Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận đường lối bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trong thời kì toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.15 KB, 25 trang )

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ
BẢO TỒN VĂN HÓA
I.

KHÁI NIỆM
1.1.

Văn hóa

Theo quan điểm của UNESCO, văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính
cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng.
Trong cuốn giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam, nhà ngôn ngữ học Trần
Ngọc Thêm định nghĩa văn hoá: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong
quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào
việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa
được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con
người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện
trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng
như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
1.2.

Phân loại di sản văn hóa

a. Khái niệm


Luật Di sản văn hoá của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác
định: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật
thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được
lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”

1


b. Phân loại di sản văn hóa
• Di sản văn hóa vật thể:
Là các giá trị văn hóa tồn tại một cách hữu linh, con người có thể nhận biết
một cách cảm tính, trực tiếp qua các giác quan ( cung điện, chùa tháp, hiện vật
trưng bày trong bảo tàng, thắng cảnh thiên nhiên…) có giá trị văn hóa, lịch sữ,
khoa học được cộng đồng dân tộc, nhân loại thừa nhận.
Di sản văn hóa vật thể luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi rất
nhiều so với nguyên gốc.
• Di sản văn hóa phi vật thể:
Luật Di sản văn hoá của Việt Nam phân loại di sản văn hóa phi vật thể
được định nghĩa như sau:
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao
gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền
miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ
công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về
trang phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.”
Cũng giống như di sản văn hóa vật thể, các hiện tượng văn hóa phi vật thể
cũng có thể bị mai một, biến dạng, hoặc mất đi vĩnh viễn bởi thử thách của thời
gian, bởi sự vô ý thức của con người.

1.3.

Quan điểm về bảo tồn di sản văn hóa

Theo từ điển Tiếng Việt: “bảo tồn là giữ lại không để cho mất đi”, còn
“phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác dụng và tiếp tục nảy nở
thêm”. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng
thức vốn có của nó. Bảo tồn là không để mai một, không để bị thay đổi, biến hóa
hay biến thái.
Quan điểm về bảo tồn di sản văn hóa là cách nhìn nhận, cách thức thực
hiện và đường lối để bảo tồn các di sản văn hóa. Di sản văn hóa là loại tài sản
quý giá không thể tái sinh và không thể thay thế nhưng rất dễ bị biến dạng do tác
2


động của các yếu tố ngoại cảnh (khí hậu, thời tiết, thiên tai, chiến tranh, sự phát
triển kinh tế một cách ồ ạt, sự khai thác không có sự kiểm soát chặt chẽ, và cuối
cùng là việc bảo tồn, trùng tu thiếu chuyên nghiệp không theo đúng những
chuẩn mực khoa học v.v….).
Vì vậy quan điểm về bảo tồn di sản văn hóa có vai trò rất quan trọng vì nó
tạo tiền đề cho việc hoạch định các cơ chế, chính sách và ban hành các quyết
định liên quan tới các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vì bản
thân thế hệ chúng ta hôm nay, vì tổ tiên, cha ông và các bậc tiền bối, đồng thời
còn vì các thế hệ mai sau. Thêm nữa quan điểm đúng đắn về bảo tồn di sản văn
hóa cũng sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình phát triển đất nước và hội
nhập quốc tế.
II.

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN DI SẢN
VĂN HÓA

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ra đời. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã
rất quan tâm đến giữ gìn di sản văn hóa dân tộc. Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lập tức ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên
toàn cõi Việt Nam. Công cuộc đổi mới với những thay đổi sâu sắc nhất bắt đầu
từ lĩnh vực kinh tế, ở đó, thay vì nền kinh tế quan liêu, bao cấp, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường, có nhiều thành phần tham gia theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Trong điều 30, Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 quy định rõ rằng: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn
hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị
của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong
nhân dân.
Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa. Nghiêm cấm truyền bá tư
tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục”
3


Tháng 11/1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII họp Hội nghị
lần thứ IV đã dành riêng một Nghị quyết về một số nhiệm vụ văn hóa văn nghệ
trong những năm trước mắt. Trong sáu định hướng về công tác tư tưởng, có một
định hướng lớn là phát triển văn hóa với hai nội dung cơ bản là phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trên tinh thần Nghị quyết Trung ương V khóa VIII, hàng loạt các giải pháp
xây dựng và phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân đã ra
đời.
Chỉ thị số 27CT/TW ngày 12/01/1998, của Bộ Chính trị Ban Chấp hành

Trung ương Đảng về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội.
Chỉ thị số 14/1998/TCTTg ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội.
Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa 10, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày
14/6/2001, có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Với các điều khoản cụ thể, rõ
ràng hơn so với các văn bản dưới luật khác, phạm vi điều chỉnh của bộ luật trên
giờ đây đã bao gồm cả văn hóa phi vật thể và văn hóavật thể, quy định cụ thể
việc kiểm kê, sưu tầm vốn văn hóa truyền thống của người Việt và các tộc người
thiểu số; bảo tồn các làng nghề truyền thống, các tri thức về y, nghệ sĩ bậc thầy
trong các ngành, nghề truyền thống. Luật Di sản văn hóa cũng có những quy
định về quản lý bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hóa và trách nhiệm
của Nhà nước trong việc cung cấp ngân sách cho hoạt động bảo vệ và phát huy
di sản văn hóa.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP
I.

DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA VIỆT NAM TRƯỚC THỜI
KÌ HỘI NHẬP

4


Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, với những thăng trầm trong sự nghiệp
dựng nước giữ nước, chính thời gian với những dấu mốc đặc biệt ấy đã dần hình
thành nên những di sản văn hóa phi vật thể rất riêng của dân tộc Việt Nam. Di
sản văn hóa phi vật thể không chỉ gắn bó với các chủ thể văn hóa mà còn hòa
quyện vào không gian sinh thái - nhân văn, nơi chúng được sáng tạo ra và đang

hiện diện, tiến diễn trong đời sống đương đại của cộng đồng. Chúng vừa hàm
chứa những nhân tố mang tính lịch sử, đồng thời vừa mang hơi thở của thời đại.
Điều đó còn có nghĩa là, di sản văn hóa phi vật thể được sáng tạo ra, được bảo
lưu và chuyển giao qua nhiều thế hệ là cả một quá trình sàng lọc và sáng tạo
không ngừng nghỉ. Các thế hệ dòng dõi cứ thế, tiếp nối lưu truyền, thừa hưởng
các di sản văn hóa phi vật thể do cha ông để lại .
Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc để thoát khỏi ách nô lệ, chính
những nền văn hóa của nước đô hộ đã ảnh hưởng phần nào đến việc hình thành
nên những di sản văn hóa phi vật thể, ảnh hưởng mãnh mẽ nhất có thể nói đó là
văn hóa từ người Hoa. Những người dân Việt Nam vẫn luôn biết cách sáng tạo,
làm ra chất riêng nét đẹp riêng từ chính những nền tảng vốn có, góp phần làm
phong phú kho tàng di sản văn hóa của dân tộc. Đó là con đường phù hợp với
quy luật sáng tạo và phát triển của các giá trị văn hóa phi vật thể.
Với một đất nước mà nông dân chiếm khoảng 70% dân số thì phương thức
sáng tạo của những di sản văn hóa phi vật thể chính là truyền miệng, sự tồn tại
của bản thân những sáng tác ấy cũng sẽ là truyền miệng, dạng thức tồn tại bằng
văn bản của các di sản văn hóa phi vật thể không nhiều. Bởi vậy, nhiều nhà
nghiên cứu văn hóa hay nói tới dạng thức tồn tại trong tâm thức các thế hệ con
người của nó. Đặt những di sản văn hóa phi vật thể ấy trong tương quan với chủ
thể sáng tạo, chúng ra sẽ rút ra được nhiều điều bổ ích cho công tác sưu tầm,
nghiên cứu lẫn bảo tồn và phát huy.
Thời kì này mới chỉ hình thành những triết lý văn hóa, hay còn gọi là lối tư
duy văn hóa Việt Nam. Đó là thiên về hòa đồng, thái độ bao dung và cởi mở
trong ứng xử văn hóa với thiên nhiên và xã hội. Chủ nghĩa yêu nước theo tinh
thần “không có gì quý hơn độc lập tự do” cũng là một giá trị văn hóa truyền
5


thống nổi trội đã luôn được phát huy, góp phần làm nên sức mạnh văn hóa của
Việt Nam. Theo quan niệm bấy giờ, ba trụ cột quan trọng cũng là 3 thành tố cấu

thành văn hóa Việt Nam là: Gia đình - Làng - Nước. Mỗi người Việt Nam đều
sống trong quan hệ chặt chẽ giữa Nhà (gia đình) với Làng xã và Nhà nước, đồng
thời, tạo ra cơ chế điều hành và điều hòa mềm mỏng mối quan hệ đó cũng là mặt
giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu. Trong văn hóa làng xã, ý thức liên kết cộng
đồng, đạo lý uống nước nhớ nguồn là giá trị văn hóa truyền thống được thể hiện
rất đậm nét. ý thức liên kết cộng đồng tạo ra cơ chế tự quản làm cơ sở nảy sinh
các hương ước đối với các làng ở đồng bằng và luật tục đối với các bản tộc
người vùng cao. Trong hương ước và luật tục, chúng ta tìm thấy những nếp
sống, tập quán, đời sống tâm linh - những hạt nhân văn hóa rất đáng trân trọng.
Có thể coi đây là nguồn gốc tạo ra sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời đại
mới.
Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu mà chúng ta hiện có trong
tay như: Nhã nhạc cung đình Huế, Nghệ thuật Ca trù Việt Nam, không gian văn
hóa Dân ca quan họ Bắc Ninh, Không gian văn hóa Sử thi Tây Nguyên, Nghệ
thuật Chèo, Tuồng và Cải lương Nam Bộ… chắc chắn cũng hàm chứa những
dấu ấn sáng tạo qua nhiều giai đoạn lịch sử chứ không thể còn nguyên như lúc
chúng mới được sáng tạo. Trong quá trình phát triển, sáng tạo hay còn gọi là
“cải biên” các loại hình nghệ thuật truyền thống như thế, có cái chúng ta đã làm
đúng, cũng có cái sai nhiều hoặc sai ít, nhưng nhất quyết là phải sáng tạo và
thích nghi cho phù hợp với nhu cầu xã hội hiện đại thì mới được chấp nhận và
tiếp tục tồn tại, phát triển trong tương lai. Còn ngược lại hoặc bảo thủ, cứng
nhắc tất yếu sẽ bị đào thải, loại trừ, thậm trí tàn lụi. Lịch sử và văn hóa là như
thế, chúng không chấp nhận sự đông cứng và bất biến.
Điều mà thời kì này đã làm rất tốt đó là hình thành một nền nóng tư tưởng
văn hóa rất vững chắc. Chính những di sản văn hóa phi vật thể sau này đã dựa
trên nền móng này để có thể vươn xa và tạo nên nét riêng những văn hóa phi vật
thể đáng tự hào cho dân tộc Việt Nam. Người dân tuy bị ảnh hưởng từ nhiều nền
văn hóa nhưng đã không hề làm mất đi tinh thần dân tộc, mà luôn cố gắng từng
6



