
2. Quản trị ngân hàng thương mại........................................................................2
2.1. Khái niệm Quản trị ngân hàng thương mại.....................................................2
2.2. Chức năng của Quản trị Ngân hàng thương mại...........................................3
2.3. Một số nghiệp vụ Quản trị Ngân hàng thương mại........................................3
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỚI
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .........................................................7
1. Những sửa đổi của luật các TCTD 2017 và tác động của luật các TCTD 2017
với quản trị NHTMCP ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện.......................7
1.1. Về nâng cao năng lực quản trị, điều hành của TCTD.....................................7
1.2. Về minh bạch hóa nguồn vốn góp, xử lý sở hữu chéo.....................................9
1.3. Về cắt giảm điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính...................................10
1.4. Về áp dụng can thiệp sớm.................................................................................10
1.4.1. Về trường hợp áp dụng can thiệp sớm...........................................................11
1.4.2. Về trình tự áp dụng can thiệp sớm.................................................................11
1.4.3. Về các biện pháp khắc phục...........................................................................11
1.5. Về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý TCTD yếu kém..............................12
1.5.1. Về sửa đổi toàn diện các quy định về kiểm soát đặc biệt đối với TCTD........12



1.5.2. Về đánh giá thực trạng và đề xuất phương án xử lý.....................................14
1.5.3. Về các phương án cơ cấu lại TCTD được kiểm soát đặc biệt........................14
1.6. Về quy định chuyển tiếp....................................................................................18
2. Một số bất cập trong việc thực hiện Luật các TCTD 2017 khi quản trị
NHTMCP ở Việt Nam ............................................................................................19

KIẾN NGHỊ.....................................................................................................21


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010:

NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
nhuận.
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010:
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi; Cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh
toán qua tài khoản.
1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại
đóng vai trò như là cầu nối giữa đơn vị thặng dư và đơn vị thâm hụt trong nền kinh tế.
Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai
trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi

suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người
đi vay... Nhận tiền gửi và cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thương mại.
1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá
nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản
tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.

1


Các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán
tiện lợi cả ở trong nước hay ở nước ngoài như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút
tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình
phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền
trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ
có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các
chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an
toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ
thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
1.2.3. Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân hàng thương
mại. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một nhiệm vụ chính cho sự tồn tại và phát
triển của mình, các ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù
của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của ngân hàng
thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung
gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ hay kinh doanh trong khi

số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của
tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng
này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền
kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền
phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với ngân
hàng thương mại. Do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền
vào nền kinh tế lớn.
2. Quản trị ngân hàng thương mại
2.1. Khái niệm Quản trị ngân hàng thương mại
Quản trị NHTM là việc thiết lập các chương trình hoạt động kinh doanh để đạt các
mục đích, mục tiêu kinh doanh ngắn hạn và dài hạn của ngân hàng, là việc xác định và
2


điều hòa các nguồn lực để thực hiện chương trình, mục tiêu kinh doanh, là việc tổ chức
lãnh đạo và kiểm tra nhân viên của ngân hàng để đạt dược các chương trình, mục tiêu đã
đề ra
2.2. Chức năng của Quản trị Ngân hàng thương mại
- Tối đa hóa doanh thu hoạt động của Ngân hàng thương mại.
- Tối thiểu hóa chi phí hoạt động của Ngân hàng thương mại
- Tối đa hóa lợi nhuận hoạt động của Ngân hàng thương mại
- Giảm thiểu rủi ro các hoạt động của Ngân hàng thương mại.
- Tối đa hóa hiệu quả haotj động của Ngân hàng thương mại
2.3. Một số nghiệp vụ Quản trị Ngân hàng thương mại
Quản trị Ngân hàng thương mại là các phương pháp giúp ngân hàng hoạt động thế
nào để đạt an toàn nhất và có hiệu quả nhất. Bằng cách sử dụng các biện pháp kỹ thuật,
công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, phòng tránh hoặc giảm
thiểu các tổn thất, những ảnh hưởng không mong muốn có thể xảy ra đối với ngân hàng.
Nghiệp vụ Quản trị Ngân hàng thương mại bao gồm: Quản lý tài sản có; Quản lý tài sản
nợ; Quản lý thanh khoản và dự trữ; Quản lý vốn chủ sở hữu

a) Quản lý tài sản Có:
Đây là phương pháp tiếp cận cổ điển nhất trong việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản
của ngân hàng. Ở hình thức đơn giản nhất, chiến lược này kêu gọi ngân hàng tích lũy
thanh khoản bằng cách nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao, chủ yếu là tiền mặt
và các chứng khoán dễ bán. Do giữa thanh khoản và thu nhập luôn có sự đánh đổi nên
nếu một ngân hàng duy trì một lượng lớn tài sản có tính thanh khoản cao thì đồng thời
giảm một lượng thu nhập mà các tài sản này có thể tạo ra.
Do đó, chiến lược này được các ngân hàng áp dụng vì nó mang lại ít rủi ro. Nhưng nó
không phải là chiến lược QTRR có chi phí thấp. Vì bán tài sản có nghĩa là ngân hàng phải
chấp nhận mất đi những lợi nhuận mà tài sản đó tạo ra, bên cạnh đó việc bán tài sản sẽ
còn liên quan đến chi phí giao dịch cho người môi giới. Không những vậy, thường thì để

3


tối thiểu hóa chi phí cơ hội cho việc không nhận được thu nhập từ tài sản, ngân hàng
trước hết phải bán hết những tài sản có mức thu nhập tiềm năng thấp nhất. Tuy nhiên việc
bán tài sản để tăng cường thanh khoản sẽ làm hình ảnh của ngân hàng yếu đi thể hiện qua
bảng cân đối tài sản. Bởi tài sản bán đi thường là các chứng khoán ít rủi ro của chính phủ
ví dụ như trái phiếu, tín phiếu, và các giấy tờ có giá khác.
b) Quản lý tài sản Nợ
Chiến lược quản lý tài sản Nợ là chiến lược mà ngân hàng đáp ứng nhu cầu thanh
khoản phát sinh bằng cách vay những nguồn vốn khả dụng tức thời trên thị trường tiền tệ.
Vay thanh khoản có nhiều lợi thế:
Thứ nhất, ngân hàng có thể lựa chọn vay khi thực sự cần vốn. Khác với chiến lược
trên là ngân hàng luôn phải dự trữ một số tài sản thanh khoản cao tại bất cứ thời điểm nào
làm giảm thu nhập tiềm năng.
Thứ hai, biện pháp quản lý tài sản Nợ không làm thay đổi quy mô bảng cân đối tài
sản và kết cấu tài sản Có, nhưng làm thay đổi kết cấu tài sản Nợ. Hay nói cách khác, mọi
điều chỉnh của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản chỉ diễn ra bên tài sản Nợ. Điều

