Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

NGHIÊN cứu HAI PHƯƠNG PHÁP sản XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG dư và vận DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP, hóa, HIỆN đại hóa ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.24 KB, 12 trang )

Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, cũng có nghĩa là chúng ta nghiên cứu học
thuyết giữ vị trí “hòn đá tảng” trong toàn bộ lý luận kinh tế của C. Mác, một trong những phát
hiện vĩ đại của C. Mác, làm sáng tỏ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Kể từ khi học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác ra đời đến nay, thế giới đã có những biến đổi
sâu sắc. Rất nhiều sự kiện đã khẳng định tính đúng đắn của những kết luận rút ra từ học
thuyết giá trị thặng dư như: sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực, phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa, … Nhờ có
học thuyết giá trị thặng dư mà toàn bộ bức màn đằng sau ẩn chứa bản chất của hoạt động sản
xuất tư bản chủ nghĩa được vén lên, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một
cách chính xác, mà trong đó, hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Hai phương pháp này
được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để tích lũy và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội
tư bản ngày càng phát triển.
Do vậy, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cùng với tính thực tiễn của nó có ý nghĩa
vô cùng quan trọng là điểm mấu chốt dẫn đến những vấn đề khác trong sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Vì vậy, em chọn vấn đề “NGHIÊN CỨU HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ VÀ VẬN DỤNG TRONG QUẤ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở NƯỚC TA” cho bài tiểu luận của em. Bài tiểu luận nhằm đi sâu phân tích, nghiên cứu
hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và cách thức vận dụng chúng vào thực tiễn sản
xuất, đặc biệt là ở Việt Nam.


NỘI DUNG
1:

NGHIÊN CỨU VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1.1.
Cơ sở lý luận của giá trị thặng dư
1.1.1. Học thuyết về giá trị thặng dư


Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến lớn nhất mà Mác đã đóng góp cho
nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên
nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay.
Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá C.
Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng: trong quá trình sản xuất hàng hoá lao động cụ
thể của công nhân chuyển giá trị của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản phẩm, đồng
thời lao động trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn giá trị sức
lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngoài khoản bù lại giá trị sức lao động,
C. Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Công nhân chỉ được tiếp tục làm
thuê chừng nào còn tạo ra được khối lượng giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động mà nhà tư
bản đã trả cho người đó dưới hình thức tiền công.

1.1.2.

Khái niệm giá trị thặng dư

Theo học thuyết Giá trị thặng dư, ta có thể rút ra khái niệm của giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá điểm mà ở
đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng vật ngang giá mới.
Giá trị thặng dư là mục tiêu tất yếu của các nhà tư bản, là điều kiện tồn tại và phát triển của tư
bản vì xét đến cùng, hoạt động kinh doanh luôn hướng đến mục tiêu thu về lợi nhuận. Nhà tư
bản giành một phần giá trị thặng dư này cho sự hưởng thụ, phần còn lại được tích luỹ để tái
sản xuất mở rộng. Khoản tích luỹ này lại trở thành điều kiện vật chất để thu hút thêm nhiều
gái trị thặng dư hơn nữa.

2



1.2.
Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các nhà tư bản dùng
nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có 2 phương
pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng
dư tương đối.

1.2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kĩ thuật còn thấp, tiến
bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của
công nhân.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư được tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt
quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động xã hôi, giá trị sức lao động và thời
gian lao động tất yếu ko thay đổi.
Suy ra, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động của người công nhân trong điều kiện thời gian
lao động tất yếu không đổi hoặc tăng cường độ lao động.
-

Ưu điểm:

Phương pháp đơn giản, không yêu cầu trình độ tay nghề của công nhân cao, có thể giải quyết
ổn thỏa vấn đề việc làm.
-

Nhược điểm:

Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày làm việc nhưng ngày lao động có giới hạn nhất
định:
Giới hạn trên do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Công nhân cần có thời

gian nghỉ ngơi để phục hồi sức lao động tuy nhiên một ngày theo tự nhiên chỉ có 24h, vậy nên
nếu kéo dài thời gian lao động có thể vấp phải sự đấu tranh phản kháng của giai cấp công
nhân.
Thêm nữa, thời gian lao động luôn phải lớn hơn thời gian lao động tất yếu để đảm bảo luôn
thu được giá trị thặng dư, suy ra, tồn tại giới hạn dưới.

