Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Vấn đề tiếp cận thông tin báo chí qua mạng xã hội của giới trẻ hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ MINH THU

VẤN ĐỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN BÁO CHÍ
QUA MẠNG XÃ HỘI CỦA GIỚI TRẺ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH BÁO CHÍ

Hà Nội - 2017

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ MINH THU

VẤN ĐỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN BÁO CHÍ
QUA MẠNG XÃ HỘI CỦA GIỚI TRẺ HẢI PHÒNG

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60320101

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Đỗ Anh Đức

Hà Nội - 2017



2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ “Vấn đề tiếp cận thông tin báo chí qua
mạng xã hội của giới trẻ Hải Phòng” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của Tiến sĩ Đỗ Anh Đức, Giảng viên Khoa Báo chí và Truyền thông,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều do tôi thực hiện hoặc tập hợp
từ các nguồn khác và được ghi rõ xuất xứ.
Hà Nội, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Thu

3


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, các Thày, Cô giáo của Khoa Báo chí và
Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội đã truyền dạy cho tôi kiến thức, kỹ năng học tập, nghiên cứu khoa học.
Tôi trân trọng cảm ơn sự chia sẻ quý báu này.
Khi thực hiện luận văn, tôi được Tiến sĩ Đỗ Anh Đức chỉ bảo tận tình các
bước khảo sát công chúng, tập hợp, đánh giá kết quả; cách tổ chức, trình bày
luận văn khoa học. Tôi vô cùng biết ơn Thày.
Tôi còn nhận được sự giúp đỡ của Phó Tổng Biên tập báo điện tử
Vietnamnet Lê Thế Vinh, Phó Tổng Biên tập Báo Hải Phòng Lê Thị Quỳnh,
Bí thư Đoàn Trường Đại học Hàng Hải Việt Nam Nguyễn Vương Thịnh, Bí

thư Đoàn Trường Đại học Hải Phòng Nguyễn Quang Đạt cùng nhiều bạn sinh
viên của hai trường Đại học Hàng Hải Việt Nam, Đại học Hải Phòng. Các anh
chị, các bạn đã khích lệ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Do hạn chế về kinh nghiệm, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Tôi kính mong nhận được sự góp ý của các thày cô cũng như các bạn để bổ sung,
hoàn thiện luận văn tốt hơn và tiếp tục theo đuổi công việc nghiên cứu, học tập!
Tôi chân thành cảm ơn!

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................7
1. Lý do lựa chọn đề tài........................................................................................7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................10
2.1. Những công trình nghiên cứu của thế giới về Facebook và tiếp cận
thông tin báo chí qua mạng xã hội..................................................................10
2.2. Nghiên cứu về báo chí và sử dụng mạng xã hội tại Việt nam...................11
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................14
3.1. Mục đích nghiên cứu...................................................................................14
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................14
4.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................14

4.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................14
4.2.Phạm vi nghiên cứu của đề tài.....................................................................14
5.

Phương pháp nghiên cứu...........................................................................15


5.1. Cơ sở lý luận.................................................................................................15
5.2. Phương pháp nghiên cứu công cụ..............................................................15
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.........................................................16
6.1. Ý nghĩa lý luận.............................................................................................16
6.2. Ý nghĩa thực tiễn..........................................................................................16
PHẦN NỘI DUNG LUẬN VĂN.......................................................................18
Chương 1: HỆ THỐNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRUYỀN
THÔNG, BÁO CHÍ, MẠNG XÃ HỘI VÀ GIỚI TRẺ...................................18
1.1. Lý luận chung về thông tin báo chí và mạng xã hội.................................18
1.2. Hệ thống lý thuyết về công chúng, nghiên cứu công chúng...................28
Chương 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG FACEBOOK ĐỂ TIẾP CẬN..........42
THÔNG TIN BÁO CHÍ CỦA GIỚI TRẺ HẢI PHÒNG...............................42

5


2.1. Thế mạnh của Hải Phòng về kinh tế- xã hội- công nghệ thông tin.........42
2.2. Chân dung công chúng trẻ Hải Phòng......................................................44
2.3. Thói quen sử dụng mạng xã hội để tiếp cận thông tin báo chí qua kết
quả khảo sát bằng bảng hỏi...............................................................................48
2.4. Nội dung hấp dẫn là yếu tố quyết định hành vi chia sẻ thông tin báo chí
qua mạng xã hội.................................................................................................67
Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN BÁO
CHÍ TRONG VIỆC QUẢNG BÁ TIN TỨC PHÙ HỢP VỚI........................72
NHU CẦU CỦA GIỚI TRẺ..............................................................................72
3.1. Kinh nghiệm tiếp cận công chúng của một số cơ quan báo chí được
khảo sát...............................................................................................................72
3.2. Nhìn lại những vấn đề lý thuyết tiếp cận công chúng..............................79
3.3. Những giải pháp tiếp cận công chúng trẻ hiệu quả.................................81

KẾT LUẬN.........................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................91
PHỤ LỤC.............................................................................................................96

