Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài vai trò của khoa học – công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.67 KB, 17 trang )

I) Cơ sở lý luận về vai trò của KHKT trong vấn đề CNH, HĐH ở nông thôn
nước ta.
1) Các khái niệm:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp: là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi
hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ
sinh học đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản
xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.[1]
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn: là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao
động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và
lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy
hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản
xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ,
công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân ở nông thôn.[1]
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan niệm nêu trên có thể đi đến thống
nhất quan niệm chung về CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn như sau:
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình hoàn thiện phương thức
tổ chức, phương thức quản lý và ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm xóa bỏ cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn truyền thống, xây dựng cơ cấu kinh tế và kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn hiện đại, đưa nông thôn phát triển nhanh
và bền vững.
- Khoa học – kỹ thuật: là công cụ và cũng là sản phẩm của nền kinh tế trí
thức, đó là thành tựu khoa học – công nghệ được áp dụng vào trong lao
động sản xuất, không chỉ làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội loài



người mà còn tạo ra nhiều của cải vật chất hơn, làm tăng năng suất lao
động, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
2) Tính tất yếu khách quan phải áp dụng khoa học – công nghệ vào công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn.
- Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ biến
sản xuất nhỏ, lạc hậu và đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất, kỹ
thuật còn lạc hậu, lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông
nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu
nhập của nông dân thấp, đời sống mọi mặt của họ còn hết sức khó khăn.
Trong khi đó đến nay nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát
triển ở trình độ cao, mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp đã được cơ giới
hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá. Nhờ đó năng suất ruộng đất,
năng suất lao động của họ đạt rất cao, tạo sự phân công lao động sâu sắc
trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Mặt khác do yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhu cầu về
nâng cao đời sống con người: đó là xã hội càng phát triển, đời sống con
người càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và
thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.
Như vậy chỉ có một nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy
vọng đáp ứng được nhu cầu tăng lên thường xuyên đó.
- Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, trước hết là quá trình quốc tế hoá, khu
vực hoá các quan hệ kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại,
trao đổi thông tin khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ... buộc chúng
ta phải đẩy nhanh việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp để chúng ta có thể tận dụng vốn, khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý nước ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn và vận dụng vào quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta nhằm để tránh nguy cơ tụt hậu
về kinh tế, rơi vào tình trạng "bãi rác công nghiệp" của thế giới, dẫn đến
cuộc sống đói nghèo, lệ thuộc kinh tế nước ngoài...v.v.



Như vậy đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần
khẳng định trong bối cảnh quốc tế hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại là xu
hướng phát triển chung của thế giới. Trình độ công nghiệp hoá hiện đại hoá
biểu hiện trình độ phát triển của xã hội. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng là con
đường đúng đắn mà Đảng ta đã lựa chọn trong quá trình đi lên Chủ nghĩa Xã
Hội của mình, nó là "nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội", nó là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu và "nguy cơ tụt hậu" hơn so với các nước trong khu vực.

II) Vai trò của khoa học – công nghệ và đường lối của Đảng trong việc áp
dụng khoa học – công nghệ trong vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay.
1) Vai trò của khoa học công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Khoa học công nghệ là một trong bốn nguồn lực quyết định sự phát triển kinh tế
xã hội của mỗi quốc gia. Ngày nay, khi mà nhân loại bước vào kỷ nguyên tri
thức thì khoa học công nghệ càng khẳng định hơn vai trò quyết định đến quá
trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là Việt Nam đang bước vào
một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH, nó chính là động
lực lớn thúc đẩy và góp phần tích cực rút ngắn quá trình này. Nghị quyết Trung
ương II của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã xác định rõ: “CNHHĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ”, “Khoa học và
công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH-HĐH”. Chỉ bằng con
đường CNH-HĐH, phát triển khoa học và công nghệ mới có thể đưa nước ta từ
nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh văn minh. Cụ thể, những vai
trò quan trọng của khao học công nghệ đối với quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa ở nông thôn là:



- Khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, phát
triển ngành, cụ thể là: Đổi mới công nghệ sẽ thúc đẩy sự hình thành và
phát triển các ngành mới đại diện cho tiến bộ khoa học - công nghệ; dưới
tác động của đổi mới công nghệ, cơ cấu ngành sẽ đa dạng, phong phú,
phức tạp hơn; các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ sẽ phát triển
nhanh hơn so với các ngành truyền thống hao tốn nhiều nguyên liệu, năng
lượng, sức người,…
- Khoa học công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra
nhiều sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng
suất lao động, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên liệu… nhờ vậy sẽ tăng
khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Khoa học công nghệ sẽ giải quyết các nhiệm vụ bảo vệ môi trường, cải
thiện điều kiện sống và làm việc, giảm lao động nặng nhọc, độc hại; biến
đổi cơ cấu lao động theo hướng: nâng cao tỷ trọng lao động chất xám, lao
động có kỹ thuật, giảm lao động phổ thông, lao động chân tay,…
- Khoa học công nghệ hạn chế ảnh hưởng của thiên nhiên, cho phép phát
triển công nghiệp ngay cả khi thời tiết không thuận lợi.
 Khoa học - công nghệ tiết kiệm, thay thế sức người, sức của trong sản
xuất.
Ta thấy ở một quy trình sản xuất hiện đại tạo ra tác phong làm việc công nghiệp,
chuyên nghiệp, kỷ luật cao nên ở Nghị quyết trung ương II cũng đã nhấn mạnh
phải thật sự coi sự phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của
toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng. Bởi lẽ dù chúng ta
có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đưa trang thiết bị kỹ
thuật tân tiến nhất, những quy trình công nghệ hiện đại nhất vào nước ta thì cũng
không có gì để có thể bảo đảm đẩy mạnh được CNH-HĐH nếu không có được
những con người am hiểu và sử dụng chúng. Do đó, xã hội hoá tri thức khoa học
và công nghệ là một trong những nhu cầu thiết thực và cấp bách nhất để đẩy
mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.



2) Quá trình chỉ đạo của Đảng trong việc áp dụng khoa học – công nghệ
vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam.
a) Chủ trương
- Trong quá trình đổi mới và hội nhập ở nước ta, có nhiều nhân tố là động lực
quan trọng, tuy nhiên, tại Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ ra và khẳng
định khoa học, công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại và “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn
tới ... lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao
làm động lực chủ yếu”. Đây là sự đánh giá đúng đắn, khách quan, khoa học
và vai trò của khoa học, công nghệ trên quan điểm, lập trường chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta.
- Trong 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn coi “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” như Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã khẳng định.
- Ở Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX (tháng 3-2002) đã chỉ ra nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn bao hàm hai vế. Vế thứ nhất, đó là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Đây là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi
hóa, ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ, trước hết là công
nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu
sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trên thị trường. Ở vế thứ hai, đó là
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Đây là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và
lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm

và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy


hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản
xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ,
công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân ở nông thôn.
- Với mục tiêu tổng quát và lâu dài của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất
hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ tiên
tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày
càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày
càng hiện đại, Đảng ta đã đưa ra những chủ trương như phát triển lực
lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp; phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hóa
nông thôn; xây dựng đời sống văn hóa - xã hội và phát triển nguồn nhân
lực;... đồng thời bên cạnh đó, Đảng đã đề ra các giải pháp về quy hoạch,
khoa học - công nghệ, đất đai, tài chính, tín dụng, lao động và việc làm,
thương mại và hội nhập kinh tế.
b) Phương hướng
Ở nước ta, thông qua các văn kiện của Đảng và nhà nước, vai trò vị trí của khoa
học công nghệ trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn đã được xác định.

Trong xu thế toàn cầu hoá về kỹ thuật, sự cạnh tranh về hàng hoá và dịch vụ ở
thị trường trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt, tính cạnh tranh của hàng
hoá được nâng cao chủ yếu nhờ những tiến bộ khoa học - công nghệ của nhân
loại. Vì vậy việc xác định đường lối và chủ trương cũng như quan điểm chung

của hệ thống là nhiệm vụ to lớn hàng đầu của chủ thể. Đối với hệ thống kinh tế


xã hội trong xu thế sản xuất phát triển theo công nghệ. Xét về góc độ quản lý
chung của cấp nhà nước, Đảng đã có những chính sách hoạch định rõ đường lối
chủ trương và quan điểm phát triển cho cả nền kinh tế của đất nước nói chung và
nền nông nghiệp nói riêng, đó là:
- Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho nông nghiệp,
nông thôn, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu
quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới. Chuyển
dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá
trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường;
thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp,
dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Sớm khắc
phục tình trạng manh mún về đất canh tác của các hộ nông dân, khuyến
khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất; phát
triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập
trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành
nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị
trường và hiệu quả kinh tế cao.
- Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hoá, áp dụng công nghệ hiện
đại (nhất là công nghệ sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát
triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng
chuyên môn hoá, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất
lớn. Thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa
học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn. Giữ vững diện tích đất trồng lúa

theo quy hoạch, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và tăng
giá trị xuất khẩu gạo. Mở rộng diện tích, áp dụng công nghệ cao để tăng
năng suất, chất lượng các loại rau, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế.


Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán
công nghiệp với công nghệ tiên tiến.
- Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi
thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp,
thâm canh là chủ yếu đối với thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn;
gắn nuôi trồng với chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đẩy
mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ với ứng dụng công nghệ cao trong các
khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện đại hoá các cơ sở chế biến
thuỷ sản. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi
trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản. Coi trọng khâu sản xuất và
cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và
xuất khẩu.
- Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm,
khuyến ngư, công tác thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác
ở nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất
là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu
giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công
nghệ chế biến.

3) Kết quả của việc áp dụng khoa học – công nghệ vào quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn ở nước ta
a) Thành quả
- Phong trào thi đua ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới
vào sản xuất nông nghiệp đã được các ngành, các địa phương và người
dân hết sức chú trọng. Nhờ đó, năng suất cây trồng, vật nuôi ngày một

tăng lên.
- Nhiều mô hình kinh tế mới ra đời, nhất là các mô hình kinh tế trang trại,
gia trại với việc đưa vào trồng trọt, chăn nuôi các cây, con giống có chất
lượng và giá trị kinh tế cao góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho


người dân. Nhiều địa phương đã mạnh dạn chuyển đổi những diện tích
trồng lúa, ngô kém hiệu quả sang trồng các loại cây khác như đậu đỗ, dưa
hấu, ớt, lạc...
- Việc ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp được nông dân ở các
địa phương hết sức chú trọng. Hầu hết các khâu làm đất, gặt, đập... đều
được bà con sử dụng các loại máy. Trong chăn nuôi, bà con đã tích cực
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và thực hiện tốt công tác phòng chống
dịch bệnh nên số đàn gia súc, gia cầm phát triển khá tốt, tỷ lệ bò lai, lợn
ngoại tăng dần hàng năm.
- Trong gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đạt được mức tăng
trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian dài, các ngành trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản đều có tốc độ phát triển đáng kể.
+ Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 1986 đạt 65,1
nghìn tỷ đồng, năm 2005 đạt 182 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2,8 lần và đến
năm 2014 khoảng 830 nghìn tỷ đồng, trong đó: nông nghiệp đạt 617,5
nghìn tỷ đồng; lâm nghiệp đạt 23,9 nghìn tỷ đồng; thủy sản đạt 188,6
nghìn tỷ đồng. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2014 đạt mức tăng
5,98% so với năm 2013, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 3,49%, đóng góp 0,61% tăng trưởng.
+ Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã có bước tiến vượt
bậc. Năm 1986, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản chỉ đạt 400 triệu
USD, đến năm 2007 đã đạt tới 12 tỷ USD, năm 2014 đạt 30,86 tỷ USD.
Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao như: gạo, cà-phê, cao-su,
hạt điều, hồ tiêu, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản... tăng nhanh và đứng nhóm

hàng đầu thế giới.
- Đến thời điểm cuối năm 2014 xuất hiện ngày càng nhiều cơ sở, trang trại
chăn nuôi kiểu công nghiệp, áp dụng công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến,
hiệu quả cao.
+ Ngành thủy sản được đặc biệt quan tâm, giá trị sản xuất năm
2014 tăng 6,8% so với năm 2013. Khai thác thủy sản có chuyển biến mới


theo hướng đẩy mạnh khai thác xa bờ, áp dụng kỹ thuật và thiết bị tiên
tiến để nâng cao giá trị, chất lượng và hiệu quả khai thác.
+ Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản đã khắc phục khá thành công những
khó khăn về dịch bệnh. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản năm 2014 đạt
3.413 nghìn tấn, tăng 6,1% so với năm trước.
+ Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tiếp tục phát triển,
nhiều doanh nghiệp đã đứng vững, duy trì và mở rộng sản xuất; xuất hiện
nhiều cơ sở mới, trong đó một số cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản bằng
công nghệ cao.
- Ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp ngày càng phổ
biến theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức
canh tác tiên tiến. Đặc biệt, bên cạnh việc cơ giới hóa các khâu trong sản
xuất nông nghiệp như tưới nước, tuốt và làm sạch nông sản, chế biến thức
ăn chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản… các khâu sơ chế, bảo quản nông,
lâm, thủy sản sau thu hoạch cũng được ứng dụng công nghệ sản xuất tiên
tiến, giúp kéo dài thời gian bảo quản sản phẩm mà vẫn giữ được giá trị
dinh dưỡng.
- Đời sống nông dân và bộ mặt kinh tế nông thôn có thay đổi lớn. Từ một
nước thường xuyên thiếu đói, hằng năm phải nhập khẩu hàng triệu tấn
lương thực, đến nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn hàng
đầu thế giới. Thu nhập và đời sống người dân ngày càng được cải thiện, tỷ
lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,8% /năm; trình độ văn hoá,