3


1.2.2.

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp
phải cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa
phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tạo ra do rút ngắn thới gian lao động tất
yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư
lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ.
Suy ra, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư bằng cách tăng năng suất lao động xã hội dẫn đến việc rút ngắn thời thời gian lao
động tất yếu trong điều kiện ngày làm việc không đổi.
-

Ưu điểm:

Nâng cao tay nghề của công nhân đồng thời thúc đầy áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất,
tạo động lực thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát triển.

Giảm giá thành sản phẩm, gây tính cạnh tranh cao nhưng vẫn thu được giá trị thặng dư lớn và
không vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân.
-

Nhược điểm:

Tuy nâng cao tay nghề đội ngũ công nhân nhưng việc áp dụng máy móc khoa học kĩ thuật có
thể khiến tỉ lệ thất nghiệp tăng lên.

1.2.3.

Tương quan so sánh 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương
pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kĩ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương
đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao
động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua 3 giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ
công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư
tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với
nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa
tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao
4


động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay việc tự
động hóa sannr xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng
thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.

1.3.


Ý nghĩa của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

1.3.1.
-

Ý nghĩa đối với sản xuất
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là cơ sở vạch trần bản chất mọi phương
thức bóc lột tư bản thông qua bóc lột giá trị thặng dư trong xã hội. Thông qua hai
phương thức, có thể nhận biết chính xác cách thức bóc lột của giai cấp tư bản đối với
giai cấp công nhân và nguồn gốc của lợi nhuận mà nhà tư bản thu được (đó là giá trị

-

lao động bị nhà tư bản chiếm không).
Hai phương pháp được áp dụng một cách rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để tái tích
lũy và mở rộng sản xuất. Bằng việc vận dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư một cách linh hoạt trong hoạt động sản xuất, nhà tư bản có thể đưa ra các phương
án sản xuất tối đa hóa giá trị thặng dư thu được, đồng thời phát triển một cách ngày

-

càng tinh vi các phương thức bóc lột.
Nhằm tối đa hóa lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ không ngừng áp dụng công nghệ,
khoa học - kĩ thuật vào hoạt động sản xuất, kèm theo đó là yêu cầu trình độ tay nghề
công nhân cao. Các yếu tố trên tạo động lực thúc đẩy áp dụng công nghệ, khoa học kĩ thuật vào sản xuất và nâng cao mặt bằng chất lượng tay nghề của đội ngũ công
nhân.

1.3.2.
-


Ý nghĩa đối với xã hội
Việc liên tục áp dụng công nghệ vào sản xuất tạo động lực nghiên cứu phát triển công
nghệ, khoa học - kĩ thuật, thúc đẩy các ngành nghề có liên quan, đưa xã hội ngày một

-

hiện đại, văn minh
Việc theo đuổi mục đích lợi nhuận của nhà sản xuất khiến không chỉ gia tăng về sản
lượng và chất lượng sản phẩm mà còn hạ thấp giá thành, tạo thế cạnh tranh mạnh, thúc

-

đẩy nền kinh tế năng động, phát triển.
Hai phương thức sản xuất giá trị thặng dư làm sâu sắc thêm mâu thuẫn cơ bản trong xã
hội tư bản, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một hinh thái xã hội cao
hơn.

-

5


1:

VẬN DỤNG HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG

QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
1.4.