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Internet ra đời tạo ra cơ hội cho con người tiếp cận thông tin nhanh và
rộng khắp. Nhờ có đường truyền internet, chúng ta có thể đọc báo mạng điện tử,
xem truyền hình và nghe phát thanh trực tuyến, tiếp cận tin tức qua mạng xã hội.
Khi mạng xã hội hình thành, phát triển, công chúng có một kênh tiếp cận
và tương tác thông tin nhanh, hiệu quả hơn các phương tiện truyền thông đại
chúng khác. Nhiều nghiên cứu chỉ ra, nhóm người trong độ tuổi thanh niên dần
hình thành thói quen đọc báo trên mạng xã hội. Các cơ quan báo chí cũng đã sử
dụng mạng xã hội như một kênh kết nối với công chúng.
Vậy mạng xã hội tác động đến cách thức tiếp cận thông tin của công
chúng trẻ như thế nào? Tin tức báo chí chia sẻ trên mạng xã hội có thay thế cách
thức truyền thông thông qua báo in phát thanh, truyền hình, báo điện tử? Các cơ
quan báo chí cần có chiến lược gì để thu hút công chúng trong bối cảnh truyền
thông xã hội phát triển như hiện nay? Đó chính là lý do tác giả chọn đề tài: “Vấn
đề tiếp cận thông tin báo chí qua mạng xã hội của giới trẻ Hải Phòng”.
Tuy hình thành, phát triển khoảng 20 năm, nhưng mạng xã hội đã trở
thành kênh thông truyền thông có tốc độ phát triển nhanh nhất. Đài phát thanh
mất 38 năm, ti vi mất 20 năm, internet mất 7 năm để trở nên phổ biến. Còn
Facebook chỉ mất có 2 năm [19]. Tại Việt Nam, mạng xã hội chưa được Luật
Báo chí công nhận song quan điểm chung của Chính phủ là tạo điều kiện cho
báo chí, mạng xã hội phát triển gắn với quản lý cương quyết. Ngày 17/11/2017,
tại phần giải trình trong phiên chất vấn của Quốc hội về vấn đề thông tin và

truyền thông, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam thông tin: “Hiện trên thế giới có 7,5
tỷ người thì 52% dùng internet và 42% số đó dùng mạng xã hội. Ở Việt Nam,
con số lần lượt là gần 70% và 60%. Với số lượng người dùng lớn nhưng thị

7


trường internet ở Việt Nam lại gần như "của các công ty nước ngoài", với tỷ lệ từ
trên 80% sử dụng dịch vụ của Google, Facebook, Yahoo. Thị trường quảng cáo
trực tuyến năm qua là 350 triệu USD, Facebook và Youtube chiếm 80%”. [51]
Những con số Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nêu đã nói lên bức tranh
chung của sự phát triển mạng xã hội. Có nhiều mạng xã hội khác nhau nhưng
hiện tại, Facebook có số lượng người sử dụng lớn nhất trên thế giới. Mark
Zuckerberg, CEO Facebook, cho biết mạng xã hội lớn nhất thế giới đã thu hút
1,9 tỷ thành viên, trong đó có tới 1,2 tỷ người dùng tích cực mỗi ngày.[43]
Một thống kê khác cũng báo cáo về số lượng người sử dụng Facebook tại
Việt Nam. Theo đó, nước ta có 45 triệu người dùng Facebook hoạt động hàng
tháng, đồng nghĩa với việc gần 1/2 dân số tại Việt Nam (92 triệu người) sở hữu
tài khoản Facebook. Trong số đó, 21 triệu người dùng Facebook tại Việt Nam
truy cập hàng ngày vào mạng xã hội này thông qua thiết bị di động. Việt Nam là
quốc gia có lượng người dùng lớn thứ 3 tại khu vực Đông Nam Á, sau Indonesia
(82 triệu người) và Thái Lan (37 triệu người). ¾ người sử dụng Facebook tại Việt
Nam trong độ tuổi từ 18- 34.
Người ta dùng Facebook để làm gì? Họ cập nhật trạng thái, thích, bình
luận các bài viết người quen chia sẻ, tiếp cận thông tin đa chiều từ nhiều người.
Sử dụng Facebook để tiếp cận thông tin trên báo chí cũng đã trở thành thói quen
của không ít người dùng Facebook. Theo nhà báo Hồ Quang Lợi Hội nghị báo
chí Public ASEAN (Philippines) đưa ra báo cáo đáng lưu tâm: tỷ lệ truy cập các
trang web thông qua đường dẫn từ mạng xã hội lên đến 43%, tức là
gần phân nửa người đọc tiếp cận thông tin báo chí qua mạng xã hội, vượt lượng

truy cập trực tiếp vào các trang web đến 38%. [50]
Đó cũng là lý do, hiện nay, các cơ quan báo chí muốn tăng lượt xem,
lượt nghe đều phải đẩy nội dung lên trang mạng xã hội. Đây là một cách tiếp thị,

8


quảng bá sản phẩm báo chí, tăng độ lan tỏa đến người xem, người nghe nhiều
hơn (1 43% Hồ Quang Lợi). Một thông tin về cháy nhà, đụng xe nếu chỉ đăng
tải ở trang web của một tờ báo, nó không thể lan truyền nhanh nếu không được
dẫn link trên mạng xã hội và được cập nhật trên newsfeed. Nó phải được phân
phối theo kiểu đó đến từng người trong xã hội. [50]
Các cơ quan báo càng ngày càng tận dụng tối ưu lợi thế của mạng xã hội
nói chung, Facebook nói riêng. Tất cả các cơ quan báo chí từ lớn đến nhỏ đều lập
Fanpage trên Facebook như Báo Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền
hình Việt Nam, báo Tuổi trẻ, báo Thanh niên, báo điện tử www.vnexpress.net,
www.vietnamnet.vn... Khác hẳn với phong cách đưa tin truyền thống, Fanpage
của các cơ quan báo chí đều có ngôn ngữ, hình ảnh gần gũi, đời thường giống
cách thức con người hay chia sẻ trên mạng xã hội.
Phương tiện truyền thông thay đổi sẽ tạo ra cách thức, tiếp cận, trao đổi
thông tin thay đổi. Tiếp cận với báo in, phát thanh, truyền hình, công chúng thụ
động đón nhận. Với báo điện tử, công chúng tương tác nhiều hơn thông qua
phần phản hồi, bình luận. Tuy nhiên việc tương tác này cũng không thể nhanh,
ngay lập tức như khi tiếp cận thông tin trên mạng xã hội. Như vậy, ngoài yếu tố
quan trọng sử dụng phương tiện truyền thông hiệu quả, việc nắm bắt tâm lý tiếp
nhận thông tin sẽ phác họa chân dung công chúng rõ nét hơn, giúp quá trình
truyền thông đạt hiệu quả tốt hơn.
Công chúng có thói quen tiếp cận thông tin như thế nào? Điều này sẽ tùy
thuộc vào từng nhóm đối tượng. “Nhóm hộ nghèo có ít nhu cầu về thông tin hơn
so với nhóm hộ không nghèo ở tất cả các loại hình thông tin, trừ thông tin về