này gợi ý rằng, nếu ngân hàng quản lý tài sản Nợ một cách hiệu quả, thì chiến lược kinh
doanh bên tài sản Có sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự rút tiền gửi quá mức thông thường.
Cuối cùng là, quản lý tài sản Nợ có khả năng tự điều chỉnh theo chi phí – mức lãi suất
đưa ra để vay vốn. Nếu NHTM đi vay cần thêm vốn, nó chỉ cần nâng lãi suất huy động cho
tới khi nhận đủ vốn. NHTM cũng có thể giảm lãi suất nhằm hạn chế dòng vốn đổ vào.
Đây là một trong những lý do giải thích tại sao kỹ thuật quản lý tài sản Nợ lại phát
triển nhanh và nhiều như hiện nay. Tuy nhiên, vay thanh khoản cũng tiềm ẩn một số rủi ro
nhất định, ví dụ nếu lãi suất ngân hàng tăng đột ngột, khi đó phương pháp này tỏ ra kém
hiệu quả bởi chi phí đi vay cũng đồng nghĩa sẽ tăng cao. Thông thường khi đi vay, ngân
hàng phải mua thanh khoản trong điều kiện khó khăn – cả về giá cả và tính sẵn có. Chi
phí vay vốn của ngân hàng thường khó xác định chắc chắn, làm giảm tính ổn định của thu
nhập. Hơn nữa, những ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính thường có nhu
cầu vay thanh khoản lớn nhất, người gửi tiền dần nhận thức được khó khăn của ngân hàng

4


và bắt đầu thực hiện rút vốn. Cùng lúc đó, các tổ chức tài chính khác cũng không muốn
cho vay đối với ngân hàng vì sợ rủi ro.
c) Quản lý vốn chủ sở hữu
Quản lí vốn chủ sở hữu thực chất là xác định qui mô và cấu trúc vốn chủ sở hữu
sao cho phù hợp với yêu cầu kinh doanh, đồng thời tìm kiếm các biện pháp tăng vốn chủ
sở hữu một cách có hiệu quả trên quan điểm lợi ích của cổ đông. Ngân hàng cần có bao
nhiêu vốn để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền là câu hỏi mà các cơ quan quản lý và
điều tiết ngân hàng luôn phải trả lời. Để bảo vệ những người gửi tiền và xây dựng một hệ
thống ngân hàng ổn định, các cơ quan quản lý ngân hàng đã thiết lập những đòi hỏi về
vốn để đảm bảo mức độ an toàn đối với các ngân hàng.
Yêu cầu của ngân hàng trung ương về mức đủ vốn như một chỉ dẫn quan trọng cho
công chúng biết về uy tín của ngân hàng. Do vậy nhà quản lý ngân hàng phải coi quản lý
vốn ngân hàng như một bộ phận không thể tách rời của quản lý vốn chủ sở hữu. Quản lý

vốn chủ sở hữu nhằm đáp ứng yêu cầu:
 Trước hết là người gửi tiền. Vốn ngân hàng càng lớn, càng tạo cho người gửi tâm
lí an toàn. Họ hi vọng rằng, khi bỏ ra một số tiền lớn, những người chủ sở hữu quan trọng
của ngân hàng sẽ phải cố gắng hết sức để kinh doanh an toàn.
 Thứ hai là các nhà chức trách tiền tệ và các công ty bảo hiểm ngân hàng: Các vụ
phá sản ngân hàng (đang ngày gia tăng) thường gây ra những hoảng loạn lớn trong dân
chúng và các tổn thất khó lường hết được. Vốn của chủ ngân hàng được sử dụng để trả nợ
cho người gửi tiền, giảm bớt khó khăn cho ngân sách, hoặc tổn thất của người gửi tiền.
 Thứ ba là các cổ đông. Vốn ngân hàng tăng có thể làm giảm lợi tức cổ phần,
hoặc quyền lực của các cổ đông lớn. Do vậy các cổ đông mong muốn tỷ lệ vốn ngân hàng
phù hợp sao cho quyền lợi của cổ đông được đảm bảo.
d) Chiến lược quản trị thanh khoản và vai trò dự trữ
Hầu hết các ngân hàng đã kết hợp sử dụng đồng thời cả chiến lược quản trị thanh
khoản tài sản Có và thanh khoản tài sản Nợ để có thể phát huy tối đa mọi lợi thế và hạn
chế những rủi ro có thể xảy ra. Theo chiến lược này, một phần nhu cầu thanh khoản dự
5


tính sẽ được đáp ứng bằng việc dự trữ tài sản thanh khoản (chủ yếu là các giấy tờ có giá
và tiền gửi tại các TCTD khác) trong khi phần còn lại của nhu cầu thanh khoản sẽ được
đáp ứng bằng cách vay vốn trên thị trường tiền tệ. Những nhu cầu thanh khoản bất thường
hoặc mang tính thời vụ thì sẽ được xử lý bằng việc vay vốn trên thị trường tiền tệ, còn
những nhu cầu thanh khoản mang tính chu kỳ thì sẽ được xử lý bằng việc dự trữ các tài sản
mang tính thanh khoản cao.
Vì rủi ro thanh khoản có mối liên hệ mật thiết với các loại rủi ro khác, nên hiện nay,
để thực hiện chiến lược quản trị thanh khoản phối hợp, hầu hết các NHTM áp dụng mô
hình CAMELS trong Quản trị rủi ro nói chung và Quản trị rủi ro thanh khoản nói riêng.
Phân tích theo chỉ tiêu CAMELS dựa trên 6 yếu tố cơ bản được sử dụng để đánh giá
hoạt động của một ngân hàng, đó là:
-


C: Capital Adequacy (Mức độ an toàn vốn)

-

A: Asset Quality (Chất lượng tài sản có)

-

M: Management (Quản lý)

-

E: Earnings (Lợi nhuận)

-

L: Liquidity (Thanh khoản)

-

S: Sensitivity to Market Risk (Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường)

Tuy nhiên, đây chỉ là một kênh phân tích, để có thể thu được kết quả đúng và hữu ích, cần
kết hợp việc phân tích theo CAMELS với những đánh giá định tính khác của ngân hàng.