ngày để thoát khỏi những cái bóng văn hóa trong lịch sử để khẳng định mình. Ở
miền Bắc, may mắn nhất chính là loại hình ca trù. Có thể nói, trong quá khứ, di
sản này từng rất phát triển, từ trong cung đình ra đến các tầng lớp dân gian. Thế
nhưng, chiến tranh đã làm cho loại hình này gần như bị biến mất. Số nghệ nhân
hát ca trù đã nằm trong báo động đỏ khi kiếm nhiều làng mới tìm được người ca,
còn người cầm trống thì có khi cả vùng mới có lấy một người. trước thời kì hội
nhập, loại hình này cũng đã được chú ý đến để phục hồi nhưng chưa thực sự
đem lại hiệu quả.
Nhưng trước đây, người dân nhận thức chưa đầy đủ về di sản văn hóa phi
vật thể, mới chỉ coi nó là một bộ phận mang tính chức năng của di sản văn hóa
vật thể mà không phải là một dạng di sản có tính độc lập tương đối. Vì thế, việc
bảo vệ và phát huy giá trị chưa được quan tâm thỏa đáng, dẫn đến tình trạng
nhiều giá trị văn hóa phi vật thể bị biến dạng và thậm chí còn bị mai một, thất
truyền.
Có thể thấy sự mai một khá rõ của một số loại hình di sản như truyền khẩu,
tri thức dân gian, nghệ thuật trình diễn và tập quán xã hội. Điển hình như: tiếng
lóng ở làng Đa Chất (Phú Xuyên); hát Trống quân (Phú Xuyên,Thường Tín,
Phúc Thọ), hát Tuồng cổ (Chương Mỹ)… Ngoài ra, sự thu hẹp, biến đổi không
gian văn hoá làm biến đổi thực hành di sản. Hay những bất cập về nhận thức
trong công tác quản lý dẫn đến tác động làm sai lệch giá trị di sản. Trong khi đó,
số lượng người thực hành ngày càng ít đi nên việc trao truyền di sản ngày càng
khó khăn hơn. Mặt khác, nguồn nhân lực cho quản lý di sản rất thiếu, năng lực
hạn chế, chưa có điều kiện đào tạo và tập huấn thường xuyên trong khi nguồn tài
chính hỗ trợ cộng đồng phục hồi, bảo tồn và trao truyền di sản rất ít, không
thường xuyên.
Nước ta lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề, nên sau khi giành được
độc lập, thống nhất nước nhà, hòa bình trở lại, ưu tiên hàng đầu của Nhà nước
và nhân dân là phát triển kinh tế, nâng cao đời sống để thoát nghèo. Tuy nhiên,
tập trung phát triển kinh tế trong khi chưa xây dựng hoàn thiện hành lang pháp

lý về bảo vệ di sản, ý thức chấp hành luật pháp và nhận thức của cộng đồng về
7


bảo tồn di sản văn hóa trong phát triển chưa đầy đủ rất dễ dẫn đến tình trạng
phát triển không bền vững. Hơn nữa, di sản văn hóa vật thể của Việt Nam phần
lớn làm bằng chất liệu hữu cơ, lại bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, thiên tai và
do sự quan tâm không đầy đủ của con người qua hàng trăm năm. Vì vậy, sự phát
triển kinh tế càng mạnh, dân số tăng càng nhanh thì nhu cầu khai thác, xây dựng,
sản xuất ngày càng lớn.
Việc bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể luôn gắn với con người - chủ thể của
di sản. Hay nói một cách khác, di sản văn hoá phi vật thể được thể hiện thông
qua thực hành của chủ thể. Vì vậy, tiếp cận quản lý, bảo vệ di sản văn hoá phi
vật thể luôn gắn với vai trò, sự tham gia của cộng đồng/chủ thể nắm giữ di sản
đó. Không có sự quản lý trung gian thoát ly cộng đồng. Quản lý di sản văn hoá
phi vật thể là mối quan hệ quản lý từ cộng đồng, chủ thể tới các cơ quan quản lý
văn hoá các cấp.
II.

DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI
KÌ HỘI NHẬP
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã nhận thức sâu sắc về vai trò

của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Di sản văn hóa được coi là
“cốt lõi của bản sắc dân tộc” bởi nó được coi là yếu tố cấu thành đặc trưng của
nền văn hóa. Việc đề cao vị trí của di sản văn hóa, trong đó có văn hóa phi vật
thể, là đề cao những thành quả lao động cũng như đời sống tinh thần của nhân
dân trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Cho đến nay, Việt Nam
đã có 3 di sản phi vật thể được UNESCO đưa vào Công bố những kiệt tác văn
hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, đó là: Nhã nhạc cung đình Huế

(2003); Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên (2005); Hát xoan Phú
Thọ (2011).
Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, chuyển đổi sang cơ chế thị trường và
nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề bảo tồn và phát huy văn
hóa dân tộc bắt đầu nảy sinh những khó khăn, xu hướng thương mại hóa
nghệ thuật dân tộc đang lan ra trên khắp các sân khấu biểu diễn. Các loại hình
8


nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, quan họ, dân ca kịch ngày
càng lún sâu vào bế tắc, không có hoặc rất ít khán giả, nhất là khán giả trẻ.
Ðể thu hút người xem, nhiều đơn vị nghệ thuật phải chuyển đổi phương thức
xây dựng tiết mục, cụ thể là cải tiến, cách tân, làm mới sân khấu truyền thông,
biến tuồng, chèo, cải lương thành kịch nói pha bài ca; âm nhạc hiện đại chiếm
tỷ lệ áp đảo trong các dàn nhạc truyền thống. Chưa kể là hình thức trang trí,
phục trang ngày càng xa với nguyên tắc cách điệu, ước lệ và tượng trưng mà các
thế hệ nghệ nhân trước đây đã dày công sáng tạo và đúc kết thành đặc trưng, thi
pháp nghệ thuật đặc sắc và độc đáo của dân tộc ta mà thế giới phải chú
ý, khâm phục, ngợi ca.
Trên cơ sở kiểm kê các số lượng các di sản văn hóa phi vật thể, Nhà nước
đã tiến hành các điều tra cụ thể về thực trạng một số loại hình văn hóa phi vật
thể, nguyên nhân khiến nó bị mai một hay đang được phát huy, tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa... Trong
khuôn khổ công việc tổng kiểm kê này, Nhà nước ưu tiên 2 loại hình di sản văn
hóa phi vật thể, đó là các loại hình văn hóa phi vật thể đang có nguy cơ mai một,
phải bảo vệ khẩn cấp và ưu tiên các huyện vùng sâu, vùng xa, bao gồm tiếng
nói, chữ viết của các dân tộc có trên địa bàn, ngữ văn dân gian, nghệ thuật trình
diễn dân gian, tập quán xã hội, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống,
tri thức dân gian. Điển hình như ca trù, sau khi được đưa vào danh sách “di sản
thế giới cần được bảo tồn khẩn cấp” thì Sở VHTT&DL cũng đã có kế hoạch bảo

