Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

QUAN điểm DUY vật BIỆN CHỨNG về mối QUAN hệ GIỮA vật CHẤT với ý THỨC và vận DỤNG vào CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.08 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, veev
bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Tổng kết toàn bộ lịch sử triết
học, Ph.Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết
học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”, giữa ý thức và vật chất, giữa con
người và giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản đó đã đặt ra câu hỏi rằng: Giữa ý thức và vật chất:
cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào? Việc giải quyết vấn đề mối
quan hệ giữa ý thức và vật chất đã chia triết học thành hai trường phái lớn: Chủ nghĩa duy
vật và Chủ nghĩa duy tâm. Trải qua lịch sử phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã ra
đời và trở thành hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật. Trên cơ sở phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biển và sự phát triển, chủ nghĩa duy
vậy biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học thực tiễn và
cách mạng.
Triết học luôn phải gắn liền với thực tiễn, đặc biệt là áp dụng triết học vào công
cuộc đổi mới và phát triển kinh tế. Đất nước Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, toàn cầu hóa nền kinh tế, hội nhập thế giới. Bằng việc tiếp thu
nền tảng triết học Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã tìm ra những phương hướng phát
triển đúng đắn và kịp thời, đưa Đất nước thoát khỏi suy thoái và khủng hoảng. Tuy trong
quá trình đó còn có nhiều khiếm khuyết và sai lầm còn gặp phải, nhưng thành quả đạt
được là điều không thể phủ nhận. Qua đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng triết

1


học vào phát triển kinh tế một cách hiệu quả, và chứng minh rằng, chúng ta có nhận thức
đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Vì vậy, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY”.

NỘI DUNG


I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
1.1 Định nghĩa
Bằng việc kế thừa tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa
kinh điển về vật chất:
“Vật chất là một phạm trù triết học dung để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người tỏng cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Qua định nghĩa về vật chất này của V.I.Lênin, ta thấy được rằng:
2


Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học
(phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và được
xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) với khái niệm “vật chất” được
sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (khái niệm dung để chỉ những dạng vật chất cụ
thể, cảm tính).
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là thuộc tính
tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con
người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.
Thứ ba, vật chất, dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở
con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của
con người là sự phản ánh đối với vật chất; vật chất là cái được ý thức phản ánh.

1.2 Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất;
không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.

1.2.1 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất

Ph.Ăngghen định nghĩa về vận động: “Vận động, theo nghĩa chung nhất, được hiểu
là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất; bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy. Vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí mà là “mọi sự thay

3


đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”. Ph.Ăngghen chia vận động thành 5 hình thức
cơ bản:
-vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
VD: Chim bay, tàu chạy, sự dao động của con lắc, …
-vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt,
điện, v.v)
VD: Sự bay hơi, sự đông đặc, các điện tích di chuyển tạo thành dòng điện, tỏa nhiệt của
bàn ủi, ma sát sinh ra nhiệt, …
-vận động hóa học (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hóa hợp và
phân giải)
VD: C + O2 → CO2
-vận động sinh học (sự biến dổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v.)
VD: Sự trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường bên ngoài
-vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v. của đời
sống xã hội)
VD: Sự thay đổi của nhà nước từ phong kiến sang XHCN.
Các hình thức vận động này tuy khác nhau về chất nhưng chúng không tồn tại biệt
lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, hình thức vận động cao xuất hiện

4



trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động
thấp hơn.

1.2.2 Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính
(chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định
(trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái, v.v.) với những dạng vật chất khác.
Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật
còn được thể hiện ở quá trình biến đổi, nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, v.v..
Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Vật chất, không gian và thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại
ngoài không gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật
chất vận động. Là hình thức tồn tại của vật chất, không gian và thời gian tồn tại khách
quan, bị vật chất quy định; trong đó, không gian có ba chiều: chiều cao, chiều rộng. chiều
dài; thời gian có một chiều: từ quá khứ đến tương lai.

1.3 Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước,
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.

5


- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn không được sinh ra và không bị
mất đi.
- Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những

quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.

2. Ý thức
2.1 Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc
xã hội:
- Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong đó, hai yếu tố cơ
bản nhất là bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo nên
hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo.
- Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức, trong đó, cơ bản nhất và
trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.