6


CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỚI QUẢN

TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Những sửa đổi của luật các TCTD 2017 và tác động của luật các TCTD 2017 với
quản trị NHTMCP ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện
Luật các TCTD 2010 quy định rõ hình thức tổ chức của TCTD. Theo đó, NHTM
trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần trừ trường hợp NHTM
nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. So với Luật Doanh nghiệp 2014, Luật các
TCTD 2010 và sau đó là Luật các TCTD 2017 sủa đổi đã có nhiều quy định khá chặt chẽ,
cụ thể về quản trị TCTD là công ty cổ phần, trong đó có nhiều quy định về tiêu chuẩn,
điều kiện để trở thành người quản lý, điều hành TCTD trên các khía cạnh trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm quản lý và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cũng như bảo
đảm sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với người thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều
hành TCTD thông qua quy định chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ
nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) của TCTD. Quy định về quản trị NHTMCP trong
Luật các TCTD 2017 đã bảo đảm tính thống nhất với pháp luật quản trị công ty và cụ thể
hóa được những đặc thù của quản trị NHTMCP - TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng.
1.1. Về nâng cao năng lực quản trị, điều hành của TCTD
Luật các Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung một số quy định nhằm nâng cao năng
lực quản trị, điều hành của TCTD, hạn chế, ngăn ngừa việc lạm dụng quyền quản trị, điều
hành để phục vụ cho các lợi ích liên quan, cụ thể:
Thứ nhất, khắc phục bất cập của quy định về người có liên quan của Luật Các
TCTD 2010 (chủ yếu xác định người có liên quan theo yếu tố định lượng), Luật Các
TCTD sửa đổi 2017 đã mở rộng phạm vi người liên quan dựa trên mức độ rủi ro của mối
quan hệ giữa những người này với hoạt động của TCTD. Theo đó, Luật các TCTD sửa
đổi 2017 quy định người có liên quan bao gồm cả pháp nhân, cá nhân có mối quan hệ
tiềm ẩn rủi ro cho hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xác định
7



theo quy định nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc theo yêu cầu bằng
văn bản của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông qua hoạt động thanh tra, giám sát đối
với từng trường hợp cụ thể.
Thứ hai, để hạn chế, ngăn ngừa các hành vi vi phạm của người quản lý, điều hành
trong quá trình quản trị, điều hành TCTD, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung thêm
trường hợp không được đảm nhiệm chức vụ (điểm h Khoản 1 Điều 33) là các cá nhân
phải chịu trách nhiệm theo kết luận thanh tra dẫn đến việc TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng ở khung phạt
tiền cao nhất đối với một số hành vi vi phạm ảnh hưởng đến an toàn hoạt động ngân hàng
như hành vi vi phạm quy định về giấy phép, quản trị, điều hành, cổ phần, cổ phiếu, góp
vốn, mua cổ phần, cấp tín dụng, mua trái phiếu doanh nghiệp, tỷ lệ bảo đảm an toàn.
Thứ ba, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung quy định (khoản 4 Điều 34)
không cho phép Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng giám
đốc (Giám đốc) của TCTD được đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội
đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên hội đồng thành viên, Chủ tịch
công ty, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc và các chức danh tương đương của doanh
nghiệp khác để hạn chế, ngăn ngừa việc lạm dụng quyền đồng thời là người quản trị, điều
hành tại TCTD và doanh nghiệp để thực hiện hoạt động đầu tư, cấp tín dụng không trên
cơ sở thị trường, tạo ra rủi ro lớn cho hoạt động của TCTD.
Thứ tư, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu
chuẩn, điều kiện đối với các chức danh thành viên Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên,
Tổng giám đốc (Giám đốc) của các TCTD (khoản 1 và khoản 4 Điều 50) theo hướng kinh
nghiệm quản trị, điều hành là điều kiện bắt buộc. Cụ thể: (i) Bên cạnh việc các điều kiện
khác, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng quản trị bắt buộc phải có ít
nhất 03 năm là người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng hoặc có ít nhất 05
năm là người quản lý, người điều hành của doanh nghiệp hoạt động trong ngành tài chính,
ngân hàng, kế toán, kiểm toán hoặc của doanh nghiệp khác có vốn chủ sở hữu tối thiểu
bằng mức vốn pháp định đối với loại hình TCTD tương ứng hoặc có ít nhất 05 năm làm
việc trực tiếp tại bộ phận nghiệp vụ về tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán; (ii)

Tương tự, bên cạnh các điều kiện khác, Tổng giám đốc của TCTD bắt buộc phải có ít nhất
8


05 năm là người điều hành của TCTD hoặc có ít nhất 05 năm là Tổng giám đốc (Giám
đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu tối thiểu bằng
mức vốn pháp định đối với loại hình TCTD tương ứng và có ít nhất 05 năm làm việc trực
tiếp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán hoặc có ít nhất 10 năm làm
việc trực tiếp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán.
Thứ năm, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã sửa đổi, bổ sung quy định (Khoản 2
Điều 75) yêu cầu danh sách nhân sự người quản trị, người điều hành, kiểm soát dự kiến
của quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng hợp tác xã phải được NHNN chấp thuận trước để
bảo đảm năng lực của người quản trị, người điều hành, kiểm soát của quỹ tín dụng nhân
dân, ngân hàng hợp tác xã.
1.2. Về minh bạch hóa nguồn vốn góp, xử lý sở hữu chéo.
Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã sửa đổi, bổ sung một số điều khoản nhằm minh
bạch hóa nguồn vốn góp, xử lý sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng, cụ thể như sau:
Một là, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung thêm trách nhiệm của TCTD
(khoản 4 vào Điều 39) phải thông báo cho Ngân hàng Nhà nước các thông tin về lợi ích
liên quan của người quản lý, người điều hành TCTD trong vòng 07 ngày làm việc kể từ
nhận được thông tin. Các thông tin này là dữ liệu đầu vào cho hoạt động giám sát, thanh
tra của NHNN, đặc biệt là việc tuân thủ các quy định về giới hạn sở hữu cổ phần, giới
hạn, hạn chế cấp tín dụng của TCTD cho người quản lý, điều hành, người liên quan.
Hai là, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung thêm quy định (điểm c khoản 1
Điều 54) yêu cầu cổ đông: (i) Không được sử dụng nguồn vốn do TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài cấp tín dụng để mua, nhận chuyển nhượng cổ phần của TCTD; và (ii)
Không được góp vốn, mua cổ phần của TCTD dưới tên của cá nhân, pháp nhân khác dưới
mọi hình thức. Quy định này của Luật Các TCTD sửa đổi năm 2017 là nhằm xử lý tình
trạng tăng vốn ảo (bằng vốn vay TCTD khác), hạn chế sở hữu chéo trong hoạt động ngân
hàng, xử lý tình trạng nhờ người đứng tên sở hữu hộ cổ phần tại TCTD để lách quy định