giáo dục và việc làm. Về mặt giới tính, dường như không thấy có sự khác biệt
lớn giữa nhóm nam và phụ nữ nhưng cũng chỉ ra rằng nam giới có xu hướng

9


quan tâm đến các thông tin chung, vĩ mô trong khi phụ nữ quan tâm đến các vấn
đề thực tiễn như giáo dục, lao động, việc làm”. [31] Với giới trẻ họ thích tiếp cận
các thông tin “về tình bạn, sự kiên nhẫn, sự thấu hiểu, được lắng nghe, sự an
toàn”. [60] Đây là những nội dung luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, làm rõ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nghiên cứu của thế giới về tiếp cận thông tin báo chí qua mạng
xã hội
Nhiều tổ chức, Trường Đại học trên thế giới đã nghiên cứu về mối liên hệ
giữa Facebook và báo chí, tốc độ chia sẻ thông tin trên báo chí qua Facebook,
tác động của mạng xã hội đến nguồn thu của cơ quan báo chí.
Công bố mới nhất của Pew Research về tiếp cận thông tin qua mạng xã
hội là “News Use Across Social Media Platforms 2017”. Theo nghiên cứu này,
2/3 giới trẻ Mỹ tiếp cận thông tin báo chí qua mạng xã hội với tần suất từ 2- 10
lần/ ngày. Riêng với Facebook, 45% giới trẻ Mỹ dùng mạng xã hội này để tiếp
cận thông tin. [59]
“The Facebook News Experience” (Kinh nghiệm mới về Facebook):
Nghiên cứu này chỉ ra độ tuổi tiếp cận Facebook nhiều nhất ở Mỹ là thanh thiếu
niên. 64% click vào các đường link được chia sẻ trên Facebook. 32% thảo luận
về những vấn đề bài báo đưa ra.
“Digital News Report 2017” (Báo cáo tin tức số năm 2017) [58] một
trong những nội dung của nghiên cứu này là cách tiếp cận tin tức qua mạng xã
hội của người tiêu dùng thuộc 36 nước khác nhau trên thế giới. Một trong những
nội dung quan trọng của nghiên cứu này là cách thức tiếp cận tin tức của công
chúng trên phương tiện truyền thông với các nền tảng khác như truyền thông xã

hội, tìm kiếm trực tuyến.

10


“I saw the news on Facebook” (Tôi đọc thông tin trên Facebook) của
Antonis Kalogeropoulos and Nic Newman nghiên cứu về sự quan tâm của công
chúng đối với thương hiệu của các cơ quan báo chí và chỉ ra, những người trẻ
tuổi dễ nhớ thương hiệu của tờ báo, chương trình họ tiếp cận qua mạng xã hội tốt
hơn so với người có tuổi. Khoảng một nửa số người được khảo sát cho biết, họ
có thể nhớ được tên chương trình hoặc sản phẩm truyền thông sau khi tìm kiếm
và tiếp cận tình cờ qua mạng xã hội.
“Cuốn sống sao trong thời đại số”[26] Eric Schmidt và Jared Cohen,
nhà sáng lập Google đã chỉ ra rất nhiều cơ hội, thách thức do cuộc cách mạng
số tác động tới. Trong chương 2 “Nhân quyền, quyền công dân và việc đưa tin
trong tương lai”, hai tác giả đã khẳng định, trong thập niên tới, dân số của thế
giới ảo sẽ vượt qua dân số trên trái đất. Gần như tất cả mọi người đều có nhiều
hơn một tài khoản trên mạng xã hội. Trong bối cảnh mỗi người đều nôn nóng
tìm đến những cái mới, muốn biết điều mới nhanh chóng nhất thì sự trung
thành của công chúng chỉ dành cho các hãng truyền thông chính thống dựa
vào các bài phân tích và quan điểm mà các hãng thông tin này cung cấp và
quan trọng nhất là lòng tin của họ đối với những cơ quan truyền thông này.
Hai tác giả cũng đã chỉ ra giải pháp để các cơ quan báo chí có thể tồn tại khi
mạng xã hội phổ biến và được đón nhận như một điều tất nhiên.
Dù khảo sát ở quy mô, các vùng lãnh thổ khác nhau nhưng kết quả của
những nghiên cứu trên đều khẳng định, Facebook là kênh tiếp cận tin tức phổ
biến trên thế giới. Giới trẻ thích đọc báo qua mạng xã hội hơn là việc truy cập
vào trang chủ của một cơ quan báo chí.
2.2. Nghiên cứu về báo chí và sử dụng mạng xã hội tại Việt nam
Đã có một số tác giả, nhóm tác giả nghiên cứu về mạng xã hội- báo chí và

công chúng.