2.2 Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
VD: Nhận xét về cùng một cô gái, 1 anh chàng nhận xét là dễ thương, xinh xắn. Một anh
khác lại bảo là cô ta điệu đà, ăn chơi.
6


- Kết cấu của ý thức: Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan
hệ mật thiết với nhau; trong đó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí. Trong đó tri thức
là yếu tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố quyết
định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Dựa trên mối quan hệ biện chứng, có thể khẳng định rằng: Vật chất có trước, ý
thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức không hoàn
toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.


3.1 Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức.
- Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất
thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của
thế giới vật chất
- Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc
người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động,
ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ánh, lao
động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.

7


- Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất
nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác
động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật
chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như
mọi sự biến đổi của ý thức.
VD: Sự vận động quay quanh Mặt Trời của Trái Đất sinh ra ngày đêm trên Trái Đất, nên
từ đó hình thành ý thức về ngày và đêm của con người. Sự vận động của Trái Đất quanh
Mặt Trời là cái có trước, ý thức của con người về ngày và đêm là cái có sau.

3.2 Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
- Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn

thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt
động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo
ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu
của mình.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
8


mạng, có nghị lực, có ý chí hành động của con người phù hợp với quy luật khách quan,
con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của
mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Còn nếu ý thức của
con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì
ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan,
hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách
quan.
VD: Chúng ta đều biết Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn. Ông từng nói rằng:
“Tôi không thất bại. Tôi chỉ là đã tìm ra 10.000 cách không hoạt động”. Chúng ta thấy, ý
thức đã trang bị cho Edison những tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở đó ông đã đề
ra cách làm bóng đèn mới và kết quả là ông đã phát minh ra chiếc bóng đèn.

4. Ý thức phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật thể của thế giới, bản chất năng động, sáng
tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện
chứng xây dựng nên nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với hoạt động
nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: Trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy
tính năng động chủ quan.

Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách
quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, mà căn bản là tôn
trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng quy luật, nhận thức và
9


hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời
sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động,
con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối,
chủ trương, kế hoạch, biện pháp; lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; tìm ra
những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực,
năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học, tích
cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó
trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác,
phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình
cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn
trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan
trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực,
lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược,
sách lược, v.v.. Mặt khác, cũng cần chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức
khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v. trong hoạt động nhận thưc và
thực tiễn.

10



II. VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Tình hình đổi mới của nước ta từ năm 1986 tới nay
Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, sau khi giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, nước ta đứng trước nhiều khó khăn và thử thách mới. Cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản diễn ra hết sức phức tạp, hầu hết các
nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng về kinh tế - xã hội.
Ở trong nước, tư tưởng chủ quan, say sưa với thắng lợi, nôn nóng muốn tiến nhanh
lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn đã dẫn đến việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cơ
cấu đầu tư, cùng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu,
bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho kinh tế - xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, nước ta còn bị các thế lực
thù địch vao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc xảy ra,
gây ra hậu quả nặng nề.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng triết học
Mác – Lênin, đề ra những mục tiêu và phương hướng chỉ đạo đúng đắn để xây dựng và
phát triển xã hội. Nhờ vào nhận thức thực tiễn, Đảng và Nhà nước đã quyết định loại bỏ
nền kinh tế bao cấp và cho phép Đất nước phát triển theo nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, Đảng còn đấu tranh với xu
hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong kinh tế, giải quyết mâu thuẫn
tồn tại trong sản xuất giữa chúng.
11


Trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần IV, đoạn kết viết: “Đảng phải
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực
nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng”. Đại hội Đàng lần VI đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể
nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: “Nay phải sửa lại cho đúng như
sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”.

1.1 Đổi mới kinh tế
Trong cơ cấu sản xuất và đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều chỉnh lại theo hướng
“không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế”, tập
trung sức người sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực
– thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chính
sách vừa đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ vừa là điều kiện thúc đẩy sản
xuất lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa. Bên cạnh đó, Đảng thi hành
chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng
chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch
toán kinh tế.
Đảng đã đề ra mục tiêu đổi mới kinh tế, đó là:
12


- Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
- Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới về nội dung, cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương kinh tế:
+ Sản xuất lương thực, thực phẩm
+ Sản xuất hàng tiêu dung
+ Sản xuất hàng xuất khẩu
Qua quá trình đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rõ rệt.
Một là, tạo lập được sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Hai là, cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng tích cực, phát huy tiềm năng của
từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế.
Ba là, kinh tế đối ngoại phát triển khá, vị thế nước ta trên trường quốc tế đã được

nâng cao.