giới hạn sở hữu cổ phần của Luật.
Ba là, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 55 để bổ
sung thêm một hạn chế về giới hạn sở hữu cổ phần của cổ đông tại nhiều TCTD nhằm hạn
9


chế tình trạng cổ đông, nhóm cổ đông lạm dụng vị thế cổ đông lớn tại nhiều TCTD để
phục vụ cho các lợi ích liên quan. Theo đó, từ ngày 15/01/2018, một cổ đông lớn và
những người có liên quan tại một TCTD không được sở hữu từ 5% vốn điều lệ tại TCTD
khác.
Bốn là, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã hoàn thiện các quy định về không được
cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng và giới hạn cấp tín dụng tại Luật Các TCTD 2010, cụ
thể như sau: (i) Bổ sung quy định việc mua, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp được coi
là hoạt động cấp tín dụng để tuân thủ các quy định cấm cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng
tại các điều 126, 127 Luật Các TCTD 2010; việc mua, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp
do khách hàng và người có liên quan của khách hàng phát hành được coi là hoạt động cấp
tín dụng để tuân thủ quy định về giới hạn cấp tín dụng tại khoản 1, 2 Điều 128 Luật Các
TCTD 2010 (iii) TCTD không được cấp tín dụng để góp vốn, mua cổ phần của TCTD;
(iv) Giao NHNN hướng dẫn giới hạn, điều kiện cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh trái
phiếu doanh nghiệp; (v) Giao Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn cụ thể về điều kiện, hồ sơ,
trình tự để chấp thuận cấp tín dụng vượt giới hạn cấp tín dụng thông thường.
1.3. Về cắt giảm điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính
Thực hiện định hướng cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động kinh doanh của TCTD, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã rà soát, bãi bỏ
một số điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính không cần thiết: (i) Bỏ thủ tục chấp
thuận của NHNN khi TCTD thay đổi tên chi nhánh; (ii) Bỏ thủ tục chấp thuận của NHNN
khi TCTD niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán trong nước; (iii) Bỏ thủ tục xác
nhận đăng ký Điều lệ của TCTD; (iv) Tăng thời gian ngừng hoạt động phải có chấp thuận
của NHNN từ 1 ngày lên từ 05 ngày làm việc trở lên.
1.4. Về áp dụng can thiệp sớm

Để tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho việc phát hiện, xử lý sớm các TCTD
yếu kém, hạn chế việc áp dụng kiểm soát đặc biệt đối với TCTD, Luật Các TCTD sửa đổi
2017 đã bổ sung cơ chế áp dụng can thiệp sớm đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài. Việc bổ sung thêm cơ chế can thiệp góp phần tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ

10


về xử lý TCTD từ việc cảnh báo sớm đối với các rủi ro tiềm ẩn, can thiệp sớm để xử lý
các vi phạm đến đặt vào kiểm soát đặc biệt.
1.4.1. Về trường hợp áp dụng can thiệp sớm
Theo Luật Các TCTD sửa đổi 2017, NHNN xem xét áp dụng can thiệp sớm đối với
TCTD lâm vào một trong các trường hợp sau đây nhưng chưa được đặt vào kiểm soát đặc
biệt: (i) Không duy trì được tỷ lệ khả năng chi trả quy định tại điểm a khoản 1 Điều 130
của Luật Các TCTD 2010 trong thời gian 03 tháng liên tục; (ii) Không duy trì được tỷ lệ
an toàn vốn quy định tại điểm b khoản 1 Điều 130 của Luật Các TCTD 2010 trong thời
gian 06 tháng liên tục; (iii) Xếp hạng dưới mức trung bình theo quy định của NHNN.
Theo Luật Các TCTD sửa đổi 2017, NHNN cũng sẽ xem xét áp dụng can thiệp
sớm đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi chi nhánh ngân hàng nước ngoài thuộc
một trong các trường hợp nêu trên.
1.4.2. Về trình tự áp dụng can thiệp sớm
Theo Luật Các TCTD sửa đổi 2017, trình tự áp dụng can thiệp sớm như sau: (i)
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản áp dụng can thiệp sớm của
NHNN; TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải báo cáo NHNN thực trạng, nguyên
nhân, phương án khắc phục tình trạng dẫn đến TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị
áp dụng can thiệp sớm và tổ chức triển khai thực hiện phương án. Thời hạn thực hiện
phương án khắc phục tối đa là 01 năm, kể từ ngày có văn bản áp dụng can thiệp sớm của
NHNN; (ii) Trường hợp TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không xây dựng được
phương án khắc phục hoặc hết thời hạn thực hiện phương án mà không khắc phục được
tình trạng dẫn đến bị áp dụng can thiệp sớm thì tùy theo tính chất, mức độ rủi ro, NHNN

yêu cầu TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện một hoặc một số biện pháp
khắc phục; (iii) NHNN có văn bản chấm dứt áp dụng can thiệp sớm sau khi TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài khắc phục được tình trạng dẫn đến bị áp dụng can thiệp sớm
hoặc khi TCTD được đặt vào kiểm soát đặc biệt.
1.4.3. Về các biện pháp khắc phục