11


Cuốn “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện đại” [2] của
Tiến sĩ Nguyễn Thành Lợi đã chỉ ra những thách thức với cơ quan báo chí khi
truyền thông xã hội lên ngôi, trong đó nhấn mạnh đến sự khác biệt trong sản xuất
thông tin và cách thức sản xuất thông tin của báo chí khi truyền thông xã hội
phát triển.
Cuốn “Báo chí và Mạng xã hội” do Tiến sĩ Đỗ Chí Nghĩa và Tiến sĩ Đinh
Thu Hằng biên soạn trả lời cho câu hỏi sự khác biệt giữa báo chí và mạng xã hội.
Đây là mối quan hệ có tác động hai chiều. Mạng xã hội giúp thông tin báo chí
được quảng bá rộng rãi thông qua các chia sẻ của các thành viên mạng xã hội.
Mạng xã hội cũng là một kênh phản biện thông tin của báo chí, kênh tương tác
giữa báo chí và độc giả. Bên cạnh đó mạng xã hội còn tác động đến cách thức
làm việc của nhà báo làm thay đổi quá trình làm báo truyền thống.
“Trao đổi thông tin trên mạng xã hội của giới trẻ Việt Nam từ năm 2010-2011,
thực trạng và giải pháp” do học viên Hoàng Thị Hải Yến thực hiện, Phó Giáo sư,
Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Thái hướng dẫn, thực hiện năm 2012. Nội dung chính của
luận văn là nghiên cứu sự tích cực, tiêu cực của giới trẻ khi sử dụng mạng xã hội.
“Báo điện tử với việc khai thác, sử dụng nguồn tin từ mạng xã hội” do học
viên cao học Nguyễn Thị Hằng thực hiện, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Hường
hướng dẫn, thực hiện năm 2014. Luận văn này nghiên cứu những ưu điểm, hạn
chế của báo chí trong khai thác thông tin trên 3 mạng xã hội là Yaohoo 360,
Cylworld Việt Nam và Vietspace
“Tác động của mạng xã hội đối với giới trẻ” do học viên Đặng Thị Thu Hoài
thực hiện, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Thị Thu Hương hướng dẫn, thực hiện năm
2014. Luận văn này nghiên cứu cách thức mạng xã hội ảnh hưởng đến giới trẻ và
cách thay đổi trong việc tiếp nhận tin tức của giới trẻ thông qua mạng xã hội.


12


“Sử dụng Facebook trong truyền thông của các tổ chức phi chính phủ tại Việt
Nam” do học viên Lê Thị An Sơn thực hiện, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị
Trường Giang hướng dẫn, thực hiện năm 2014. Luận văn tổng hợp, hệ thống lý
thuyết về truyền thông xã hội, mạng xã hội trong hoạt động truyền thông nói
chung, trong hoạt động truyền thông của tổ chức phi chính phủ nói riêng; Khảo
sát, phân tích và đánh giá về thực trạng sử dụng facebook trong hoạt động truyền
thông của các dự án/các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam (trên cơ sở khảo sát
một số tổ chức nhất định trên địa bàn Hà Nội); Đề xuất một số kiến nghị và giải
pháp nhằm nâng cao năng lực ứng dụng Facebook trong hoạt động truyền thông
của các tổ chức phi chính phủ.
“Tác động của mạng xã hội đối với văn hóa truyền thông” do học viên Phan Thị
Thu Ngân thực hiện, Tiến sĩ Nguyễn Thành Lợi hướng dẫn, thực hiện năm 2014.
Nghiên cứu về sự tác động của mạng xã hội tác động đến văn hóa truyền thông.
“Sử dụng mạng xã hội trong phát triển báo điện tử” (khảo sát báo
Vnexpress, Vietnamplus, VTCnews, khảo sát từ tháng 1/2013- 1/2014) do ho học
viên Hoàng Thị Kim Khánh thực hiện, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Thu Hằng
hướng dẫn, thực hiện năm 2015. Luận văn đề cập đến cách thức các cơ quan báo
chí sử dụng mạng xã hội trong việc xây dựng thương hiệu.
Trong các đề tài đã liên quan đến mạng xã hội đã được thực hiện thời gian
qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về mạng xã hội với công chúng, mối liên hệ
giữa mạng xã hội và báo chí, mối liên hệ giữa Facebook và báo chí, trong đó, đề
tài “Trao đổi thông tin trên mạng xã hội của giới trẻ Việt Nam” cũng gần gũi với
đề tài này. Tuy nhiên, thời điểm tác giả thực hiện cách đây đã 5 năm, khi đó mối liên hệ
giữa báo chí và mạng xã hội chưa có sự tương tác như hiện nay. Giới trẻ chủ yếu dùng
Facebook như một kênh để kết nối bạn bè, chia sẻ thông tin cá nhân, thể hiện bản thân
chứ chưa thực sự tìm đến mạng xã hội như một kênh tiếp cận thông tin báo chí.


13


Tại Hải Phòng, đến thời điểm này, chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu
về báo chí và mạng xã hội. Tác giả đã kế thừa kiến thức nền tảng, phương pháp
nghiên cứu của các nghiên cứu trước để triển khai luận văn đạt kết quả tốt.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tiếp cận
thông tin báo chí qua mạng xã hội; đo lường thói quen của giới trẻ Hải Phòng
trong sử dụng mạng xã hội để tiếp cận, chia sẻ thông tin từ báo chí; đánh giá
được sự ưu việt của mạng xã hội trong chia sẻ tin tức từ báo chí so với các
loại hình báo chí khác. Từ khảo sát này, đề tài mong muốn tham góp tới một
số cơ quan báo chí một số cách tiếp cận phù hợp với nhóm công chúng trẻ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về quản lý mạng xã
hội, quản lý nội dung chia sẻ thông tin báo chí trên mạng xã hội.
Điều tra xã hội học bằng bảng hỏi với 300 sinh viên, phỏng vấn nhóm 20
sinh viên, phỏng vấn sâu hai thủ lĩnh đoàn và lãnh đạo của hai cơ quan báo chí
để tìm hiểu về vấn đề tiếp cận thông tin báo chí qua mạng xã hội. Thông qua kết
quả nghiên cứu, tác giả phân tích, tổng hợp số liệu, ý kiến, đưa ra đánh giá nhu
cầu, thói quen tiếp cận thông tin báo chí trên mạng xã hội của nhóm công chúng
trẻ; đề xuất giải pháp để các cơ quan báo chí tăng khả năng tiếp cận công chúng
thông qua mạng xã hội.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là vấn đề tiếp cận thông tin báo
chí qua mạng xã hội của các giới trẻ Hải Phòng.
4.2.Phạm vi nghiên cứu của đề tài