vệ và phát huy môn nghệ thuật này và trình lên UNESCO vào tháng 12/2013.
Lĩnh vực văn hóa phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số đã được quan
tâm bảo tồn, khôi phục và phát huy. Các lễ hội truyền thống, diễn xướng, trò
chơi dân gian, phong tục, tập quán, nếp sống đẹp của đồng bào đã và đang được
tích cực nghiên cứu, sưu tầm, khôi phục, bảo vệ. Nhiều dự án, đề tài nghiên cứu
khoa học đã được đầu tư nghiên cứu và đề ra những giải pháp có tính thực tiễn
như dự án “Điều tra, khôi phục sưu tầm và bảo tồn múa Chuông, múa Rùa và
một số diễn xướng dân gian liên quan đến lễ hội người Dao Phú Thọ”; đã tạo
9


sức sống mãnh liệt cho các lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Mường,
Dao, Cao Lan như: Tết nhảy của dân tộc Dao quần chẹt (xã Nga Hoàng, huyện
Yên Lập),
Riêng đối với di sản thế giới, Nhà nước còn có những cơ chế riêng về tài
chính, như bố trí lại các nguồn thu cho các di sản thế giới nhằm tạo sự chủ động
cho các hoạt động của di sản thế giới. Chính vì vậy, các di sản thế giới có điều
kiện được bảo tồn phát huy giá trị nhiều hơn so với khi chưa trở thành di sản thế
giới và các di sản khác trong cả nước. Nhờ những nỗ lực đó, bộ mặt của các di
sản thế giới ngày càng được cải thiện, nhiều bộ phận của di sản thế giới đã được
bảo quản, tu bổ và phục hồi, di sản thế giới ngày càng trở nên hấp dẫn hơn.
2.1.

Những thành tựu trong công tác bảo tồn, phát huy di sản văn

hóa phi vật thể Việt Nam hiện nay
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giao lưu hội nhập
quốc tế, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương đường lối và chính
sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nhằm nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Trong những năm qua, nhiều sáng kiến nhằm phục hồi các hoạt động văn hóa
phi vật thể được thể nghiệm, nhiều cuộc trình diễn văn hóa truyền thống, văn
nghệ dân gian được tổ chức, nhiều sản phẩm thủ công truyền thống cũng có dịp
được giới thiệu rộng rãi với công chúng. Nhiều ngành nghề thủ công truyền
thống, hoạt động văn hóa truyền thống (văn hóa phi vật thể) được phục hồi, phát
triển phục vụ trở lại cho du lịch.
Nhờ vào việc từng bước hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về bảo tồn, phát
huy giá trị di sản văn hóa với việc ban hành Luật Di sản và các quyết định có
liên quan; việc tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lí nhà nước cho phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ được giao; huy động được sự tham gia của toàn xã hội đối
với hoạt động giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa; việc triển khai Chương
trình mục tiêu quốc gia về văn hóa... hoạt động bảo tồn phát huy di sản văn hóa
đã đạt nhiều thành tựu, không chỉ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng
10


cao và phong phú của nhân dân, mà còn góp phần đưa hình ảnh quốc gia tới bạn
bè thế giới, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
2.2.

Những hạn chế trong công tác bảo tồn và phát huy di sản văn

hóa ở Việt Nam hiện nay
Tuy đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ như ở trên, song đối với sự
nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thời gian qua còn lộ
ra những hạn chế về nhiều mặt.
Sự quản lý của các cơ quan nhà nước còn lỏng lẻo, dẫn đến nhiều di tích
tiếp tục bị xâm phạm, làm hư hại, thất thoát khá nặng nề. Không ít văn hóa phi
vật thể đang mai một dần, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số (chẳng hạn,
chữ viết các dân tộc chưa phát triển). Nhiều hoạt động lễ hội văn hóa có những

biến tướng nhằm trục lợi gây sự phản cảm, thậm chí bất bình với du khách...
Công tác tuyên truyền về di tích chưa được chú trọng, thông tin về di tích còn
hạn chế.
Về tổ chức bộ máy quản lý di sản, tuy mỗi di sản văn hóa đã có một tổ
chức quản lý riêng, song quy mô và cơ chế tổ chức của các cơ quan giữa các di
sản còn chưa thống nhất. Đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ ở một số cơ
quan quản lý di sản còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, nhất là trong bối
cảnh hiện nay, Việt Nam có nhiều di sản thế giới rất cần một đội ngũ cán bộ thực
sự có chuyên môn cao.
Đối với ngành du lịch, trong những năm qua, sự phối kết hợp giữa ngành
Văn hóa - Thông tin và Du lịch trong việc xây dựng một nền du lịch bền vững
tại các di sản văn hóa đã có và đạt được nhiều kết quả tốt, nhưng những kết quả
đó còn chưa xứng tầm với đòi hỏi phát triển du lịch bền vững. Sự phối kết hợp
còn chưa hài hòa giữa khai thác tài nguyên du lịch và bảo tồn di sản. Vẫn còn
tình trạng mạnh ai nấy làm. Chương trình mục tiêu chống xuống cấp và tôn tạo
di tích do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì còn chưa nhận được thông tin
đầy đủ từ Chương trình quốc gia về Du lịch và ngược lại.