11


Các biện pháp khắc phục tình trạng dẫn đến phải áp dụng can thiệp sớm bao gồm:
(i) Thu hẹp nội dung, phạm vi hoạt động, hạn chế các giao dịch lớn; (ii) Tăng vốn điều lệ,
vốn được cấp; tăng cường nắm giữ tài sản có tính thanh khoản cao; bán, chuyển nhượng
tài sản và thực hiện các giải pháp khác để đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt
động ngân hàng; (iii) Hạn chế chi trả cổ tức, phân phối lợi nhuận; (iv) Cắt giảm chi phí
hoạt động, chi phí quản lý; hạn chế trả thù lao, lương, thưởng đối với người quản lý,
người điều hành; (v) Tăng cường quản trị rủi ro; tổ chức lại bộ máy quản lý, cắt giảm
nhân sự; (vi) Các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
1.5. Về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý TCTD yếu kém
Để khắc phục các bất cập, vướng mắc của pháp luật về xử lý TCTD yếu kém đã
nảy sinh, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã sửa đổi toàn diện khuôn khổ pháp lý về xử lý
TCTD yếu kém bằng việc sửa đổi 1 mục, bổ sung thêm 05 mục mới tại chương VIII. Cụ
thể như sau:
1.5.1. Về sửa đổi toàn diện các quy định về kiểm soát đặc biệt đối với TCTD
So với Luật Các TCTD 2010, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã sửa đổi, bổ sung
nhiều nội dung liên quan đến kiểm soát đặc biệt:
Thứ nhất, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung thêm 02 trường hợp NHNN
xem xét đặt TCTD vào kiểm soát đặc biệt là khi TCTD: (i) Mất khả năng chi trả và (ii)
Mất khả năng thanh toán.
Thứ hai, sửa đổi quy định về chấm dứt kiểm soát đặc biệt; đồng thời bổ sung
trường hợp chấm dứt kiểm soát đặc biệt là khi TCTD được kiểm soát đặc biệt bị giải thể.

Thứ ba, phân định rõ thẩm quyền của cơ quan Nhà nước trong quá trình kiểm soát
đặc biệt. Cụ thể, căn cứ vào loại hình TCTD, tầm ảnh hưởng tới hệ thống các tổ chức tín
dụng, Luật các TCTD sửa đổi 2017 quy định: (i) Chính phủ quyết định chủ trương và phê
duyệt phương án phá sản, giải thể, chuyển giao bắt buộc tổ chức tín dụng được kiểm soát
đặc biệt theo đề nghị của NHNN; (ii) Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương và phê
duyệt phương án phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn
góp đối với ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, công ty tài chính được kiểm

12


soát đặc biệt; quyết định việc cho vay đặc biệt của NHNN với lãi suất ưu đãi đến mức 0%
đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt; (iii) NHNN quyết định chủ trương và
phê duyệt phương án phục hồi, phương án xử lý sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn
bộ cổ phần, phần vốn góp đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô trừ nội
dung thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trên đây.
Đồng thời, về trách nhiệm quyền hạn của NHNN, Ban kiểm soát đặc biệt, các cơ
quan quản trị, điều hành của TCTD được kiểm soát đặc biệt, so với quy định hiện hành,
Luật Các TCTD sửa đổi 2010 đã quy định cụ thể hơn thẩm quyền của NHNN; bổ sung
quy định về trách nhiệm của TCTD được kiểm soát đặc biệt, chủ sở hữu, thành viên góp
vốn, cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc
(Giám đốc) của TCTD được kiểm soát đặc biệt, bổ sung quy định về thẩm quyền của Ban
kiểm soát đặc biệt trong việc chỉ đạo các TCTD áp dụng ngay các biện pháp cần thiết
trước khi thực hiện phương án cơ cấu lại (như rà soát mạng lưới, cơ cấu tổ chức, hoạt
động kinh doanh và thực hiện cắt giảm chi phí, xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm...) và một số
nội dung cần thiết khác.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về vay đặc biệt. Theo đó, TCTD được kiểm soát
đặc biệt ngoài được vay đặc biệt của NHNN, TCTD khác như quy định hiện hành, còn
được vay đặc biệt của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (đối với tổ chức tài chính vi mô, quỹ
tín dụng nhân dân), Ngân hàng hợp tác xã (đối với quỹ tín dụng nhân dân); Luật các

TCTD sửa đổi 2017 cũng cụ thể hơn các trường hợp được vay đặc biệt, việc ưu tiên hoàn
trả khoản vay đặc biệt. Thứ năm, trên thực tế, các TCTD yếu kém không thể đáp ứng các
quy định về an toàn hoạt động và không đủ điều kiện đáp ứng về giới hạn cấp tín dụng,
điều kiện huy động vốn, ... để triển khai một số hoạt động kinh doanh như
một TCTD bình thường do thực trạng tài chính yếu kém. Tuy nhiên, Luật
Các TCTD 2010 chưa có các quy định điều chỉnh riêng về quản trị, điều hành và hoạt
động của TCTD được kiểm soát đặc biệt nên việc triển khai các biện pháp phục hồi gặp
nhiều khó khăn, khó có thể phục hồi được tổ chức tín dụng yếu kém. Do đó, để khắc phục
bất cập nêu trên, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung quy định về quản trị, điều hành
và hoạt động của TCTD được kiểm soát đặc biệt. Theo đó, NHNN quyết định nội dung,
phạm vi hoạt động của TCTD được kiểm soát đặc biệt, các tỷ lệ, giới hạn bảo đảm an toàn
13


tại các điều 128, 130, 131, 140 đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt; TCTD được kiểm
soát đặc biệt không phải áp dụng dự trữ bắt buộc, miễn phí bảo hiểm tiền gửi trong giai
đoạn kiểm soát đặc biệt.
1.5.2. Về đánh giá thực trạng và đề xuất phương án xử lý
Nhằm đảm bảo việc xem xét lựa chọn phương án xử lý phù hợp với thực trạng của
từng TCTD, Luật đã bổ sung mục 1a vào sau Mục 1 Chương VIII về đánh giá thực trạng
và đề xuất, phê duyệt chủ trương xử lý TCTD được kiểm soát đặc biệt.
Thứ nhất, về đánh giá thực trạng, Luật Các TCTD sửa đổi, bổ sung 2017 quy định
trách nhiệm đánh giá thực trạng TCTD được kiểm soát đặc biệt hiện đang quy định tại
văn bản dưới luật và bổ sung các quy định cụ thể hơn về trách nhiệm, thời hạn đánh giá
thực trạng và đề xuất chủ trương xử lý TCTD được kiểm soát đặc biệt như sau: (i) Thời
hạn đánh giá và đề xuất: tối đa 05 tháng; (ii) Trách nhiệm xây dựng: Ban Kiểm soát đặc
biệt của NHNN, TCTD; (iii) Nội dung đánh giá: Tình hình tài chính, xác định giá trị thực
của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ (trên cơ sở báo cáo kiểm toán độc lập); Thực trạng về tổ
chức, quản trị, điều hành, hệ thống công nghệ thông tin; Thực trạng hoạt động, kinh
doanh.