Tính thực tiễn của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

Trong thời đại ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ; giai cấp tư sản chủ yếu thực
hiện việc bóc lột những người lao động bằng hình thức bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Những người lao động làm thuê bị bóc lột ngày càng nhiều. Cái gọi là “trung lưu hoá” một số
bộ phận lao động làm thuê, về thực chất, cũng chỉ là một biểu hiện mới của sự bóc lột TBCN.
Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Thị trường lao động cũng có sự biến đổi
sâu sắc, sự di chuyển lao động từ nước này sang nước khác ngày càng tăng. Tác động quy luật
giá trị đối với thị trường này sẽ càng tăng lên mạnh mẽ và tác động đến GTTD. Sự chuyển
dịch mâu thuẫn giữa các quốc gia diễn ra mạnh mẽ, sự phân cực xã hội cũng biến đổi, do đó
điều kiện chín muồi về mâu thuẫn cũng sẽ không đều giữa các quốc gia.
Mặt khác trong điều kiện bành trướng thị trường của các công ty xuyên quốc gia thì GTTD
có những nét đặc thù và đặc biệt mang tính quốc tế cao. Sự phân phối GTTD trong điều kiện
quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra không chỉ ở trong điều kiện quốc gia mà cả trong phạm vi
quốc tế. Sự phân chia GTTD của Mác chủ yếu giới hạn trong các tập đoàn tư bản của một
quốc gia, bởi vì nhà nước hồi đó còn đứng ngoài quá trình kinh tế. Nhà nước mới sử dụng
quyền lực để “canh gác” cho các tư bản hoạt động, còn về cơ bản vẫn tuân thủ sự can thiệp
của bàn tay vô hình và thực hiện khẩu hiệu “để mặc cho người ta làm”. Do vậy Mác cho rằng
người công nhân làm thuê chỉ được hưởng phần tư bản khả biến chứ không tham gia vào phần
phân chia giá trị thặng dư. Ngày nay với sự điều tiết của nhà nước, “chế độ tham dự” đã có sự
thay đổi. Người công nhân đã được tham dự dù là một lượng rất nhỏ so với nhà tư bản về
phần GTTD thông qua quỹ phúc lợi xã hội và lợi tức cổ phần. Tuy nhiên với tỷ lệ nhỏ chưa
làm thay đổi về bản chất của GTTD phân chia. Trong quá trình phát triển của CNTB, sản xuất
ra GTTD được tiến hành thông qua nhiều phương pháp thích ứng với từng giai đoạn và trình
độ phát triển của LLSX, NSLĐ, tương quan lực lượng giữa các giai cấp, trong đó “sự sản xuất
ra GTTD tuyệt đối tạo thành cái cơ sở chung của chế độ TBCN và là điểm xuất phát của sự
sản xuất ra GTTD tương đối”. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện của CNTB và của GTTD
tương đối phải dựa trên cơ sở NSLĐ xã hội đạt tới một trình độ nhất định, cho phép ngày lao
động của người công nhân đã có thể chia làm hai phần: lao động tất yếu tạo ra giá trị ngang
bằng với giá trị nhà tư bản trả cho anh ta dưới hình thức tiền công – tiền lương hay giá cả lao

động và lao động thặng dư, tạo ra GTTD cho nhà tư bản để được nhà tư bản thuê. Khi năng
suất lao động còn thấp, thời gian lao động còn chiếm phần khá lớn, muốn có nhiều GTTD
CNTB phải kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động để bòn rút được nhiều lao động
6