khoa học, kỹ thuật của nông dân được nâng lên rõ rệt. Công tác chăm sóc
sức khoẻ, khám, chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hoá, thông tin, thể thao
cũng được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Hệ thống chính trị ở nông thôn
được tăng cường; vị thế giai cấp nông dân được nâng cao; an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
- Hiện nay, Việt Nam có 29 khu nông nghiệp ứng dụng Công Nghệ Cao đã
đi vào hoạt động, như: mô hình sản xuất rau an toàn, trồng hoa, cây cảnh
tại TP Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Lâm Đồng; sản xuất nấm quy mô trang
trại tại Vĩnh Phúc; vùng trồng chè theo công nghệ trồng, chế biến chè của


Đài Loan ở Thái Nguyên, Lâm Đồng…
- Đầu 2015, Tập đoàn Đức Long đã phối hợp với Vinamilk đầu tư khoảng
11 nghìn tỷ đồng nuôi 80.000 con bò sữa và 45.000 con bò thịt. Tập đoàn
TH, với sự trợ vốn mạnh mẽ từ Bac A Bank, dự kiến rót 1,2 tỷ USD
(tương đương 250 nghìn tỷ đồng) sản xuất sữa tươi với công nghệ Israel
từ A đến Z. Cty cổ phần Thực phẩm dinh dưỡng Nutifood và Cty TNHH
một thành viên Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản (Vissan) đã bắt tay phát triển
đàn bò thịt, bò sữa và một nhà máy chế biến sữa.
- Viện Nghiên cứu và phát triển vùng Việt Nam ứng dụng thành công công
nghệ CAS (Cells Alive System) - công nghệ đông lạnh nhanh kết hợp từ
trường - giúp quả vải giữ nguyên chất lượng, có thể vận chuyển, tiêu thụ
rộng rãi trên thế giới, tới các thị trường xa xôi nhất và nóng bức nhất.
- Ngành nông nghiệp Việt Nam đang tạo ra khoảng 20% GDP, đóng góp
tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2014 hơn 30 tỷ USD và là sinh kế của
hàng chục triệu hộ nông dân, khoảng 10.500 hợp tác xã nông nghiệp và
hơn 33.000 doanh nghiệp đang trực tiếp tổ chức sản xuất nông nghiệp trên
70 triệu mảnh ruộng; xuất khẩu hạt tiêu đứng thứ nhất, gạo, cà phê, sắn
đứng thứ hai, cao su đứng thứ tư, thủy - hải sản đứng thứ 5, chè đứng thứ
7 thế giới và rất nhiều mặt hàng khác nữa, với tổng kim ngạch xuất khẩu

năm 2014 hơn 30,8 tỷ USD[2].
b) Hạn chế
Mặc dù đã đạt một số kết quả ban đầu, nhưng theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế trong phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trong đó:
- Tổ chức sản xuất vẫn không đồng bộ, giá trị sản xuất chưa cao, khoa học
công nghệ chưa phát huy vai trò là động lực, là đòn bẩy trong sản xuất, sự
gắn kết giữa KHCN và hoạt động sản xuất kinh doanh còn khiêm tốn.
- Nông dân và doanh nghiệp làm nông nghiệp công nghệ cao vẫn đối mặt
nhiều thách thức về: huy động quỹ đất, kêu gọi đầu tư; tiếp cận vốn; giống
cây trồng còn phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu...