Thứ hai, về đề xuất phương án xử lý, Luật Các TCTD sửa đổi, bổ sung 2017 quy
định cụ thể đối tượng đề xuất, thẩm quyền phê duyệt chủ trương phù hợp với từng loại
hình TCTD được kiểm soát đặc biệt dựa trên kết quả đánh giá tổng thể thực trạng của
TCTD được kiểm soát đặc biệt, theo đó, trên cơ sở đề xuất của Ban kiểm soát đặc biệt,
NHNN xem xét, quyết định hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ
trương xử lý TCTD được kiểm soát đặc biệt.
1.5.3. Về các phương án cơ cấu lại TCTD được kiểm soát đặc biệt
Để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về các phương án xử lý TCTD yếu kém, Luật
Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung các Mục 1b, 1c, 1d, 1đ, 1e vào sau Mục 1 Chương
VIII để điều chỉnh các quy định chi tiết về từng phương án cơ cấu lại TCTD được kiểm
soát đặc biệt.

14


Thứ nhất, đối với phương án phục hồi, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 quy định cụ
thể thời hạn, trách nhiệm, trình tự, thẩm quyền xây dựng, phê duyệt phương án, nội dung
phương án, các biện pháp hỗ trợ phục hồi và việc tổ chức thực hiện phương án phục hồi
TCTD được kiểm soát đặc biệt.
Trong đó, nội dung phương án phục hồi quy định rõ những vấn đề tối thiểu phải có
tại phương án phục hồi như: (i) Phương án tăng vốn điều lệ và thời hạn thực hiện đối với
trường hợp giá trị thực của vốn điều lệ thấp hơn vốn pháp định; trường hợp tỷ lệ an toàn
vốn dưới mức quy định của NHNN hoặc các trường hợp khác theo yêu cầu của NHNN để
bảo đảm an toàn cho hoạt động của TCTD; (ii) Phương án hoạt động kinh doanh trong
giai đoạn phục hồi; (iii) Phương án cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành; (iv) Phương án xử
lý các tồn tại, yếu kém về tài chính, nợ xấu, tài sản bảo đảm và các biện pháp khắc phục
các vi phạm pháp luật; (v) Phương án xử lý tiền gửi của khách hàng là pháp nhân; tiền gửi
và tiền vay của TCTD khác; phương án xử lý khoản vay đặc biệt đã vay bao gồm cả
khoản vay tái cấp vốn được chuyển thành khoản vay đặc biệt; (vi) Các biện pháp hỗ trợ
cần áp dụng; (vii) Lộ trình, thời hạn thực hiện phương án phục hồi. Trường hợp NHNN

chỉ định TCTD hỗ trợ, ngoài các nội dung trên, phương án cần bổ sung các nội dung sau
đây: Phương án hỗ trợ của TCTD hỗ trợ đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt; phương
án hỗ trợ đối với TCTD hỗ trợ; phương án trả lương, thù lao, tiền thưởng và các chế độ
khác đối với người được biệt phái tham gia hỗ trợ quản trị, điều hành TCTD được kiểm
soát đặc biệt; Phương án trả lương cho người lao động của TCTD được kiểm soát đặc biệt
trong thời hạn kiểm soát đặc biệt.
Ngoài ra, để bảo đảm tính khả thi, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung các
quy định về điều kiện, quyền và nghĩa vụ của TCTD hỗ trợ; các biện pháp tài chính hỗ trợ
phục hồi khi thực hiện phương án. Theo đó, tùy thực trạng của từng TCTD, phương án
phục hồi được phê duyệt sẽ xác định cụ thể việc áp dụng một hoặc một số các biện pháp
hỗ trợ phục hồi bao gồm cả thời hạn áp dụng, quy mô biện pháp hỗ trợ. Đồng thời, Luật
Các TCTD sửa đổi năm 2017 quy định về việc tổ chức thực hiện phương án phục hồi bao
gồm trách nhiệm và thẩm quyền cách thức tổ chức thực hiện; sửa đổi, bổ sung phương án
và hình thức xử lý khi TCTD được kiểm soát đặc biệt không phục hồi được theo phương
án hoặc NHNN nhận thấy không có khả năng phục hồi.
15


Thứ hai, đối với phương án sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần,
phần vốn góp của TCTD được kiểm soát đặc biệt, Luật Các TCTD sửa đổi năm 2017quy
định cụ thể việc xây dựng, phê duyệt phương án sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn
bộ cổ phần, phần vốn góp, điều kiện áp dụng, nội dung phương án, biện pháp hỗ trợ thực
hiện phương án.
Trong đó, điều kiện áp dụng phương án này gồm: (i) Sau khi được Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ hoặc NHNN quyết định chủ trương xử lý theo thẩm quyền hoặc khi
không xây dựng được hoặc không được phê duyệt phương án hoặc không thực hiện được
phương án phục hồi; (ii) Có TCTD nhận sáp nhập, hợp nhất, nhà đầu tư nhận chuyển
nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp
luật; (iii) TCTD sau sáp nhập, hợp nhất bảo đảm giá trị thực của vốn điều lệ tối thiểu bằng
mức vốn pháp định và đáp ứng các tỷ lệ bảo đảm an toàn quy định tại Điều 130 của Luật

này.
Về nội dung phương án sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần
vốn góp, Luật Các TCTD sửa đổi năm 2017quy định phương án sáp nhập, hợp nhất,
chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp bao gồm các nội dung tối thiểu sau đây: (i)
Tên phương án sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp và quy
trình thực hiện phương án; (ii) Thông tin về TCTD bị sáp nhập, nhận sáp nhập, bị hợp
nhất, nhà đầu tư nhận chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp, bao gồm nội dung
chứng minh năng lực, điều kiện theo quy định của pháp luật; (iii) Phương án cơ cấu tổ
chức, quản trị, điều hành, bao gồm cả việc tích hợp, chuyển đổi hệ thống công nghệ thông
tin đối với trường hợp sáp nhập, hợp nhất; (iv) Phương án hoạt động kinh doanh trong
thời gian 03 năm sau sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp,
bao gồm cả dự kiến các tỷ lệ bảo đảm an toàn quy định tại Điều 130 của Luật; (iv)
Phương án xử lý khoản vay đặc biệt đã vay, bao gồm cả khoản vay tái cấp vốn được
chuyển thành khoản vay đặc biệt; (v) Biện pháp hỗ trợ cần áp dụng; (vi) Lộ trình, thời hạn
thực hiện phương án. Đối với trường hợp chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp,
phương án phải có nội dung về phương án khắc phục tình trạng dẫn đến TCTD được đặt
vào kiểm soát đặc biệt. Về các biện pháp hỗ trợ, Luật quy định cụ thể các nhóm biện pháp