không công của công nhân làm thuê. Nhưng phương thức bóc lột GTTD tuyệt đối, do bị hạn
chế cả về mặt tự nhiên – sinh lý, xã hội, GCTS không thể đáp ứng nhu cầu thu GTTD tối đa
của GCCN. Cho nên khi luật công xưởng được ban hành, CNTB không còn sử dụng phương
pháp bóc lột GTTD tuyệt đối như là phương pháp chủ yếu nữa. Khi đó, nhằm mục đích kéo
dài lao động thặng dư, người ta rút ngắn lao động cần thiết bằng những phương pháp cho
phép sản xuất ra vật ngang giá với tiền công, trong một thời gian ít hơn, tức là sản xuất GTTD
tương đối. Vì thế, nếu việc sản xuất ra GTTD tuyệt đối chỉ gắn với độ dài ngày lao động hay
tăng cường độ lao động, thì việc sản xuất ra GTTD tuyệt đối, cách mạng hoá đến tận gốc các
quá trình kỹ thuật của lao động cũng như những tập quán xã hội… Do vậy, để hiểu rõ sự sản
xuất ra GTTD bằng cách biến lao động cần thiết thành lao động thặng dư thì phải gạt bỏ quan
niệm giản đơn cho rằng: tư bản vẫn nắm quá trình lao động dưới hình thức do lịch sử để lại
hay hiện có. Dưới tác động của quy luật GTTD, CNTB đã vận động, phát triển qua ba giai
đoạn, từng bước thực hiện cuộc đảo lộn… có tác dụng đẩy nhanh tăng NSLĐ xã hội để giảm
thời gian lao động tất yếu xuống mức tối thiểu cần thiết, tăng tối đa thời gian cho việc sản
xuất GTTD.
Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại nắm giữ
được, CNTB đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn quyện và rất hiệu nghiệm ở cả 3 phương
pháp. Nhưng chủ yếu là bóc lột GTTD tương đối và bóc lột GTTD siêu ngạch. Ở các nước tư
bản phát triển, nhờ áp dụng khoa học và phương tiện kỹ thuật hiện đại một cách phổ biến
trong tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ mà NSLĐ xã hội tăng cao. Do đó, làm cho giá trị
các hành hoá đều giảm xuống và giá trị hàng hoá sức lao động cũng giảm xuống, vì nó do giá
trị các hàng hoá liên quan đến tái sản xuất sức lao động quyết định. Cho nên, trong các nước
này động lực trực tiếp, thường xuyên thúc đẩy các nhà tư bản chăm lo cải tiến tổ chức sản
xuất và áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật mới là GTTD siêu ngạch.

Trong điều kiện của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại, các nước tư bản
phát triển, nhất là các công ty độc quyền xuyên quốc gia và đa quốc gia, có ưu thế hơn hẳn
trong việc áp dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ vào
sản xuất, kinh doanh. Do đó các nước tư bản phát triển và các công ty độc quyền đó có nhiều
khả năng sản xuất GTTD siêu ngạch.

7


1.5.

Vận dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta

Hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị thặng
dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để
phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ
điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích
như
trước, chúng ta còn có mục đích nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách
là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường nhằm vận dụng vào công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Qua phân tích một số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư ở trên chúng ta vẫn tiếp tục
khẳng định rằng học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử
của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện
đại. Học thuyết đó còn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

1.5.1.


Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực.

Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong thời kỳ “dân số
vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn lực vô cùng quan trọng
để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020
đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày 16/2/2011. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực
của Việt Nam vẫn còn thấp và cần phải được cải thiện càng sớm càng tốt. Hiện nay ở Việt
Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao.
Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại
chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là
nhân lực chất lượng cao. Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục
đại học còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ có
từ 30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin kém…
Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số 48,8
triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở
đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ
thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các
8


tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là
0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
(WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang
điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu
Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59;
TháiLan là 4,94... Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ
thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó các ngành
xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ... lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa

thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang thiếu lao động như: Kinh doanh tài chính,
ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo...
Để khắc phục được những nhược điểm và phát huy những ưu điểm về sử dụng và phát triển
nguồn lao động ở hiện tại và trong tương lai hay tăng chất lượng của nguồn lao động như
nâng cao trình độ học vấn của nhân nhất là phổ cập tiểu học, trung học cơ sở, mở trường dạy
nghề, học phải gắn với thực hành. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương: “ Xã hội hoá giáo dục
nhằm đa dạng hoá các loại hình giáo dục, đào tạo với phương châm nhà nước và nhân
dân cùng làm”. Với những chủ trương đó chất lượng nguồn lao động đã có những sự biến đổi
so với trước đây và quá trình sử dụng nguồn lao động đã mang lại hiệu quả ngày càng cao
trong những năm tiếp theo.

1.5.2.

Khuyến khích đầu tư và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.

