Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.89 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Trong hệ thống quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử, nguyên lý tồn tại
xã hội quyết định xã hội là một nguyên lý cơ bản, đánh dấu sự đối lập căn bản
giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm về xã hội. V. I. Lê-nin đã bắt
đầu từ nguyên lý này khi trình bày hệ thống những quan điểm duy vật lịch sử của
C. Mác: “Nhận thấy chủ nghĩa duy vật cũ là không triệt để, chưa hoàn toàn và bị
phiến diện, nên Mác cho là cần phải “làm cho khoa học xã hội phù hợp cơ sở
duy vật, và dựa vào cơ sở đó để cải tạo khoa học ấy”. Nếu, nói chung, chủ nghĩa
duy vật lấy tồn tại để giải thích ý thức chứ không phải ngược lại, thì khi áp dụng
vào đời sống xã hội của loài người, nó buộc phải lấy tồn tại xã hội để giải thích ý
thức xã hội. Để hiểu rõ hơn về tồn tại xã hội và ý thức xã hội, em xin chọn đề tài:
“Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội và vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta”.

0


NỘI DUNG
I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
1: Khái niệm của tồn tài xã hội và ý thức xã hội
1.1: Khái niệm tồn tại xã hội
+ Định nghĩa:
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội.
+ Các yếu tố tạo thành tồn tại xã hội bao gồm: điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa
lí, dân cư và phương thức sản xuất. Trong đó, phương thức sản xuất là yếu tố cơ
bản nhất.
1.2: Khái niệm ý thức xã hội
+ Định nghĩa:
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ
những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, … của cộng đồng xã hội, nảy


sinh từ tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.
Cần phân biệt giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Mối quan hệ giữa ý
thức xã hội và ý thức cá nhân là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong
đó ý thức cá nhân là sự biểu thị một cách sinh động, cụ thể ý thức xã hội. Ý thức
1


cá nhân vừa phụ thuộc vào đặc trưng của ý thức xã hội, vừa phụ thuộc vào đặc
điểm riêng của mỗi người.
+ Bản chất:
Ý thức xã hội mang tính giai cấp: mỗi giai cấp, do bị chi phối bởi đặc
điểm lịch sử và lợi ích giai cấp, mà có thể phản ánh tồn tại xã hội khác nhau hoặc
thậm chí đối lập nhau. Đặc trưng này thể hiện rõ nét nhất ở trình độ lý luận, hệ tư
tưởng.
Ý thức xã hội mang đặc trưng của dân tộc: phản ánh truyền thống dân tộc,
phản ánh các điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc về chính trị, lịch sử, văn hóa,
tôn giáo…
+ Về kết cấu của ý thức xã hội, có hai cách phân loại:
Tù góc độ trình độ phản ánh:
Ý thức xã hội thông thường: toàn bộ những tri thức, những quan niệm của
con người ở một cộng đồng nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ đời
sống hàng ngày và phản ánh đời sống đó, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành lý luận.
Ý thức lý luận: những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành các học thuyết, các quan điểm xã hội, được trình bày dưới dạng

2


các khái niệm, phạm trù, quy luật mang tính trừu tượng cao, phản ánh hiện thực

ở trình độ cao.
Giữa ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận có mối quan hệ mật
thiết với nhau, hợp thành ý thức xã hội. Ý thức xã hội thông thường phản ánh
hiện thực một cách sinh động, cụ thể, và là tiền đề cho ý thức lý luận.
Từ góc độ nội dung phản ánh:
Tâm lý xã hội: bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, tâm trạng, tập
quán… của con người ở một công đồng nhất định, hình thành trực tiếp dưới ảnh
hưởng của đời sống hàng ngày và phản ánh đời sống đó.
Hệ tư tưởng: hệ thống bao gồm những quan điểm, tư tưởng phản ánh tồn
tại xã hội trên các lĩnh vực chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… ở
trình độ nhận thức mang tính khái quát.
Giữa tâm lý xã hội và tư tưởng xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau,
hợp thành ý thức xã hội. Hệ tư tưởng hình thành trên tâm lý xã hội, nhưng không
phải là kết quả trực tiếp của tâm lý xã hội, mà phải trải qua một quá trình nhận
thức ở trình độ cao hơn về chất, mang tính trừu tượng hóa.
Có 6 hình thái ý thức xã hội:

3


+ Ý thức chính trị: phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai
cấp, các dân tộc, các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền
lực nhà nước.
+ Ý thức pháp quyền: bao gồm toàn bộ những tư tưởng, quan điểm về bản chất,
vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và
công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi.
+ Ý thức đạo đức: bao gồm toàn bộ những quan niệm về thiện ác, tốt, xấu, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã
hội; chúng được thực hiện bởi niềm tin và tình cảm cá nhân, bởi truyền thống và

sức mạnh của dư luận xã hội.
+ Ý thức khoa học: một hiện tượng xã hội đặc biệt, là hệ thống tri thức phản ánh
thế giới dưới hình thức logic trừu tượng (khái niệm, thuật ngữ, phạm trù, định
luật, quy luật) và được thực tiễn kiểm nghiệm.
+ Ý thức thẩm mỹ: toàn bộ những quan niệm về hiện thực cuộc sống được xây
dựng dưới hình thức các biểu tượng nghệ thuật được được khái quát một cách
sinh động và cụ thể, phản ánh đời sống xã hội và mang dấu ấn cá nhân.
+ Ý thức tôn giáo: phản ánh thế giới một cách hư ảo, thông qua hệ thống những
biểu tượng siêu nhiên và niềm tin đương nhiên, với một thiết chế tương ứng như
giáo lý, giáo luật, giáo hội, cơ sở thờ tự, nghi lễ.
4


2: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
2.1: Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Luận điểm này được thể hiện cụ thể trên các nội dung sau:
+ Tồn tại xã hội quyết định nội dung của ý thức xã hội: đời sống tinh thần của xã
hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, do đó không thể tìm
nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó mà phải tìm trong hiện
thực vật chất hiện thực ấy. Chỉ có thể giải thích các hiện tượng trong đời sống
tinh thần khi xuất phát từ nguồn gốc của nó là đời sống vật chất.
+ Tồn tại xã hội quyết định sự vận động biến đổi của ý thức xã hội: khi tồn tại xã
hội nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo; sự
biến đổi của ý thức xã hội là sự phản ánh đối với sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ
vào ý thức của thời đại đó.
2.2: Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối của nó trong mối quan hệ với tồn tại xã
hội. Tính độc lập tương đối ấy thể hiện trên các nội dung sau:

+ Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo.
5


Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hộiđều
ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Trong nhiều trường hợp, ý
thức xã hội có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi tồn tại xã hội đã thay đổi.
Nguyên nhân:
- Tồn tại xã hội là cái được phản ánh, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội
nên ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Cái
được phản ánh bao giờ cũng vận động và biến đổi nhanh hơn so với cái phản ánh
- Tâm lý xã hội (thói quen, tập quán, …) có một sức mạnh đặc biệt để có thể tiếp
tục tồn tại ngay khi cơ sở của nó đã mất đi. Do sức mạnh của thói quen, truyền
thống, tập quán và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
- Do ý thức xã hội mang tính giai cấp, tính dân tộc, ít nhiều đều ảnh hưởng đến
lợi ích của các nhóm xã hội. Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm,
những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư
tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ cố tình duy trì
để bảo vệ lợi ích của mình.
+ Ý thức xã hội trong một số trường hợp có thể vượt trước tồn tại xã hội (phản
ánh trước): trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người có thể vượt
trước tồn tại xã hội hiện thời, dự báo tương lai. Tuy nhiên, suy đến cùng khả
năng phản ánh vượt trước của ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.

6


+ Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển: Lịch sử phát triển của đời
sống tinh thần của xã hội cho thấy ý thức xã hội của một xã hội có thể kế thừa

những giá trị của ý thức xã hội của các xã hội trước đó. Do ý thức có tính kế thừa
trong sự phát triển nên không thể giải thích một tư tưởng nào đó chỉ dựa vào
những quan hệ kinh tế hiện có mà cần phải dựa vào cả những quan hệ kinh tế
trước đó.
+ Giữa các hình thái ý thức xã hội có sự tác động qua lại: ý thức xã hội không
chỉ chịu sự tác động của tồn tại xã hội, mà giữa các hình thái ý thức xã hội còn
có sự tác động qua lại lẫn nhau.
+ Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội, nhất là ý thức tư
tưởng tiến bộ góp phần to lớn vào thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, ngược lại ý
thức xã hội lạc hậu, phản tiến bộ có thể kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Do con người hành động một cách có ý thức, nên ý thức xã hội có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Nếu ý thức xã hội phản ánh chân
thực tồn tại xã hội, sẽ mở đường cho xã hội tiến lên, và ngược lại, phản ánh sai
lệch vì những mục đích khác nhau nhằm phục vụ cho lợi ích của một nhóm
người sẽ làm cản bước tiến của xã hội.
3: Ý nghĩa phương pháp luận.
Vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tinhs độc lập tương
đối của nó, do đó:
7