11


Trong lĩnh vực văn hóa, chúng ta còn chịu những áp lực lớn từ bên ngoài.
Đó là sự áp đặt có chủ đích lối sống phương Tây xa lạ với phong tục, tập quán
của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Mặt khác xu thế “đua đòi”, tiếp thu thiếu chọn
lọc những yếu tố văn hóa ngoại lai trong lớp trẻ hiện nay cũng là một thách thức
không nhỏ.

12



CHƯƠNG III: NHỮNG ĐỀ XUẤT TRONG VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP
I.

ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY DI
SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
Từ xưa đến nay, vấn đề bảo tồn văn hóa đã được Đảng và Nhà nước ta đặc

biệt quan tâm, chú ý. Ngay từ đầu năm 1943, trong giai đoạn chuẩn bị Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng
La (Đông Anh, Hà Nội) đã thông qua Đề cương văn hóa Việt Nam do Tổng Bí
thư Trường Chinh trực tiếp dự thảo. Đây được coi là cương lĩnh văn hóa đầu tiên
của Đảng ta và có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho đến hiện tại. Đề cương văn
hóa Việt Nam đã xác định xây dựng văn hóa nước nhà, trong đó có văn hóa phi
vật thể, dựa trên ba nguyên tắc của nền văn hóa mới: dân tộc hóa, đại chúng hóa
và khoa học hóa. Có thể thấy, ngay từ những ngày đầu xây dựng và bảo vệ đất
nước, Đảng ta đã có cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của việc xây dựng và
bảo tồn nền văn hóa của dân tộc vì sự phát triển lâu dài của đất nước.
Không những vậy, Đảng ta đã có nhiều chính sách, chủ trương để góp phần
bảo tồn kho tàng di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam. Trong đường lối, chính
sách của mình, Việt Nam đã vận dụng nhiều quan điểm của UNESCO.
Tuy nhiên, có lẽ dấu mốc quan trọng nhất cho thấy sự thay đổi nhận thức
về di sản văn hóa phi vật thể của Nhà nước và nhân dân Việt Nam từ quá trình
tiếp thu những quan điểm của UNESCO chính là việc xây dựng đường lối và
xây dựng pháp luật về di sản văn hóa.
Về mặt đường lối, tất cả những quan điểm mới, nhận thức mới về văn hóa
và di sản văn hóa của UNESCO mà Việt Nam đã tiếp nhận bằng những hình
thức khác nhau từ những năm 80 đến nửa đầu năm 1998 đã được tiếp thu và vận
dụng trong xác định đường lối về văn hóa của Nghị quyết trung ương 5 khóa
VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam và “Chiến lược hoạt động văn hóa đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Chính phủ Việt Nam. Đường lối văn hóa
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã xác định tầm quan trọng của văn hóa và di
13


sản văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, coi “văn hóa
là nền tảng thúc đẩy kinh tế phát triển”, văn hoá “vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”. Đảng ta chủ trương: “Coi trọng và bảo
tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị
mới về vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. Bảo tồn và phát
triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực
lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật là người dân
tộc thiểu số”
Về xây dựng pháp luật, Luật Di sản văn hóa đã được soạn thảo từ năm
1997 và đến tháng 6/2001 đã được Quốc Hội Việt Nam thông qua. Đây là văn
kiện có tính khách quan, kịp thời và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tại thời điểm
đó. Sự ra đời của Luật Di sản văn hóa một lần nữa cho thấy nhận thức rõ ràng,
đúng đắn của Đảng và nhân dân ta đối với các di sản văn hóa của dân tộc, trong
đó có các di sản văn hóa phi vật thể. Đồng thời nó cũng là chủ trương, chính
sách hiệu quả nhất để bảo tồn nền văn hóa phi vật thể Việt Nam đang đứng trước
sự đe dọa bị mai một bởi hội nhập và công nghệ thông tin.
Luật Di sản văn hóa đã dành trọn vẹn một chương là chương III, từ điều 17
đến điều 27 để đề cập đến vấn đề này từ trách nhiệm của nhà nước, các cơ quan
nhà nước đến các nguyên tắc bảo vệ và phát huy các di sản đặc biệt này.
Sau khi Luật Di sản văn hoá chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2002 ,
Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 92-CP của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hoá. Nghị định này đã cụ thể hóa
việc bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể tại Chương II “Bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể” vào tháng 12/2002, đó là:



Điều tra, phát hiện, thống kê, phân loại và tư liệu hóa di sản văn hóa phi

vật thể (Điều 5)


Lựa chọn di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam để đề nghị Tổ

chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc công nhận là di
sản văn hóa thế giới (Điều 6.)

14




Những biện pháp cần thiết để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi

vật thể (Điều 7)


Bảo vệ và phát triển di sản văn hóa phi vật thể dưới hình thức tiếng nói,

chữ viết của các dân tộc ở Việt Nam (Điều 8); Khuyến khích việc duy trì,
phục hồi và phát triển nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu
(Điều9)


Việc duy trì và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống (Điều10)




Thẩm quyền và thủ tục cấp giấy phép cho người Việt Nam định cư ở nước

ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu, sưu tầm di sản
văn hóa phi vật thể ở Việt Nam (Điều 11)


Việc tôn vinh và chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ (Điều12).