Theo lý luận của chủ nghĩa Mác thì vốn là một nhân tố đầu vào đóng vai trò quan trọng trong
quá trình sản xuất, nếu như biết đầu tư và sử dụng vốn đúng mục đích thì sẽ mang lại lợi
nhuận caotrong nề kinh tế hiện nay. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động
của cuộc cáchmạng khoa học công nghệ nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế
khép kín mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế
thực hiện đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút các nguồn lực
phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ công
nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm...mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên
doanh liên kết hợp tác để tạo điều kiện khuyến khích sản xuất trong nước phát triển bắt kịp
vởi trình độ thế giới.

9


Như vậy muốn tạo được chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc tế chúng ta phải có những

sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam. Vì thế phải phát triển công nghiệp, thu hút
vốn đầu tư nhằm nâng cao sức mạnh cho công nghiệp.

1.5.3.

Áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất

Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc không tạo ra giá trị thặng dư, nhưng nó tạo
điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị
của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên. Ngày nay, việc ứng dụng khoa học – kỹ
thuật đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với nông nghiệp, đem lại giá trị kinh tế cao
như sản xuất thu hoạch bảo quản chế biến... Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công
nghệ thông tin, điện tử, viễn thông đã ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế
giới và đã thực hiện được đúng theo chủ trương “đi trước đón đầu” của Đảng ta. Với các
lĩnh vực khác trong ngành công nghiệp, việc sử dụng các máy móc hiện đại vào sản xuất cũng
được đẩy mạnh, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp lên 12,9% (năm 2000). Đảng và
Nhà nước ta đã biết áp dụng phù hợp những máy móc, khoa học công nghệ hiện đại cho từng
ngành, từng lĩnh vực kinh tế.
Trên cơ sở nghiên cứu và ứng dụng học thuyết giá trị thặng dư đặc biệt là vấn đề áp dụng
khoa học – công nghệ vào sản xuất đã mang lại nhiều giá trị to lớn cho sự tăng trưởng của
Việt Nam và đẩy mạnh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong giai
đoạn

hiện

nay.

10



KẾT LUẬN

Nhìn chung, chúng ta thấy rằng học thuyết GTTD rất quan trọng và phức tạp. Sự cần thiết về
thời gian thặng dư và cùng với nó là sản phẩm thặng dư. Nó là nguồn gốc của sự giầu có của
mọi xã hội, đó là điều dễ hiểu. Song điều cần thiết là những biện pháp kinh tế tổ chức, đặc
biệt về mặt xã hội để kéo dài thời gian thặng dư cũng như việc sử lý đúng đắn mối quan hệ
giữa kéo dài ngày lao động, tăng cường độ và tăng năng suất lao động ở những ngành sản
xuất tư liệu tiêu dùng để rút ngắn thời gian cần thiết đối với một xã hội ở trình độ phát triển
thấp như nước ta. Vấn đề đặt ra với chúng ta là: - Cần phải có những chính sách kinh tế phù
hợp để điều hành các hoạt động xã hội theo mục tiêu đã xác định. - Ngăn chặn được những
ma lực hút nền kinh tế chệch khỏi quỹ đạo XHCN. Và vấn đề quan trọng nhất về nhà nước là
phải có một nhà nước vững mạnh. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên CNXH. Do
vậy, cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng phải mang tính chất quá
độ. Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá phải gắn với lợi ích của nhân dân và lợi ích của tư
nhân. Nền kinh tế hàng hoá nào cũng xuất hiện những mâu thuẫn và những mối quan hệ trong
xu hướng vận động của nó. Sự thành công trong chính sách quản lý của nhà nước ta trước hết
và chủ yếu là khai thác, duy trì sự thống nhất theo xu hướng vận động của GTTD. Coi đó là
vấn đề có tầm chíên lược; đồng thời giảm đến mức tối thiểu mâu thuẫn trong việc sử dụng và
phân phối GTTD trong các cơ sở kinh tế tư nhân TBCN hướng chúng vào các hình thức kinh
tế CNTB nhà nước, khắc phục khả năng đối kháng của mâu thuẫn vốn là một khả năng hiện
thực. Chúng ta cần phải thừa kế và phát triển các học thuyết mà thế hệ đi trước để lại và vận
dụng nó cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Từ đó xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản chủ nghĩa Mác - Lenin

2. />3. />4. />
12



×