+ Để xây dựng xã hội, cần tiến hành trên cả hai mặt: tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Theo nguyên lý này, một mặt, nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh
thần xã hội phải căn cứ vào tồn tại xã hội nhưng mặt khác cũng phải thấy được
sự độc lập tương đối giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
+ Thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản để thay đổi ý thức xã hội, và những
thay đổi trong đời sống tinh thần cũng tác động và tạo ra những thay đổi trong
tồn tại xã hội. Đồng thời, cũng cần phải thấy rằng những tác động của đời sống
tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây là tư tưởng cơ bản khẳng định chủ thể tích cực cũng là đối tượng
phục vụ chính của xã hội mới. Ý thức xã hội mới phản ánh lợi ích của nhân dân
và chính do nhân dân xây dựng. Tinh thần này được thể hiện trong các quan
điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong các chính sách cụ thể của từng
ngành, từng địa phương. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của
8


nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng, hoạch định và
thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng, tuyên
truyền, quảng bá, phát triển ý thức xã hội mới.
Như vậy, có thể nói, sự nghiệp đổi mới không thể thành công nếu thiếu sự
đóng góp của nhân dân; công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, bảo tồn giá trị
truyền thống dân tộc, kế thừa những cái tốt, lọc bỏ những thói hư tật xấu, chống
sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch không thể thành công nếu thiếu
sự đóng góp của nhân dân. Mặt khác, phải thấy rằng, việc xây dựng ý thức xã hội
mới cũng không thể thành công nếu thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội
tiên phong của giai cấp cách mạng, cũng là đội tiên phong của toàn dân tộc, bởi
Đảng ta là một tổ chức chính trị bao gồm những cá nhân ưu tú nhất của xã hội.
Khi tiến lên xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng vẫn kế thừa những tư tưởng
tốt đẹp của xã hội phong kiển như truyền thống tôn Sư trong đạo, tinh thần yêu
nước, những phong tục cưới xin mang đậm bản sắc dận tộc… nhưng bên cạnh đó
thì những tư tường lac hậu như “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” hoặc những
hủ tục lạc hậu sẽ dần dần bị bài trừ.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tinh kế thừa của ý thức xã hội có
ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dưng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Văn
hoá xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp
nhất của nền văn hoá nhận loại từ cổ chí kim trên cơ sở thể giới quan mác xít.
9


Bởi vậy, trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng
xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dận tộc, luôn luôn tiếp thu những
tinh hoa văn hoá của nhân loại, làm giàu thêm cho nền văn hoá Việt Nam nhưng
phải trên tinh thần hoà nhập nhưng không hoà tan.
Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn
hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh
thần của xã hội.
Sự phát triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà còn có đời sống
tinh thần. Đó là hai mặt không thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động
tương hỗ có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau
trong quá trình phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hoá luôn đóng vai trò quyết định
trong quá trình phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa,
từ trong bản chất, văn hoá đã mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt,
cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền lại cho thế hệ sau thành
truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này được
chuyển tải vào các lĩnh vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo, …
tạo thành môi trường văn hoá nuôi dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá nhân và cả
cộng đồng.

10



Trong điều kiện hiện nay, văn hoá còn đóng vai trò quan trọng trong việc
điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt
những mặt trái của kinh tế thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh
thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh
vực của đời sống tinh thần xã hội. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tậm tuyệt đối
hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi
phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph Ăng ghen
viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật… đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh
hường lẫn nhau và ảnh hưởng đển cơ sở kinh tế”.
Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với tăng cường học tập lý luận,
tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền tảng và kim
chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân.
Thứ tư, xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ
giữa “xây” và “chống”.

11


Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó không
hình thành một cách tự phát trong lòng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận
thức, xây dựng, truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới,
thành động lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì
vậy, cần xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên
định con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri thức mới của thời đại,
tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức về khoa
học và công nghệ... Đó là yêu cầu tiên quyết trong quá trình xây dựng xã hội ta
hiện nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát
vọng cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây
dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng
yêu nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phòng
chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những
biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó. Về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung
khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên với các biểu hiện như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường
12


phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của
dân tộc; thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và
làm không theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh
giác trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch;
không kịp thời và kiên quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm
sai trái...

13


KẾT LUẬN
Trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta, một mặt chúng ta phải coi
trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của
đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước; Mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí
trong công việc xậy dựng văn hóa, xây dung con người mới. Cần thấy rằng chỉ
có thể thực sự tạo dưng được đời sống tinh thần của xã hội XHCN trên cơ sở cải
tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập,
phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa.

14


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2015
2. Bài tập những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin (I), NXB
Học viện Ngân hàng, Khoa Luật chính trị, Hà Nội 2016
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006
4. />
Xa-hoi/Van-de-xay-dung-y-thuc-xa-hoi-o-nuoc-ta-hien-nay-393.html
5. />
thc-xh

15


16




×