Trong quá trình bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể, Chính phủ Việt Nam
có sự phối hợp với UNESCO về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá. Thực
hiện những trách nhiệm cụ thể của quốc gia thành viên tham gia Công ước 1972
của UNESCO, Điều 19, chương III, Luật Di sản văn hoá quy định cụ thể về
thẩm quyền, thủ tục việc đề nghị UNESCO công nhận các di sản văn hoá phi vật
thể là Di sản văn hoá Thế giới: “Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định việc
đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO)
công nhận di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam là Di sản văn hoá
thế giới theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin. Hồ sơ trình Thủ
tướng Chính phủ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng di sản
văn hoá quốc gia.”
Cho đến nay, đã có 7 Di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam đã
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
và di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp bao gồm: Nhã nhạc cung
đình Huế (2003), Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên (2005), Dân ca
quan họ Bắc Ninh (2009), Ca Trù (2009), Hội Gióng ở Phù Đổng và đền Sóc
(2010), Hát Xoan (2011), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (2012).
Nhờ có những chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước, cùng với
sự giúp đỡ của UNESCO không chỉ 7 di sản văn hóa phi vật thể nói trên mà còn
15



rất nhiều di sản khác đã thoát khỏi sự đe dọa biến mất vĩnh viễn trong kho tàng
văn hóa Việt Nam, đồng thời thu hút được sự chú ý của nhiều người, đặc biệt là
lớp trẻ - những người sẽ tiếp nối và phát huy chung trong tương lai.
Năm 2009, Luật Di sản văn hóa năm 2001 đã được sửa đổi, bổ sung để
phù hợp với tình hình đất nước và phù hợp với những quy định mới của Công
ước UNESCO 2003 mà Việt Nam đã tham gia với tư cách là quốc gia thành
viên. Một trong những nội dung bổ sung sửa đổi quan trọng của Luật Di sản văn
hóa là Định nghĩa về Di sản văn hóa phi vật thể được xác định tại Khoản 1 Điều
4: “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn
và các hình thức khác.”
Ngoài ra, những giải pháp nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
phi vật thể đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa, như sau:
Điều 7. Khuyến khích việc duy trì, phục hồi và phát triển nghề thủ công
truyền thống có giá trị tiêu biểu. Nhà nước khuyến khích duy trì, phục hồi và
phát triển nghề thủ công truyền thống thông qua các biện pháp sau đây:
1. Điều tra, phân loại các nghề thủ công truyền thống trong phạm vi cả nước;
hỗ trợ việc duy trì và phục hồi các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu
biểu hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền;
2. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác và sử dụng vật liệu truyền thống;
3. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ việc sử dụng các phương pháp, kỹ
thuật thủ công truyền thống;
4. Đẩy mạnh việc quảng bá sản phẩm thủ công truyền thống ở thị trường trong
nước và nước ngoài bằng nhiều hình thức;
5. Đề cao và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến và truyền dạy kỹ thuật,
kỹ năng nghề nghiệp các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu;


16


6. Có chính sách ưu đãi về thuế đối với các hoạt động duy trì, phục hồi và phát
triển nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu theo quy định của pháp
luật về thuế.
Điều 17. Nhà nước bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể
thông qua các biện pháp sau đây:
1. Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân loại di sản văn hóa phi vật thể;
2. Tổ chức truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại hình
di sản văn hóa phi vật thể;
3. Khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu
giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể;
4. Hướng dẫn nghiệp vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể
theo đề nghị của tổ chức, cá nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể;
5. Đầu tư kinh phí cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể, ngăn ngừa nguy cơ làm mai một, thất truyền di sản văn hóa phi vật thể.”
Đảng và Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc lập Danh mục di sản văn hóa
phi vật thể quốc gia. Sau khi Nghị định số 98/ NĐ-Ttg ra đời, một số văn bản
dưới Luật khác, đặc biệt là Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 6
năm 2010 của Bộ VHTTDL quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và
lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia được ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai
một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhất hiện nay để thực hiện Luật Di sản văn
hoá và Công ước 2003.
Bên cạnh đó, một số giải pháp đã được thực hiện ở Việt Nam nhằm nâng
cao nhận thức, huy động sự tham gia của cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể theo những khuyến nghị của
UNESCO.


17


II.

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ CHÍNH SÁCH, CHỦ TRƯƠNG TRONG VIỆC
PHÁT HUY BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
2.1.

Đề xuất một số chính sách, chủ trương việc phát huy bảo tồn di

sản văn hóa phi vật thể
Để hội nhập quốc tế mà không bị “hòa tan”, phát triển nhưng vẫn bảo vệ
được bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam cần phải
có phương pháp tiếp cận tổng thể và toàn diện về vấn đề phát triển. Đó chính là
tiền đề cho việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
Có thể thấy trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã nỗ lực không
ngừng trong việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, đặc biệt là văn hóa phi
vật thể. Nhiều chủ trương, chính sách đã được đề ra, những biện pháp thiết thực
đã được áp dụng vào thực tế và cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào.
Việt Nam có tới 54 dân tộc anh em lớn nhỏ nằm rải rác khắp các vùng miền
trong cả nước, trong đó mỗi dân tộc nhỏ đều mang những nét văn hóa đặc trưng
cần bảo tồn và phát huy. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên mà chúng ta cần hướng đến
đó là làm sao có thể vừa phát huy bản sắc riêng của mỗi dân tộc vừa qua đó làm
nổi bật lên kho tàng nét đẹp truyền thống vốn có của người Việt Nam. Tham
khảo những quan điểm đúng đắn và các mục tiêu mà PGS. TS. Thành Duy đã đề
xuất trong công trình nghiên cứu của mình “Văn hóa Việt Nam trước xu thế toàn
cầu hóa - thời cơ và thách thức”, chúng em xin đưa ra một số mục tiêu lớn về
chính sách văn hóa vì sự phát triển đối với các dân tộc ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất, phải đảm bảo một chiến lược phát triển văn hóa thích hợp với
các dân tộc, nhất là các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa có đời sống vật chất và đời
sống văn hóa tương xứng, ngày càng gần với các vùng văn hóa chung của cả
nước.
Thứ hai, đảm bảo một chính sách văn hóa nhằm tăng cường tính sáng tạo,
sự tham gia vào đời sống văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
thống nhất.