14


Khảo sát thói quen tiếp nhận thông tin trên báo chí của sinh viên 2 trường
Đại học Hàng hải Việt Nam và Đại học Hải Phòng. Sinh viên là nhóm đối tượng
tiêu biểu trong giới trẻ vì họ có trình độ nhận thức, năng lực phán đoán, đánh giá.
Họ cũng là nhóm cần tiếp cận nhiều thông tin để phục vụ việc học tập, nghiên
cứu, giải trí.
Thời gian khảo sát từ 15/5/2017-15/6/2017
Có 10 tờ báo, trang thông tin điện tử và Fanapges được đưa vào khảo sát
mức độ tiếp cận thông tin của công chúng. Các tờ báo, các trang thông tin điện tử
này có chiến lược tiếp cận công chúng khác nhau, từ đó, luận văn tập trung đánh
giá vai trò của kênh truyền thông; mối liên hệ giữa kênh, người nhận và thông
điệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước
Việt Nam về vai trò, nhiệm vụ của báo chí; vấn đề báo chí, mạng xã hội. Đồng thời,
luận văn được nghiên cứu và phát triển dựa trên sự kế thừa hệ thống lý thuyết
truyền thông, số liệu về báo chí, mạng xã hội các công trình khác đã công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu công cụ
Sử dụng phiếu điều tra xã hội học: Luận văn khảo sát 300 bạn sinh viên về
sử dụng mạng xã hội để tiếp cận thông tin báo chí tại hai trường Đại học Hàng
hải Việt Nam và Đại học Hải Phòng thông qua phương pháp điều tra bằng bẳng
hỏi .
Sử dụng phương pháp phỏng vấn nhóm: Từ kết quả khảo sát qua 300 bảng
hỏi, tác giả đã lựa chọn 20 sinh viên có quan điểm, thái độ khác nhau về sử dụng
Facebook để tiếp cận báo chí, lý do họ tiếp cận, chia sẻ tin tức qua mạng xã hội.


15


Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu: Luận văn phỏng vấn sâu Bí thư
Đoàn Trường Đại học Hàng Hải Việt Nam, Đại học Hải Phòng để biết rõ hơn về
vai trò dẫn dắt, định hướng thông tin từ một tổ chức có uy tín có tác động đến
khả năng tiếp cận thông tin của sinh viên hay không? Ngoài ra, luận văn phỏng
vấn sâu Phó Tổng Biên tập Báo điện tử Vietnamnet, một tờ báo điện tử có lượng
truy cập hàng đầu của Việt Nam để tìm hiểu chiến lược của báo trong tiếp cận
nhóm công chúng trẻ thông qua Facebook; phỏng vấn Phó Tổng Biên tập Báo
Hải Phòng- cơ quan báo chí địa phương cũng để tìm hiểu chiến lược của cơ quan
báo chí này tiếp cận giới trẻ thông qua mạng xã hội.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng học thuyết nghiên cứu “Sử dụng và hài
lòng”, lý thuyết “Dòng chảy hai bước”, mô hình truyền thông của Harold
Laswell và Roman Jakobson để đánh giá được động cơ, nhu cầu và mục đích
tiếp nhận thông tin của nhóm công chúng trẻ.
Phương pháp cuối cùng đề tài sử dụng là nghiên cứu tổng hợp với mục
đích khái quát, đưa ra được nhận định ban đầu về những nội dung đã thực hiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài mong muốn làm rõ hơn về lý thuyết sử dụng và hài lòng. Đây là
yếu tố quan trọng hàng đầu trong thời đại cạnh tranh thông tin khốc liệt giữa các
loại hình báo chí, giữa báo chí và mạng xã hội. Công chúng là yếu tố quyết định
thành công của cơ quan báo chí. Bên cạnh đó, luận văn góp phần làm rõ hơn lý
thuyết sử dụng và hài lòng đứng từ góc độ người tiếp nhận thông tin, trong đó có
công chúng trẻ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

16



Thông qua nghiên cứu, đề tài đưa ra nhận định về nhu cầu, thói quen, sở
thích của sinh viên đối với việc tiếp nhận thông tin qua mạng xã hội.
Đề tài góp phần phác họa chân dung công chúng trẻ để các cơ quan báo
chí có thêm dữ liệu và xây dựng chiến lược tiếp cận công chúng phù hợp.