- Sản xuất nông nghiệp Việt Nam còn bị tác động mạnh, thách thức của
điều kiện ngoại cảnh, các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông
nghiệp còn nhỏ lẻ, phân bố không đồng đều, chưa đảm bảo giảm thiểu
được ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu bất thuận đến sản xuất nông
nghiệp. Nửa đầu năm 2017 cho thấy, còn rất nhiều bất ổn về thị trường
tiêu thụ nông sản, việc sản xuất sạch, sản xuất theo chuỗi còn chậm.
- Cho đến thời điểm này, việc xây dựng khu, vùng nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao trên toàn quốc và phát triển doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao chưa đáp ứng kế hoạch đã đề ra. Công tác triển khai xây dựng
khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thường bị kéo dài do những
chậm trễ liên quan đến công tác quy hoạch, khó khăn trong công tác đền
bù giải phóng mặt bằng, thiếu vốn đầu tư.
- Việc chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ vào thực tiễn sản xuất
thiếu đồng bộ từ khâu thiết kế, thi công, đào tạo lao động đến vận hành,
quản lý hệ thống chưa đáp ứng yêu cầu, thậm chí không phát huy hiệu
quả. Không ít doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu, chất lượng
sản phẩm thấp, khó cạnh tranh với các nước cùng xuất khẩu mặt hàng

nông sản. Chẳng hạn như bảo quản, chế biến gạo: Tỷ lệ thất thoát ở các
khâu thu hoạch, vận chuyển, làm khô, xay xát, bảo quản chiếm hơn 12%,
thiệt hại gần 800 triệu USD/năm. Tổng Giám đốc Tập đoàn Lộc Trời (tỉnh
An Giang) Huỳnh Văn Thòn cho biết, phần lớn doanh nghiệp chưa có dây
chuyền máy móc chế biến gạo liên hoàn do vậy công suất chế biến chỉ từ
16 đến 20 tấn/giờ. Để có dây chuyền xay xát gạo hiện đại với công suất
80 tấn/giờ, doanh nghiệp phải chi phí hơn 6 tỷ đồng, con số này vượt quá
khả năng của nhiều doanh nghiệp [3].
- Ứng dụng khoa học, công nghệ trong nông nghiệp nói chung, nuôi trồng
thủy sản nói riêng đã có nhiều tiến bộ, nhưng thiếu bền vững. Thực trạng
này là do năng lực quản lý, tài chính của cơ sở sản xuất thủy sản, nhất là
của hộ gia đình hạn chế, chưa đủ điều kiện để đầu tư dây chuyền sản xuất
đồng bộ. Nhiều thiết bị, công nghệ hiện đại được đầu tư nhưng chưa khai


thác hiệu quả như: Sử dụng máy PCR trong chẩn đoán sớm các loại bệnh
thủy sản, sử dụng máy dò ngang trong việc dò tìm và đánh giá đàn cá…
*Nguyên nhân:
- Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, do kinh tế hộ với ruộng
đất manh mún đã gây lực cản cho việc ứng dụng công nghệ cao trên quy
mô lớn, vì vậy hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao. Đồng thời, hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao chưa đồng bộ. Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao đòi hỏi nguồn vốn lớn.
- Trong tổ chức sản xuất, chưa có sự tham gia tích cực của doanh nghiệp
vào mối liên kết giữa nghiên cứu KHCN và chuyển giao, ứng dụng. Liên
kết giữa nhà khoa học - doanh nghiệp - nông dân còn yếu và thiếu bền
vững, số lượng doanh nghiệp trong nông nghiệp còn ít, chủ yếu là doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
- Các hộ sản xuất còn thiếu thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm trong

nước và xuất khẩu. Trong khi đó, nhận thức của một số địa phương về khu
và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa đúng nên có tình
trạng chạy đua xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhưng
nguồn lực có hạn, trông chờ vào trung ương.
III)

Biện pháp khắc phục những hạn chế còn tồn đọng và phương hướng

áp dụng khoa học – công nghệ vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn ở nước ta
Để thực hiện tái cơ cấu NN theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền
vững, gắn với xây dựng nông thôn mới, đòi hỏi ngành Nông nghiệp phải có
những giải pháp đồng bộ, trong đó, tập trung đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ
thuật và tổ chức lại sản xuất, ứng dụng sâu rộng KHCN, nhất là công nghệ sinh
học, thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp.


- Nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, đồng nghĩa
với quá trình chuyển giao KHCN của thế giới vào Việt Nam và sản phẩm
chất lượng cao sẽ cạnh tranh quyết liệt ngay trên sân nhà. Chính vì vậy,
các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay không có con đường nào khác là
phải ứng dụng KHCN vào sản xuất, kinh doanh, quản lý, nghiên cứu tạo
ra những sản phẩm tốt cho riêng mình hoặc hợp tác tạo ra những sản
phẩm chung mới có thể tồn tại và phát triển. Để làm được điều này, nhiều
doanh nghiệp kiến nghị Nhà nước nên gom các văn bản, chính sách về hỗ
trợ nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong nông nghiệp thành một chính sách
đủ mạnh và dễ thực hiện.
- Các cơ quan nghiên cứu khoa học cần hợp tác để chuyển giao những tiến
bộ khoa học cho doanh nghiệp; đồng thời, sẽ có cơ chế bảo đảm quyền lợi
cho doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp gặp rủi ro về vấn đề bản

quyền nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao KHCN trong nông nghiệp.
- Đặc biệt, để tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn nghiên cứu, nhiều doanh
nghiệp, đơn vị nghiên cứu đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn trình Chính phủ thành lập một quỹ đầu tư nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao KHCN để các doanh nghiệp được vay vốn. Đáng chú ý, theo
gợi ý của một số chuyên gia, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành liên
quan xây dựng chính sách trích một phần nhỏ giá trị các nông sản xuất
khẩu để tái đầu tư cho KHCN. Chẳng hạn, trích 1 USD/tấn gạo xuất khẩu
cho công tác nghiên cứu về lúa gạo. Đây cũng là cách làm đang được
nhiều nước áp dụng hiệu quả.
- Ngoài ra, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cần được điều chỉnh cho nhất quán,
đồng bộ, hỗ trợ các doanh nghiệp và người nông dân áp dụng khoa học
công nghệ vào việc phát triển nông nghiệp nông thôn một cách có hiệu
quả.
- Hệ thống thông tin tại các vùng nông nghiệp cần được xây dựng và hoàn
thiện để các hộ sản xuất có được thông tin đầy đủ về thị trường tiêu thụ


sản phẩm trong nước và xuất khẩu, đồng thời giúp nâng cao nhận thức của
người nông dân về quá trình áp dụng khoa học công nghệ để phát triển
nông nghiệp.
- Nguồn nhân lực vẫn là yếu tố đóng vai trò quyết định trong việc áp dụng
hiệu quả khoa học công nghệ trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn nước ta, do đó cần phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, được tiếp xúc rộng rãi với các thành tựu khoa học trong nước
và trên thế giới.



KẾT LUẬN
Qua phân tích toàn diện cả cơ sở lý luận, các chủ trương, phương hướng của
Đảng và các thành tựu của việc áp dụng khoa học – công nghệ trong quá trình Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong những năm đổi mới
vừa qua, ta có thể khẳng định: Khoa học – công nghệ có vai trò vô cùng quan trọng
trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam và
ciệc áp dụng khoa học – công nghệ vào quá trình này là tất yếu và phù hợp với mục
tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước thời kỳ này và đi theo đúng định
hướng của Đảng và Nhà nước đã đặt ra, đồng thời cũng phù hợp với xu thế phát triển
chung của Thế giới.
Tuy vậy, tình hình áp dụng khoa học – công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong nông ngiệp, nông thôn nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề,
chưa hoàn thiện hết. Điều này cũng dễ hiểu, vì nước ta tiến hành việc áp dụng khoa
học – công nghệ chưa lâu và chậm hơn so với các nước bạn vì hoàn cảnh chiến tranh
kéo dài. Vì vậy quá trình này phải diễn ra từ thấp đến cao, từ thí điểm đến mở rộng các
mô hình khác nhau và mỗi mô hình đều cần dự trên những điều kiện kinh tế và kỹ
thuật nhất định của ngành, địa phương hoặc vùng lãnh thổ được áp dụng, đồng thời
tham khảo kinh nghiệp của Thế giới, nhất là các nước mình học hỏi công nghệ và
chuyển giao công nghệ cho mình. Và với việc áp dụng ngày càng sâu rộng khoa học –
công nghệ vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay thì việc
chú trọng phát triển tri thức, khuyến khích nhân dân nghiên cứu, tự cải tiến khả năng
sản xuất và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để có thể vận hành và sản xuất máy
móc phục vụ nâng cao khoa học – công nghệ. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cần
đưa ra những chính sách, những bộ luật cụ thể hơn nữa về việc bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ cho khoa – học công nghệ và khuyến khích người nông dân áp dụng khoa học –
công nghệ vào đời sống của mình. Có như vậy việc khoa học – công nghệ mới thể hiện
được hết vai trò của mình trong việc giúp nông nghiệp nông thôn VN ta phát triển.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
(tháng 3 – 2002)



×