16


hỗ trợ phù hợp với hình thức xử lý của phương án là sáp nhập, hợp nhất hay chuyển
nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp.
Luật Các TCTD sửa đổi năm 2017 cũng quy định việc tổ chức thực hiện phương
án sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp, bao gồm trách
nhiệm và thẩm quyền cách thức tổ chức thực hiện; sửa đổi, bổ sung, gia hạn thời hạn thực
hiện hoặc thay đổi phương án.
Thứ ba, đối với phương án giải thể TCTD được kiểm soát đặc biệt, Luật Các
TCTD sửa đổi 2017 quy định trường hợp, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương giải thể
bắt buộc đối với TCTD không có khả năng phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng

toàn bộ cổ phần, phần vốn góp và có đủ điều kiện giải thể. Trong trường hợp TCTD được
kiểm soát đặc biệt không đủ điều kiện để thực hiện biện pháp giải thể thì TCTD được
kiểm soát đặc biệt phải thực hiện thủ tục phá sản theo quy định của Luật.
Thứ tư, đối với phương án chuyển giao bắt buộc, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã
bổ sung các quy định cụ thể về đối tượng chuyển giao, nhận chuyển giao, điều kiện nhận
chuyển giao, trình tự xây dựng, phê duyệt, nội dung phương án và tổ chức thực hiện
phương án chuyển giao bắt buộc để thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc. Trong đó,
đối tượng chuyển giao chỉ bao gồm Ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt, bên
nhận chuyển giao là TCTD hoặc nhà đầu tư khác đề nghị được nhận chuyển giao. Điều
kiện nhận chuyển giao bắt buộc bao gồm: (i) Khi ngân hàng thương mại không xây dựng
hoặc không được phê duyệt hoặc hết thời hạn thực hiện phương án phục hồi, sáp nhập,
hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp mà không phục hồi, sáp nhập,
hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp được hoặc NHNN xét thấy ngân
hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt không có khả năng phục hồi theo phương án đã
được phê duyệt; (ii) giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ở mức âm; (iii) Có đề
nghị của bên nhận chuyển giao.
Luật Các TCTD sửa đổi 2017 cũng quy định cụ thể về điều kiện và quyền của bên
nhận chuyển giao, các biện pháp hỗ trợ phục hồi cho ngân hàng thương mại được kiểm
soát đặc biệt được chuyển giao bắt buộc; quy định về xử lý cổ phần, phần vốn góp vượt

17


giới hạn quy định và xử lý pháp nhân đối với ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc
biệt sau chuyển giao bắt buộc.
Thứ năm, đối với phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt, khắc phục bất
cập, vướng mắc đã nảy sinh trước đây tại Luật Các TCTD 2010 và Luật phá sản 2014,
Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã hoàn thiện thêm một bước các quy định về phá sản
TCTD yếu kém, cụ thể quy định đầy đủ hơn về trường hợp, trình tự, thủ tục phê duyệt,
nội dung phương án phá sản. Về nội dung phương án phá sản gồm: (i) Đánh giá thực

trạng và quá trình xử lý TCTD được kiểm soát đặc biệt được quyết định chủ trương phá
sản; (ii) Đánh giá tác động của việc thực hiện phương án phá sản TCTD được kiểm soát
đặc biệt đối với sự an toàn của hệ thống TCTD; (iii) Phương án chi trả tiền gửi của khách
hàng là cá nhân; (iv) Lộ trình thực hiện và trách nhiệm triển khai phương án phá sản.
Để bảo đảm tổ chức thực hiện phương án, Luật quy định về trách nhiệm chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát thực hiện phương án cũng như thẩm quyền và cách thức sửa đổi, bổ
sung phương án phá sản. Việc thực hiện phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt được áp
dụng theo quy định hiện hành của pháp luật về phá sản TCTD. Trong quá trình cơ cấu lại
TCTD yếu kém, quan điểm nhất quán là phải bảo đảm các mục tiêu giữ vững sự ổn định,
an toàn của hệ thống TCTD, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin của người
gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Do
vậy, về cơ bản, trong các phương án nêu trên, phương án phục hồi, bán, chuyển nhượng
cho nhà đầu tư mới là các phương án luôn được ưu tiên áp dụng; phương án phá sản chỉ
được xem xét áp dụng như là phương án sau cùng và việc áp dụng phương án này phải
bảo đảm tuân thủ nguyên tắc nêu trên.
1.6. Về quy định chuyển tiếp
Để tạo lập khuôn khổ pháp lý cho việc xử lý các NHTM đã mua bắt buộc trước
đây, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 đã bổ sung quy định chuyển tiếp quy định về cơ chế xử
lý trong trường hợp sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế, xây dựng mới phương án xử lý ngân
hàng thương mại đã mua bắt buộc và các nguyên tắc thực hiện việc chuyển nhượng các
ngân hàng trên cho TCTD, nhà đầu tư khác; quy định chuyển tiếp do thay đổi điều kiện về

18


tiêu chuẩn người quản trị, điều hành của TCTD, các hạn chế về cấp tín dụng và xử lý
chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt mức theo quy định của Luật này.
Với các nội dung nêu trên, Luật Các TCTD sửa đổi 2017 cùng với Nghị quyết
42/2017/QH14 là giải pháp quan trọng cho việc thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống
TCTD gắn với nợ xấu, đặc biệt là các NHTM

Phương án “phá sản” ngân hàng, đã được đề cập trong Luật các TCTD năm 2007
và được làm rõ hơn trong Luật các TCTD sửa đổi. Đây được coi là phương án cuối cùng
sau khi các phương án khác không thành công như: Phương án phục hồi; Phương án sáp
nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp; Phương án giải thể;
Phương án chuyển giao bắt buộc.
Các giải pháp hỗ trợ cho các TCTD yếu kém cũng được định hướng rõ nét hơn.
Luật các TCTD sửa đổi bổ sung có giải pháp hỗ trợ các TCTD yếu kém như: cho bán nợ
cho Công ty quản lý tài sản VAMC, trích lập dự phòng.
Các TCTD được mua bắt buộc có thể bán nợ xấu không có tài sản bảo đảm hoặc
nợ xấu có tài sản bảo đảm mà tài sản bảo đảm đang bị kê biên, không có hồ sơ, giấy tờ
hợp lệ cho tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử
lý nợ xấu của tổ chức tín dụng… được đảm bảo minh bạch.
Luật TCTD sửa đổi cũng đã bỏ nhiều quy định mang cơ chế “xin – cho” mà thay
vào đó là gửi thông báo tới NHNN.
2. Thực trạng áp dụng luật các TCTD năm 2017 tại các NHTMCP
Trong khi áp dụng luật các TCTD năm 2017 vào quản trị, mỗi Ngân hàng thương
mại có những phương pháp khác nhau, phù hợp với tình hình thực tế của ngân hàng đó.
Nhưng có thể thấy ngay một số vẫn đề đã được làm rõ và thực hiện tại hiệu quả trong quá
trình quản trị Ngân hàng, cụ thể như sau:
2.1 Xác định trách nhiệm trong xử lý tình trạng ngân hàng lỗ, yếu kém
2.1.1 Thế nào là tình trạng ngân hàng lỗ, yếu kém