17


PHẦN NỘI DUNG LUẬN VĂN
Chương 1: HỆ THỐNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRUYỀN
THÔNG, BÁO CHÍ, MẠNG XÃ HỘI VÀ GIỚI TRẺ
1.1. Lý luận chung về thông tin báo chí và mạng xã hội
1.1.1 Thông tin
Thông tin là từ phổ biến trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đó có
thể là những nội dung giao tiếp thông thường giữa người này và người khác,
nhưng cũng có thể là những điều chúng ta tiếp nhận được từ đọc báo in, báo điện
tử, nghe đài, xem ti vi hoặc mạng xã hội. Đôi khi thông tin cũng nằm trong ngôn
ngữ cử chỉ của con người thông qua ánh mắt, giọng nói, ngữ điệu cơ thể hay gần
gũi hơn là trang phục. Những điều nói trên sẽ tạo ra nhận định, phán đoán giữa
người này và người khác, giữa con người và các sự vật hiện tượng xung quanh.
Có nhiều loại thông tin khác nhau như thông tin bằng chữ viết, thông tin
bằng hình ảnh. Khi Internet chưa ra đời, người ta chưa biết đến khái niệm thông
tin kỹ thuật số. Đây là dạng thông tin được tạo dựng dựa trên nền tảng công nghệ
và con người có thể tiếp cận thông tin số thông qua đường truyền Internet. Có
thể nói, Internet ra đời đã tạo ra cách tiếp cận thông tin hoàn toàn khác biệt. Nếu
trước người ta tiếp nhận thông tin một cách bị động, không được can thiệp vào
quá trình tạo ra thông tin thì hiện nay, mỗi cá nhân đều có thể trở thành một
thành tố của thông tin thông qua các bình luận trên báo điện tử hoặc mạng xã
hội.

1.1.2 Báo chí
Thông tin muốn truyền tải được phải có phương tiện. Xã hội càng phát
triển, nhu cầu thông tin ngày càng lớn và càng cần có nhiều công cụ, phương tiện
dành cho hoạt động này. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tạ Ngọc Tấn: “Loài người đã
trải qua quá trình phát triển lâu dài, trong quá trình phát triển đó, loài người đã

18


tạo ra cho mình các loại hình phương tiện truyền thông đại chúng khác nhau.
Mỗi loại hình phương tiện ruyền thông ra đời đều phản ánh trình độ phát triển
của thời đại và đáp ứng các nhu cầu giao tiếp trong xã hội trong thời kỳ lịch sử
đó.” Truyền thông đại chúng ra đời gắn liền với sự phát triển xã hội của con
người và bị chi phối trực tiếp bởi hai yếu tố là nhu cầu thông tin giao tiếp và kỹ
thuật- công nghệ truyền thông tin. Truyền thông đại chúng chỉ phát triển và
thực hiện được khi loài người phát minh ra các phương tiện in ấn, kỹ thuật
truyền phát sóng tín hiệu, máy thu thanh, thu hình, máy tính điện tử, cáp quang,
vệ tinh nhân tạo. Căn cứ vào tính chất kỹ thuật và phương thức thực hiện truyền
thông, người ta chia truyền thông đại chúng thành các loại hình khác nhau:
sách, báo in, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, internet, băng đĩa”.[7]
Như vậy, báo chí là một sản phẩm của truyền thông. Sự ra đời của báo chí
không thể tách rời tiến trình vận động chung của truyền thông. Từ thuở sơ khai, con
người chỉ trao đổi với nhau bằng lời nói, chữ viết, cử chỉ trên cơ thể. Khi nhu cầu
thông tin ngày càng lớn, các phương thức truyền thông khác ra đời.
“Báo in ở Châu Âu ra đời khoảng cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17. Từ những
sản phẩm ban đầu là các bản tin được rao bán trên đường phố, báo in nhanh
chóng phát triển và lan rộng sang cả châu Âu, sau đó là Bắc Mỹ. Trong thế kỷ 17
và thế kỷ 18, báo in được hoàn thiện với các loại hình đình kỳ vào thế kỷ 19”.
[7,tr 17-18). Báo in phát triển huy hoàng và trở thành sản phẩm không thể thiếu
hàng ngày của người dân tất cả các quốc gia trên thế giới trong suốt thế kỷ 20.

Sau báo in là phát thanh và truyền hình ra đời vào thập niên 1920-1930.
Hai loại hình truyền thông này đã tạo ra không gian truyền thông đại chúng, vượt
qua biên giới và các vùng lãnh thổ. Các thế mạnh của các loại hình báo in, phát
thanh, truyền hình được tích hợp lại khi một phương tiện truyền thông mới ra
đời, đó là internet. Sự xuất hiện của internet tạo ra các ấn phẩm truyền thông
điện tử gọi là báo điện tử.

19


Hiện nay chưa có định nghĩa thống nhất thế nào là báo chí. Giáo sư
Mitchell Stephans, Viện Arthur L. Carter, Đại học New York (Mỹ), tác giả của
nhiều cuốn sách chuyên khảo về báo chí được tái bản nhiều lần định nghĩa về
báo chí trong cuốn “Hơn cả tin tức” như sau: “Báo chí là hoạt động thu thập,
trình bày, diễn giải hoặc bình luận về tin tức cho một bộ phận công chúng”.
[21,tr.3]
Khi lấy ý kiến về dự thảo luật báo chí năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, một số đại biểu đề nghị cần phải làm rõ khái niệm báo chí là gì? Từ đó
mới xác định được hết các loại hình báo chí và các loại hình chứa đựng thông tin
báo chí đang tồn tại hiện nay và có các quy định điều chỉnh, quản lý phù hợp. [36]
Luật Báo chí sửa đổi được thông qua, trong phần giải thích từ ngữ, từ báo chí được
giải thích như sau: “Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời
sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản
định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình
báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử”.[50]
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Dững, Học viện Báo chí Tuyên
truyền: “Báo chí là môt bộ phận của truyền thông đại chúng, nhưng là bộ phận
chiếm vị trí trung tâm, vai trò nền tảng và có khả năng quyết định tính chất,
khuynh ướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động của truyền thông đại
chúng. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền

thông đại chúng; và ngược lại, nói đến truyền thông đại chúng - trước hết phải
nói đến báo chí. Báo chí là hiện tượng xã hội đa nghĩa, phức tạp và có nhiều
cách tiếp cận không giống nhau trong các xã hôi có thể chế chính trị khác
nhau.” [38]