18


Thứ ba, đảm bảo một chính sách văn hóa nhằm bảo vệ những di sản văn
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể của từng dân tộc lớn và nhỏ trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Thứ tư, đảm bảo một chính sách văn hóa nhằm ủng hộ sự khác biệt về
ngôn ngữ, khuyến khích việc giảng dạy và xã hội thông tin theo ngôn ngữ riêng
của mỗi dân tộc cùng với ngôn ngữ chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
thống nhất.
Thứ năm, huy động nhiều hơn nữa nguồn nhân lực và tài chính cho việc
phát triển văn hóa các dân tộc, nhất là các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa.
Thứ sáu, Đảm bảo đúng tiến độ công tác thực hiện việc trùng tu các di sản
văn hóa nổi bật.
Với những mục tiêu lớn như vậy, cần khởi động những chương trình giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc nhằm truyền bá phong tục qua lại, giúp nhân dân
có cơ hội biết đến những nét truyền thống tiềm ẩn của nước ta mà trước đây
chưa từng có cơ hội được biết đến, qua đó có thể nâng cao tinh thần trách nhiệm
trong việc bảo tồn và truyền bá văn hóa trong cộng đồng người dân.
Không thể không thừa nhận chúng ta chưa có chính sách thỏa đáng về việc
quan tâm đến cả những người trực tiếp tạo nên những nét đẹp đó. Lâu nay, mối
quan tâm của chúng ta mới chỉ dừng ở các di sản văn hóa phi vật thể mà chưa

quan tâm đến chủ thể sáng tạo. Chúng ta cho rằng đó là sáng tạo của nhân dân
mà chưa ý thức đầy đủ khởi thủy sáng tạo, lưu truyền, lưu giữ, trao truyền các di
sản văn hóa phi vật thể từ thế hệ này qua thế hệ khác. Việc sưu tầm nghiên cứu,
nhất là việc ghi chép bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại không thể không
tính đến các nghệ nhân. Phát huy vai trò nghệ nhân trong cộng đồng là công việc
cần thiết mà chúng ta chưa có chính sách, chủ trương hữu hiệu. Chẳng hạn,
chính sách với nghệ nhân để họ truyền dạy cho cộng đồng những di sản mà họ
lưu giữ được trong tâm thức.
Bên cạnh đó, học tập kinh nghiệm làm ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa
của các nước đã có kinh nghiệm hơn và áp dụng nó để xây dựng cấu trúc ngân
hàng dữ liệu của văn hóa phi vật thể Việt Nam là một việc cần thiết. Tuy nhiên
19


đó không phải là một nhiệm vụ đơn giản bởi lẽ diện mạo loại hình, thể loại văn
hóa phi vật thể của Việt Nam không giống như diện mạo thể loại, loại hình phi
vật thể của các nước khác. Nắm vững những đặc trưng của di sản văn hóa phi
vật thể Việt Nam trong quá trình bảo tồn, sưu tầm, ghi chép tư liệu là yêu cầu có
tính tiên quyết với cán bộ làm công tác này.
Việc phổ biến, trao truyền di sản phi vật thể tới cộng đồng cũng nên được
quan tâm mạnh mẽ. Ngoài những ấn phẩm bằng văn tự là những ấn phẩm nghe
nhìn: ảnh, video,... để làm được những công việc phát huy kho tàng di sản văn
hóa phi vật thể, vấn đề cần quan tâm là phải có một kế hoạch hoàn chỉnh, xác
định những mốc thời gian cụ thể. Thêm vào đó, chúng ta cần xây dựng một
phòng di sản văn hóa phi vật thể tại các bảo tàng địa phương. Thời gian qua, các
bảo tàng mới chỉ có các hiện vật gồm những di sản văn hóa vật thể là chính.
Trong công tác bảo tồn và phát huy, chương trình giáo dục cộng đồng
những tri thức về di sản văn hóa phi vật thể là công việc không thể không làm.
Có thể vận dụng sự phát triển của công nghệ để làm điều này, ví dụ như làm các
chương trình dạy về lịch sử và truyền thống bằng tranh ảnh thú vị để tránh sự

khô khan trên TV hoặc qua Internet, cho học sinh, sinh viên đi thực tế ở các
vùng,...
Các chính sách văn hóa chỉ phát huy sức mạnh thực tiễn khi chúng thực sự
đi vào đời sống xã hội, thông qua hoạt động có tổ chức và được kiểm soát bởi hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh và các quy hoạch, kế hoạch,
chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Do đó, việc huy động sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội phụ vụ cho sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa cần được tiếp
cận ở nhiều cấp độ khác nhau:


Cá nhân, với tư cách chủ thể sáng tạo, trình diễn, giảng dạy, chuyển giao
và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể phải tham gia một cách tự giác và
được hưởng lợi ích vật chất và tinh thần trong các hoạt động.



Gia đình, là tế bào của xã hội, nơi có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp
nhất tới việc hình thành nhân cách của các cá nhân, là môi trường chuyển

20


giao các giá trị di sản văn hóa, cũng là nơi duy trì “nguồn gen” di truyền
văn hóa.


Làng xã, là địa điểm và không gian văn hóa truyền thống - nơi di sản văn
hóa phi vật thể đã được sáng tạo, hiện đang tiếp diễn, nơi hội tụ nhiều loại
hình di sản văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng. Như vậy, làng xã cần
được nhận thức là “trụ cột” quan trọng nhất làm nên bản sắc dân tộc và

nét đa dạng văn hóa của Việt Nam. .



Cộng đồng quốc tế, với khả năng thiết lập các tổ chức quốc tế và tổ chức
phi chính phủ sẽ đưa ra các khuyến nghị thông qua các công ước quốc tế,
đồng thời thiết lập các quỹ di sản văn hóa, nhằm hỗ trợ các quốc gia trong
sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa của các quốc gia và toàn nhân loại.
2.2.