19


Thuật ngữ “TCTD yếu kém” được sử dụng rộng rãi trong quá trình tái cơ cấu
TCTD, trong đó có ngân hàng thương mại (NHTM). Có thể hiểu, sự “yếu kém” của ngân
hàng là kinh doanh thua lỗ, mất vốn và khả năng quản lý kém của người quản lý, điều
hành. Sự tồn tại các ngân hàng “yếu kém” nếu không xử lý kịp thời sẽ là nguyên nhân gây
sụp đổ hệ thống tài chính của nền kinh tế.

Tình trạng lỗ của ngân hàng thông thường được hiểu là tình trạng doanh thu từ
hoạt động ngân hàng bao gồm lãi suất cho vay, lợi nhuận đầu tư, các khoản phí thu
được… không đủ để trang trải các chi phí vay vốn, chi phí quản lý, chi phí đầu tư, chi phí
dự phòng và các chi phí khác. Trên thực tế, tình trạng lỗ của ngân hàng thường gắn với
việc phải hạch toán các khoản nợ xấu - khoản nợ cho vay không có khả năng thu hồi.
Từ góc độ quản lý tài chính trong nội bộ ngân hàng, các cơ quan trong tổ chức nội
bộ có trách nhiệm bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh bằng tuân thủ các quy
định của pháp luật ngân hàng trong hoạt động huy động vốn, cho vay và đầu tư… Do hoạt
động huy động và cho vay liên tục, nên hơn ai hết, người quản lý, điều hành có liên quan
của ngân hàng là người có thể nắm bắt được thông tin liên quan đến lỗ, lãi thông qua quản
lý từng dự án cho vay tại một phòng giao dịch, trong một chi nhánh và toàn bộ hệ thống
ngân hàng trước khi kết quả kinh doanh được ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán vào cuối
năm tài chính. Với trách nhiệm quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh theo Luật
TCTD, cơ quan quản lý, điều hành của ngân hàng phải đưa ra những biện pháp kịp thời
hạn chế những rủi ro là nguyên nhân phát sinh nợ xấu và cắt giảm chi phí cần thiết để duy
trì hoạt động ngân hàng kinh doanh an toàn và có lãi.
2.1.2 “Kiểm soát đặc biệt” nhằm xử lý ngân hàng lỗ, yếu kém
Luật TCTD đề cập tình trạng lỗ, yếu kém của TCTD tại quy định về “kiểm soát
đặc biệt”. Theo Khoản 1 Điều 146 “kiểm soát đặc biệt” là việc một TCTD bị đặt dưới sự
kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) do có nguy cơ mất khả năng chi
trả, mất khả năng thanh toán. Có nghĩa là tình trạng giao dịch có liên quan đến khoản nợ
không được thu hồi và mất khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn cho người gửi tiền.
Biện pháp này được thực hiện khi TCTD lâm vào tình trạng: (i) Có nguy cơ mất
khả năng chi trả; (ii) Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng
20


thanh toán; (iii) Khi số lỗ lũy kế của TCTD lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và
các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất; (iv) Hai năm liên
tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của NHNN; (v) Không duy trì được tỷ lệ an toàn

vốn tối thiểu quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 130 của Luật TCTD trong thời hạn một
năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 06 tháng liên tục.
Phải khẳng định chế định về “kiểm soát đặc biệt” trong Luật TCTD là cơ sở pháp
lý để NHNN trực tiếp kiểm soát NHTM lỗ, yếu kém. Tuy nhiên, xét về nguyên tắc tự chịu
trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói
riêng thì xử lý ngân hàng lỗ và yếu kém - ngay từ đầu đã không phải là trách nhiệm của
NHNN, của Chính phủ mà là của chính bản thân ngân hàng. Bởi lẽ nếu ngân hàng không
khẳng định uy tín trong hoạt động quản lý tiền gửi, cho vay và đầu tư thì ngân hàng
không thể huy động nhận tiền gửi để cho vay - vốn dĩ là hoạt động cố hữu của ngân hàng.
Đây cũng là một trong những điều kiện cơ bản để ngân hàng được cấp phép thành lập nhu cầu về hoạt động ngân hàng và bảo đảm an toàn.
Có thể nói rằng, khi ngân hàng lâm vào tình trạng “kiểm soát đặc biệt” thì NHNN
có trách nhiệm hỗ trợ với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành nhằm hỗ trợ
ngân hàng phục hồi hoạt động kinh doanh, khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán,
mất khả năng chi trả. Còn quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của NHNN trong kiểm
soát đặc biệt ngân hàng yếu kém thực chất nhằm củng cố niềm tin cho người gửi tiền
bằng sự can thiệp kịp thời của Nhà nước nhằm bảo vệ người gửi tiền và sự ổn định của hệ
thống tài chính.
Vấn đề đặt ra là sẽ phải lựa chọn cách thức nào để cải thiện và phục hồi hoạt động
kinh doanh ngân hàng có hiệu quả. Thông thường, ở các nước trên thế giới, các biện pháp
tái cơ cấu ngân hàng được thực hiện bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua bán. Đây là các
hình thức tổ chức lại công ty theo Luật Công ty. Ngoài ra, Chính phủ có thể quyết định
quốc hữu hóa có thời hạn ngân hàng hoặc trao trách nhiệm cho cơ quan bảo hiểm tiền gửi
tham gia quá trình tái cơ cấu ngân hàng.
2.2 . Trách nhiệm của các chủ thể trong xử lý ngân hàng lỗ, yếu kém
2.2.1 Trách nhiệm của người quản lý, điều hành ngân hàng
21


×