20


1.1.3 Sự phát triển của internet
Thế giới đang bước vào cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4.
Cuộc cách mạng lần thứ nhất vào năm 1784 khi con người phát minh ra hơi nước
và đã làm thay đổi hoạt động của máy móc, giao thông. Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ 2 được đánh dấu từ năm 1870 khi con người phát minh ra động cơ
điện. Cuộc cách mạng này mang lại hiệu quả, hiệu suất lao động của con người
cao hơn so với phát minh ra máy hơi nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
3 từ 1969 xuất hiện khi con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, kết nối
thế giới liên lạc được với nhau. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại,
Internet… là những công nghệ hiện nay chúng ta thụ hưởng là từ cuộc cách
mạng này. Và cuối cùng là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4, bắt
đầu từ năm 2000, hay còn gọi là cách mạng số. Con người bắt đầu quen với mọi
thứ thông qua internet (internet of things), tương tác thực tế ảo, mạng xã hội.
Báo điện tử chỉ có thể ra đời khi có Internet. Có nhiều định nghĩa về báo
điện tử khác nhau. Song nhìn chung, báo điện tử chính là những tờ báo phát triển
trên môi trường mạng, tin tức được mã hóa thành các file từ âm thanh, ảnh đến
chữ viết. Khác với báo in, phát thanh hay truyền hình truyền thống, báo điện tử
cho phép quá trình làm báo thuận tiện hơn.
Tờ báo đầu tiên ra đời trên thế giới là tờ Chicago Tribune (ra đời tháng
5/1992) có máy chủ đặt tại nhà cung cấp dịch vụ American online. Cũng có tài
liệu cho rằng, tờ báo điện tử đầu tiên ra đời tháng 10/1993 tại Khoa Báo chí, Đại
học Florida, Mỹ.

Từ năm 1995, nhiều tờ báo ở Châu Á cũng xuất hiện trên mạng internet
như China Daily (Trung Quốc), Utusan (Malaysia), Kompas (Indonesia).
Tại Việt Nam, tờ báo điện tử đầu tiên xuất hiện trên internet ngày
31/12/1997 là Tạp chí Quê hương (Tạp chí của Ủy ban về người Việt Nam ở
nước

ngoài

trực

thuộc

Bộ

Ngoại

giao Việt

Nam)

với

địa

chỉ:

.

21



Đến ngày 21/6/1998, báo Nhân dân chính thức phát hành trên mạng
Internet. Và từ đó đến nay, số lượng báo điện tử đã phát triển nhanh chóng.
Cả nước hiện 105 báo, tạp chí điện tử (83 báo, tạp chí điện tử của cơ quan
báo chí in và 22 báo, tạp chí điện tử độc lập). Tổng cộng, có 248 trang thông tin
điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí.[6]
Từ khi khởi nguồn đến thời điểm hiện tại, báo điện tử đã có những thay
đổi cơ bản về phương thức đưa tin, cách thức tiếp cận công chúng, giao diện. Sự
ra đời của báo điện tử đã làm các loại hình báo chí như báo in, phát thanh, truyền
hình gặp những thách thức mới trong thu hút công chúng. Khi mạng xã hội hình
thành và phát triển, báo chí thêm một lần nữa tiếp tục phải thay đổi cách thức
hoạt động để phù hợp với môi trường truyền thông thay đổi. Như đã phân tích về
sự ra đời của mạng xã hội, có thể nói, mạng xã hội đã thay đổi cách thức tiếp cận
tin tức của con người, trong đó Facebook là một trường hợp điển hình.
Giai đoạn đầu, Facebook chỉ là một kênh kết nối bạn bè thông qua các dòng
trạng thái. Các trạng thái của Facebook đều bị giới hạn ký tự. Sau đó, Facebook tiếp
tục cải tiến các tính năng tăng cường sự tương tác, trao đổi, chia sẻ thông tin. Từ
mạng xã hội đơn thuần, Facebook đã trở thành công ty truyền thông có người sử
dụng tài khoản lớn nhất thế giới. Facebook không ngừng cải tiến các tính năng để
thu hút công chúng.
The Journal thống kê trong tháng 3/2015, bên cạnh lượt độc giả truy cập
trực tiếp thì 60% referral traffic của các báo lớn là đến từ Facebook (referral
traffic là lượt truy cập đến từ những nguồn website khác - như Facebook, blogs về website của mình thông qua một liên kết mà mình đã đặt trên site đó). Còn
theo nghiên cứu của Reuters, có đến 44% người dùng Facebook bấm vào các
đường link tin tức hiện trên trang chur của họ. Hiện Facebook đã hợp tác cùng

22


các hãng truyền thông BBC News, The Guardian, National Geographic, NBC,

The New York Times, Spiegel, The Atlantic, Bild và BuzzFeed. [54]
Theo một báo các khác liên quan đến việc sử dụng Facebook để tiếp cận tin
tức: “44% số người tại 26 quốc gia trên thế giới tham gia cuộc khảo sát gần đây
của Viện Nghiên cứu Báo chí Reuters thuộc Đại học Oxford cho biết họ coi
Facebook là nguồn tin chủ yếu.
Tỷ lệ cho báo giảm xuống là 24%. Các nền tảng thuộc sở hữu của
Facebook – bao gồm cả Instagram, Messenger và WhatsApp –  tiếp cận tới 86%
người dùng Internet trong độ tuổi từ 16 đến 64 tại 33 quốc gia trong khảo sát của
GlobalWebIndex”. Facebook đã trở thành kênh tiếp cận thông tin của nhiều độc
giả. Theo điều tra của Pew Research Center thì phần lớn người Mỹ trưởng thành
đều dùng Facebook, và phần lớn số này đều thường xuyên lấy tin tức từ
Facebook. Khoảng 40% người trưởng thành ở Mỹ coi Facebook như một nguồn
tin.
Các cơ quan báo chí, vốn đã bị suy yếu vì mất độc giả và doanh thu, nhận
thấy tỷ lệ truy cập website tăng lên từ các nền tảng truyền thông tự động như
Facebook, Google, Snapchat, Instagram, Apple News, và các ứng dụng trung gian
khác. Farhad Manjoo của tờ New York Times đã mô tả rất kỹ tình trạng này trong
cuốn sách với tựa đề “Năm kẻ đáng sợ thống trị đời sống digital trong tương lai
trước mắt,” còn Tiến sỹ Adam Fraser thuộc Echo Junction (Australia) cũng đề cập
trong cuốn “Tương lai dường như thuộc về Facebook và Google.”[54]
Như vậy, khi phương tiện truyền thông thay đổi, cách thức tiếp cận và tạo ra
tin tức cũng thay đổi. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Mai Quỳnh Nam gọi đây là mối quan hệ
biện chứng giữa báo chí và công chúng. “Một mặt các phương tiện truyền thông đại
chúng nhằm thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng của công chúng, mặt khác,
bản thân công chúng lại đặt ra các yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống báo
chí”. (Xã hội học số 1, trang 53, 1996)