Trách nhiệm của sinh viên đối với việc phát huy bảo tồn di sản

văn hóa phi vật thể:
Trách nhiệm bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của dân tộc, bao gồm
văn hóa vật thể và phi vật thể, là trách nhiệm không chỉ của Đảng, Nhà nước mà
còn của từng công dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ - những chủ nhân tương
lai của đất nước. Là sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng em ý thức
hơn bao giờ hết trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân với sự trường tồn của nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, nhất là trong thời kì công nghệ hiện đại phát
triển không ngừng làm thay đổi thế giới và con người từng phút, từng giờ.
Để bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống, trước hết, sinh
viên cần trau dồi và nâng cao kiến thức bản thân về các nét đẹp văn hóa truyền
thống, các di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể. Chúng ta cần hiểu được
để có được những di sản văn hóa ngày nay, ông cha ta đã phải trải một quá trình
sáng tạo, phát triển, gìn giữ và bảo tồn lâu dài. Bởi vậy, chúng ta cần tiếp nối,
tiếp tục phát huy và bảo tồn những nét đẹp đó để làm giàu thêm kho tàng văn
hóa nước nhà.
Không chỉ nâng cao kiến thức về văn hóa, di sản văn hóa, nét đẹp truyền
thống của dân tộc, mỗi sinh viên cũng cần tự tìm hiểu và nắm được những chủ
trương, chính sách và đường lối của Đảng trong việc bảo tồn và phát huy các giá

21


trị văn hóa phi vật thể, vật thể. Từ đó, chúng ta có thể vận dụng một các linh
hoạt và chính xác các biện pháp mà Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần không
nhỏ nâng cao tầm quan trọng, giá trị của các di sản văn hóa trong đời sống
thường ngày của người dân Việt Nam.
Bên cạnh việc nâng cao nhận thức, hiểu biết, việc rèn luyện đạo đức, ý
thức bảo tồn di sản văn hóa của đất nước cũng cần được các sinh viên chú trọng.
Mỗi người phải có ý thức tham gia nhiệt tình các hoạt động tuyên truyền, vận
động, giao lưu văn hóa ở nơi địa phương nơi sinh sống, học tập, công tác. Luôn
luôn chú ý cách cư xử và lời nói sao cho có văn hóa, phù hợp với truyền thống
lâu đời của dân tộc. xây dựng hình ảnh tốt đẹp về thế hệ trẻ nói riêng và người
dân Việt Nam nói chung trong con mắt của bạn bè quốc tế.
Cuối cùng, trong xu thế hội nhập toàn cầu ngày nay, sinh viên cần phải
trang bị cho mình một tư tưởng vững vàng để không bị các luồng văn hóa ngoại
nhập ảnh hưởng đến lối suy nghĩ và hành động của bản thân theo hướng tiêu
cực. Cần phải có biện pháp để “hòa nhập chứ không hòa tan”, tức là, tiếp thu
một cách có chọn lọc những nét đẹp văn hóa phù hợp với chuân mực đạo đức,
văn hóa Việt Nam; bài trừ, xóa bỏ những nét văn hóa không phù hợp; không
ngừng phát huy và giữ gìn di sản văn hóa nước nhà.
Giới trẻ chính là những người nắm giữ vận mệnh của đất nước. Một đất
nước có phát triển mạnh mẽ phụ thuộc rất nhiều vào nền tảng văn hóa tiến bộ,
đậm đà bản sắc dân tộc. Do vậy, ngay từ bây giờ các bạn trẻ hãy cũng nhau
chung tay bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể và vật thể vì một tương
lai nước Việt Nam phát triển, thịnh vượng, “có thể sánh vai với các cường quốc
năm châu” như Bác Hồ đã từng mong đợi.

22



KẾT LUẬN
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước,
Đảng ta đã “nhận thức ngày càng sâu sắc rằng xã hội, văn hóa là những lĩnh vực
thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tới, cần
đưa việc giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển văn hóa lên nhanh hơn nữa,
tương xứng với nhịp độ phát triển kinh tế”. Đường lối bảo toàn di sản văn hóa
phi vật thể của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới vừa qua đã góp phần quan trọng
vào việc giữ gìn nét văn hóa riêng biệt, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày
càng cao của nhân dân, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Đường lối này chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta. Những
đóng góp sáng tạo của Đảng về lý luận xây dựng con người, phát triển văn hóa
là một bộ phận quan trọng hợp thành lý luận đổi mới của Đảng.
Việc tổ chức và triển khai những quan điểm những nhiệm vụ về bảo tồn di
sản văn hóa phi vật thể trong 30 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên sự chuyển biến
tích cực trong đời sống văn hóa của đất nước. Những thành tựu và đóng góp về
lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trên lĩnh vực này đã góp phần phát huy
mạnh mẽ vai trò to lớn của văn hóa và con người trong sự nghiệp đổi mới.
Sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
cũng đem đến cả thời cơ và thách thức mới cho việc phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong quá trình này, việc tiếp tục bổ
sung, hoàn thiện đường lối, chính sách là một yêu cầu khách quan. Mặt khác,
việc tổ chức và triển khai nghiêm túc những quan điểm chỉ đạo, những nhiệm vụ
quan trọng trong chiến lược phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết định để biến tư tưởng của Đảng thành hiện
thực.
Trong quá trình này, chúng ta cần phát huy những thành tựu đã đạt được,
23



khắc phục những khuyết điểm và yếu kém của thời kỳ vừa qua, tranh thủ thời
cơ, quyết tâm thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp cấp bách nêu trên để
giành những thành tựu mới, tạo nên sự phát triển về chất để khẳng định sức
mạnh mới của văn hóa Việt Nam nói chung và di sản văn hóa phi vật thể nói
riêng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh tế
quốc tế.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa - thiên nhiên thế giới phục
vụ phát triển ở nước ta (Tạp chí Di sản văn hóa số 1 (14) - 2006)
2. Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể - từ góc nhìn toàn cầu hóa (Tạp chí
Di sản văn hóa số 21 - 2007)
3. Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1992, tr.24, 54.
4. Luật di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.26, 28.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.54, 56,
57.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Kết luận Hội nghị lần thứ mười, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khóa IX) Về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (Khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới”.
7. Trang web của Cục di sản Văn hóa ( />
25



×