1.2 Đổi mới chính trị
Sự đổi mới và phát triển kinh tế phải gắn liền với sự đổi mới trong lĩnh vực chính
trị. Thực tiễn đổi mới kinh tế đang đòi hỏi đổi mới chính trị phải nới lỏng hơn nữa, phải
tháo gỡ những trói buộc của các quan điểm chính trị, các chính sách, thiết chế, cơ chế
hoạt động, tổ chức bộ máy, … Nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị để mở đường cho kinh
tế và xã hội phát triển bền vững là một nhu cầu khách quan xuất phát từ sự phát triển xã
13


hội. Vấn đề cấp thiết nhất trong đổi mới chính trị là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và những đặc điểm của thời đại ngày nay. Mọi sự ràng buộc ở chế độ cũ là rào cản
cho việc đổi mới chính trị. Tại Đại hội Đảng lần thứ X, hàng loạt vấn đề về quản lý hộ
khẩu, các thủ tục hải quan, thuế thu nhập cá nhân, quản lý bất động sản, cải cách thủ tục
hành chính, tổ chức lại bộ máy hành pháp các cấp, cơ chế và quan hệ Đảng – Nhà nước –
các đoàn thể chính trị - xã hội,… được thảo luận sôi nổi. Đó là những bức xúc thể hiện
nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế - xã hội trong nhiều năm qua.
Thực tế quá trình toàn cầu hóa và hội nhập đã tác động trực tiếp, buộc chúng ta
phải thay đổi một số thể chế, luật pháp, quy trình thực hiện, quan điểm và phương pháp
đánh giá các vấn đề kinh tế - xã hội. Thực tiễn trong công cuộc đổi mới Đất nước đã đặt
ra cho Đảng – Nhà Nước ta những thách thức, buộc chúng ta phải tìm những giải pháp tối
ưu để nhanh chóng hoàn thành công cuộc đổi mới. Thực tiễn đòi hỏi Đất nước chúng ta
phải đổi mới chính trị với tốc độ nhanh hơn, toàn diện hơn, đồng bộ hơn, “cởi trói” để giải
phóng các tiềm năng xã hội làm cho kinh tế phát triển mạnh hơn, đời sống xã hội vận
động nhanh hơn. Việc đổi mới đường lối cần phải được tiến hành đồng thời trên cơ sở
nghiên cứu lý luận, vừa trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Qua thực tiễn, chúng
ta rút ra được những bài học và kinh nghiệm trong việc đổi mới, thực hiện công cuộc đổi
mới một cách nhanh chóng và đạt hiệu quả. Bên cạnh đó, thực tiễn còn đặt ra cho chúng
ta vấn đề, đó là đổi mới tư duy mang tính chất cách mạng trong lĩnh vực lý luận chính trị

và đường lối đổi mới chính trị để cho đổi mới phát triển một cách toàn diện, đúng hướng,
hài hòa, đồng bộ và bền vững.

14


Từ thực tiễn, tình hình chính trị của Đất nước ta hiện nay, Hội nghị Trung ương 7
khóa XI đã đề ra những phương hướng sau:
- Phải bám sát, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm của Cương lĩnh, Điều lệ
Đảng, Văn kiện Đại hội XI của Đảng, đồng bộ với nội dung sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển Đất nước trong
thời kỳ mới, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Phải đổi mới đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; đồng bộ giữa tổ chức bộ máy với hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, hoàn thiện hệ thống
pháp luật với tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị phải đồng bộ ở cấp Trung ương và cấp địa
phương, cơ sở.