23



1.1.4. Mạng xã hội
Trong cuốn “Tốc độ tư duy”, xuất bản năm 1999, nhà sáng lập tập đoàn
Microsoff Bill Gates đã dự đoán các trang web riêng tư dành cho những người bạn
và thành viên của gia đình bạn sẽ trở nên phổ biến, cho phép chúng ta trò chuyện và
lên kế hoạch cho các sự kiện. [46]
Bill Gates đã không hiện thực hóa ý tưởng của mình cho đến khi tập đoàn
Yahoo được thành lập vào ngày 2/3/1995. Sau khi phát triển mạnh công cụ tìm
kiếm, năm 2005, Yohoo khởi tạo Yahoo Blog. Một hình thức blog cá nhân xuất
hiện đánh dấu giai đoạn sơ khai của mạng xã hội. Cùng thời điểm này, một
chàng sinh viên Đại học Havard là Mark Zuckerberg đã thành lập mạng
TheFacebook (tiền thân của mạng xã hội Facebook) để kết nối các sinh viên
trong trường. Đến thời điểm hiện nay, Facebook đã trở thành mạng xã hội có
nhiều người dùng nhất hành tinh với khoảng 1,9 tỷ người.
Ngoài Facebook còn có nhiều mạng xã hội nổi tiếng. Twitter được sử
dụng nhiều nhất ở Mỹ và là mạng xã hội cạnh tranh trực tiếp với Facebook.
Twitter ra đời năm 2006. Khác với các mạng xã hội khác cho phép người dùng
đăng tải nhiều ký tự, Twitter khống chế mỗi một lần đăng không quá 150 ký tự.
Nội dung của Twitter tập trung thông báo ai, cái gì, ở đâu. Tuy nhiên, so với
Facebook, mạng xã hội Twitter không được người Việt Nam sử dụng nhiều như
ở một số quốc gia khác.
Trong lịch sử phát triển mạng xã hội, Google là cái tên rất quen thuộc.
Google cũng có mạng xã hội Google plus và kênh video nổi tiếng Youtube,
chuyên về đăng tải các video, hình ảnh.
Zalo là mạng xã hội thuần Việt, được phát triển bởi đội ngũ kỹ sư của
công ty VNG. Phiên bản đầu tiên được ra mắt vào ngày 08/08/2012, hiện có
khoảng 70 triệu người dùng. Với Zalo, nhắn tin miễn phí trên điện thoại di động

24



không chỉ là text mà còn là những hình ngộ nghĩnh mà người dùng có thể tự vẽ
để gửi cho người nhận.Tính năng nhắn tin bằng giọng nói với tốc độ cực nhanh
cũng là điểm nổi bật ở Zalo mà các ứng dụng nước ngoài không cạnh tranh
được . Sản phẩm tốt, cộng với các tính năng bản địa đặc thù đã giúp Zalo trở
thành mạng xã hội thuần Việt có người sử dụng nhiều nhất hiện nay trên điện
thoại thông minh.
Mỗi một mạng xã hội lại tập trung vào thế mạnh riêng, nhưng mục đích
chung của chúng là tăng tính kết nối, tương tác. Nếu trước đây, mỗi người phải
chờ cả ngày dài mới được đón nhận tin tức hấp dẫn trên báo in hoặc các bản tin
thời sự thì ở thời điểm hiện tại, mọi thông tin đều xuất hiện trên Facebook và các
trang mạng xã hội khác. Do khả năng đăng tải, chia sẻ, phản hồi không cần kiểm
duyệt đối với những tài khoản mạng xã hội cá nhân, thông tin trên mạng xã hội
nói chung, Facebook nói riêng đã tạo nên sự liên kết, chia sẻ, tương tác mạnh
mẽ.
Vậy mạng xã hội là gì? Một số tác giả đều khẳng định, mạng xã hội là một
nhánh của truyền thông xã hội. Theo Nguyễn Khắc Giang, Đại học Aarhus (Đan
Mạch) và ĐH Thành phố London (Anh Quốc): “Truyền thông xã hội là hệ thống
thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung
cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo
trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia
sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác”. [39]
Theo tác giả Nguyễn Thành Lợi: “Truyền thông xã hội là phương thức
truyền thông mới, mang tính tương tác, đa cấp độ, đa phương tiện, đặc biệt công
chúng vừa là người tiếp nhận, vừa là chủ thể sáng tạo và truyền phát thông tin.
Nếu nhìn từ đời sống truyền thông hiện nay, có thể nhận thấy truyền thông xã hội
vận hành thông qua một số hình thức chính như: Các mạng xã hội (social

25



×