1.3 Đổi mới văn hóa
Quan điểm đổi mới văn hóa ở Việt Nam thời gian qua được thể hiện tập trung ở
Cương lĩnh xây dựng và phát triển Đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội VII (năm 1991); Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và các văn
kiện Đại hội, các nghị quyết của Hội nghị Trung ương, của Bộ chính trị về lĩnh vực văn
hóa, văn nghệ từ Đại hội VI đến Đại hội XI.Thành tựu đổi mới tư duy lý luận của Đảng
về văn hóa là điều kiện và động lực có ý nghĩa quyết định tới việc tổ chức thực hiện đổi
15



mới các lĩnh vực hoạt động văn hóa trong thực tiễn, góp phần tạo nên sự phát triển của
văn hóa Việt Nam suốt thời gian qua và được thể hiện tập trung ở một số nội dung sau:
+ Đổi mới nhận thức về các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của văn hóa.
+ Đổi mới nhận thức về vai trò và chức năng xã hội của văn hóa.
+ Đổi mới nhận thức về mô hình, đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam cần xây
dựng.
+ Đổi mới tư duy về tính thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam.
+ Đổi mới tư duy về nguồn lực phát triển văn hóa.
+ Tiếp tục nhấn mạnh tính đặc thù của văn hóa.
+ Đổi mới tư duy về quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị.kỳ
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
+ Đổi mới tư duy về văn hóa đối ngoại.
Qua thực tiễn trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng cần nhận thức
được vai trò của việc xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa
của riêng Việt Nam. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là sức mạnh
nội sinh quan trọng của sự phát triển bền vững. Nhà nước đã khẳng định: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”
16


Những năm qua, lĩnh vực văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tư
tưởng, đạo đức và lối sống – lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến tích
cực. Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào nhận thức
và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiều giá trị mới về văn hóa, chuẩn
mực đạo đức được khẳng định và nhân rộng, phát huy tính dân chủ trong xã hội; thế hệ trẻ
hăng hái tiếp thu những kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến, thể hiện mạnh mẽ ý chí
vươn lên, lập than, lập nghiệp để phát triển Đất nước. Cuộc vận động phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh”, các phong trào thi đua yêu nước ngày càng được mở rộng và từng bước đi vào
thực chất trong đời sống xã hội.
Tuy còn nhiều khuyết điểm trong quá trình đổi mới nhưng sự đổi mới về văn hóa
đã có tác động tích cực đến đời sống xã hội của người dân.

2. Kết luận chung về công cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mới phải xuất phát từ thực tế khách quan, đồng thời phát huy tính
năng động chủ quan và giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự
thật. Bên cạnh đó, qua những gì chưa đạt được, cần phải tổng hợp và rút kinh nghiệm.
Cần phải hiểu vai trò của ý thức đối với vật chất, khắc phục thái độ tiêu cực, thái độ làm
việc, thay đổi ý thức, không thụ động trong công việc, không chờ đợi, bó tay trước hoàn
cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.

17


KẾT LUẬN
Đổi mới các lĩnh vực là một quá trình dài, khó khăn, phức tạp. Những biến động
trong lĩnh vực kinh tế yêu cầu sự kiên trì, quyết tâm của Đảng, đồng thời Đảng cần nhạy
bén trong việc sử dụng những chính sách hợp lý và kịp thời giúp Đất nước vượt qua
những khó khăn, thách thức một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Có thể nói rằng, công cuộc đổi mới là sự thay đổi rất đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta. Bằng cách nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chính sách
đúng đắn.Trên tinh thần xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan, tôn trọng khách quan, Đảng và Nhà nước tìm ra những biện pháp giải quyết các vấn
đề nhanh chóng và hiệu quả. Bên cạnh những thành công đã đạt được, Đảng và Nhà nước
phải luôn luôn vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn để hoàn thành xuất
sắc công cuộc đổi mới, giúp Đất nước Việt Nam nhanh chóng thực hiện được mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và nhanh chóng hòa nhập cùng Thế giới.


18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ giáo dục và đào tạo, (2013), Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.
- Mai Thanh Hòa, Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Tiểu luận, Đại học Ngoại
Thương.
- Phạm Thùy Linh, Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ vật chất với ý thức và
vận dụng vào công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, Tiểu luận, Đại học Ngoại Thương.
- , 8-12-2014, Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Và sự vận dụng ấy trong xây dựng kinh tế Việt Nam hiện nay,
/>- , 8-12-2014, Mấy vấn đề về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
ở Việt Nam hiện nay, />- , 8-12-2014, Tiểu luận triết học: Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan
điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam, .

19


- , 8-12-2014, Sự vận dụng phép biện
chứng

duy

vật

của


Đảng

ta

trong

đổi

mới

chính

trị,

/>
20



×