Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Đề tài khoa học lớp Đại học Luật Tên đề tài Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.75 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
KHOA LUẬT



ÑEÀ TAØI KHOA HOÏC
Lớp Đại học Luật từ xa

Tên đề tài: Vai trò của khoa học, công nghệ đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay

Giảng viên hướng dẫn: Thạc sĩ Trương Tấn Tài
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Trường


Mã số sinh viên: 154111088
Tên lớp: DX11L50

19 tháng 9 năm 2014


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

- DCCS: Dân chủ cơ sở
- CNH: Công nghiệp hóa.
- HĐH: Hiện đại hóa.
- HĐND: Hội đồng nhân dân.

- UBND: Ủy ban nhân dân.


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi, trên cơ sở kế thừa các công trình
đi trước, dưới sự hướng dẫn của thầy Trương Tấn Tài
và chưa từng công bố trên bất cứ phương tiện nào.
Nếu sai sự thật tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
và hủy bỏ kết quả học tập.
Người cam đoan


Nguyễn Văn Trường


Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện đề cương nghiên cứu khoa học này, do những
nguyên nhân khách quan và trình độ người thực hiện còn hạn chế nên không tránh
khỏi những sai sót, mong thầy và các bạn nhận xét và cho ý kiến để đề tài này thêm
hoàn thiện.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn thầy Trương Tấn Tài đã tận tình hướng
dẫn tôi hoàn thành đề cương nghiên cứu khoa học này.
Đại học Trà Vinh, ngày 17 tháng 9 năm 2014



MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….

1

1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………………..

1

2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài…………………………………………………


2

3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài……………………………………………

2

II. NỘI DUNG……………………………………………………………………

3

Chương 1. Thực trạng khoa học, công nghệ của Việt Nam………………………


3

1.1. Những thành tựu…………………………………………………………….

3

1.2. Những yếu kém và nguyên nhân chủ yếu……………………………………

5

Chương 2. Bối cảnh, cơ hội và thách thức……………………………………….


9

2.1. Bối cảnh quốc tế…………………………………………………………….

9

2.2. Bối cảnh trong nước…………………………………………………………

11

2.3. Cơ hội và thách thức ………………………………………………………..


12

Chương 3. Quan điểm và mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ…………...

13

3.1. Quan điểm phát triển khoa học và công nghệ ………………………………

13

3.2. Mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ …………………………………


15

Chương 4. Nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học …………………………….

18

4.1. Các nhiệm vụ trọng tâm nghiên cứu trong khoa học xã hội ………………..

18

4.2. Các nhiệm vụ trọng tâm nghiên cứu trong khoa học tự nhiên………………


20

4.3. Các hướng công nghệ trọng điểm …………………………………………..

21

III. KẾT LUẬN ………………………………………………………………….

26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………..


27

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát triển khoa học và công nghệ
(KH&CN) cùng với phát triển Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước.
Mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ KH&CN trong cả

nước, tiềm lực KH&CN đã được tăng cường, KH&CN đã có những đóng góp đáng
kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, trình độ KH&CN của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so
với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn
hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KH&CN nước
ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ
của KH&CN và kinh tế tri thức trên thế giới.
Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay là
sự yếu kém về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của nền
kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các nước
trong khu vực và khó có thể thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi
KH&CN phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước.
Tư tưởng phát triển KH & CN của Đảng ta đã được thể hiện trong các văn
kiện: Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1981; Nghị quyết số 26NQ/TW của Bộ chính trị; Nghị quyết TW 2 khóa VIII; Nghị quyết Đại hội IX năm
2001 và đặc biệt là "Chiến lược phát triển khoa học công nghệ đến năm 2010" mà
Đảng ta đưa ra trong văn kiện Đại hội IX là tập trung xây dựng nền KH&CN nước
ta theo hướng hiện đại và hội nhập, phấn đấu đạt trình độ trung bình tiên tiến trong
khu vực vào năm 2010, đưa KH&CN thực sự trở thành nền tảng và động lực đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược phát triển KH & CN có nhiệm vụ chủ yếu


sau: Xây dựng hệ thống KH & CN nước ta có liên kết, có động lực có năng lực đủ
mạnh và được quản lý theo những cơ chế thích hợp; đẩy mạnh hội nhập quốc tế về

KH & CN; góp phần quyết định nâng cao chất lượng tăng trưởng và khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế; phục vụ các hiệu quả có mục tiêu của Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Vai trò của khoa học,
công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
PGS.TS Tăng Văn Khiên, với công trình “Vai trò của khoa học công nghệ
đối với phát triển kinh tế xã hội”, công trình đã góp phần quan trọng vào việc làm
rõ vai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội chung
của thế giới và ngay cả Việt Nam, nhất là trong giai đoạn thế giới có sự chuyển
mình mạnh mẽ trong sự hợp tác cùng phát triển trên sân chơi chung WTO.

Đây là những lý luận hết sức quan trọng, nhằm định hướng các bước đi cơ
bản để Việt Nam có hướng thay đổi nền giáo dục theo hướng hiện đại, xây dựng
con người mới đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử cụ thể.
- Phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩ duy vật.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp Logic.

NỘI DUNG



CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
1.1. Những thành tựu
1.1.1. Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua,
chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở
lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và 16
nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34
nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KH&CN thuộc khu vực nhà
nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động KH&CN của đất nước.
Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ
được tri thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.

Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KH&CN với
trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó
có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao đẳng, trong đó có 30
trường ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu,
các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin KH&CN, thư viện, cũng được tăng
cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa
học, phát triển công nghệ với sản xuất - kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của
Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KH&CN đã đạt 2%, đánh
dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển
KH&CN của Đảng và Nhà nước.
1.1.2. Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế xã hội.



Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng định
giá trị khoa học và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học
phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp
phần vào thành công của công cuộc đổi mới nói chung và vào quá trình đổi mới tư
duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các phương án phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong
việc tiếp thu, làm chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ

nước ngoài. Nhờ đó, trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã
được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc
biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp KH&CN đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi
có chất lượng và năng suất cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa
nước ta từ chỗ là nước nhập khẩu lương thực trở thành một trong những nước xuất
khẩu gạo, cà phê, v.v... hàng đầu trên thế giới.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hoá, công nghệ cơ khí - chế tạo máy, đã góp
phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng
cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế. Khoa học và
công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo và nâng cao trình độ nhân
lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc và phát huy

truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
1.1.3. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về KH&CN được tổ chức từ trung ương đến địa
phương đã đẩy mạnh phát triển KH&CN, góp phần thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.


Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án
KH&CN đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế tuyển chọn tổ
chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN đã bước đầu được thực hiện theo nguyên
tắc dân chủ, công khai. Hoạt động của các tổ chức KH&CN đã mở rộng từ nghiên
cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ KH&CN. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá

nhân trong hoạt động KH&CN bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về hợp
tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động KH&CN được mở rộng.
Vốn huy động cho KH&CN từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể
nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho KH&CN. Đã cải tiến một bước
việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian.
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về KH&CN từng bước được
hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các
bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
1.1.4. Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân
dân ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích
cực của các tổ chức KH&CN, các tổ chức khuyến học, khuyến tài đã đưa KH&CN

đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức nông,
lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học ngày
càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước. KH&CN của người dân trong thời gian
qua đã tăng lên rõ rệt.
1.2. Những yếu kém và nguyên nhân chủ yếu
1.2.1. Những yếu kém


Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung KH&CN
nước ta còn nhiều mặt yếu kém, còn có khoảng cách khá xa so với thế giới và khu
vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém: Đội ngũ cán bộ

KH&CN còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các "tổng công trình sư", đặc biệt là thiếu
cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực KH&CN theo ngành
nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý. Đầu tư của xã hội cho KH&CN còn rất thấp,
đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu,
trường đại học nhìn chung còn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở
sản xuất tiên tiến cùng ngành. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực
KH&CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Hệ thống dịch vụ KH&CN, bao gồm thông tin KH&CN, tư
vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng còn
yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của
hội nhập khu vực và quốc tế. Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH&CN,

giáo dục - đào tạo và sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ
chức nghiên cứu - các trường đại học và các doanh nghiệp. So với các nước trong
khu vực và trên thế giới, nước ta còn có khoảng cách nghiên cứu KH&CN trong
dân số và mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo rất lớn về tiềm lực và kết quả
hoạt động KH&CN: tỷ lệ cán bộ đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu - phát
triển theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít. Nhìn chung, năng lực KH&CN nước ta còn
yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa gắn
kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ công
nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu: Ngoài những công nghệ tiên
tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính - viễn thông, dầu
khí, hàng điện tử tiêu dùngsản xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ công nghệ
của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với



các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang nặng
tính hành chính.
Quản lý hoạt động KH&CN còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào,
chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết
quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ KH&CN chưa thực sự gắn kết chặt
chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả
nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế. Cơ chế quản lý các tổ chức
KH&CN không phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức KH&CN chưa có được đầy đủ
quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính
năng động, sáng tạo. Việc quản lý cán bộ KH&CN theo chế độ công chức không
phù hợp với hoạt động KH&CN, làm hạn chế khả năng lưu chuyển và đổi mới cán
bộ. Thiếu cơ chế đảm bảo để cán bộ KH&CN được tự do chính kiến, phát huy
khả năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Chưa có
những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ KH&CN và chính sách
thu hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không
khuyến khích cán bộ KH&CN toàn tâm với sự nghiệp KH&CN. Cơ chế quản lý
tài chính trong hoạt động KH&CN chưa tạo thuận lợi cho nhà khoa học, chưa
huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; cơ chế tự chủ về tài
chính của các tổ chức KH&CN chưa đi liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên

hiệu quả còn hạn chế.
Thị trường KH&CN chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu
thông kết quả nghiên cứu KH&CN còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian,
môi giới, các quy định pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu
quyền sở hữu trí tuệ.


b) Những nguyên nhân chủ yếu.
Đường lối chính sách phát triển KH&CN của Đảng và Nhà nước chưa được
quán triệt đầy đủ và chậm được triển khai trong thực tiễn: Quan điểm KH&CN là
nền tảng và động lực phát triển đất nước đã được khẳng định trong các nghị quyết
của Đảng nhưng trên thực tế chưa được các cấp, các ngành, các địa phương quán

triệt đầy đủ và triển khai trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội.
Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KH&CN
chậm được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật; việc tổ chức, chỉ đạo
thực hiện chính sách thiếu kiên quyết nên kết quả còn hạn chế.
Năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý KH&CN các cấp còn yếu kém:
Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp ăn sâu vào tiềm thức và thói quen của
không ít cán bộ KH&CN và quản lý KH&CN đã tạo ra sức ỳ không dễ khắc phục
trong cơ chế mới, không đáp ứng được yêu cầu về đổi mới quản lý KH&CN trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bối cảnh toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế. Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động
KH&CN mà Nhà nước cần đầu tư phát triển như: các lĩnh vực KH&CN trọng
điểm, ưu tiên; nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển; nghiên cứu cơ bản;

nghiên cứu mang tính công ích, v.v...; cũng như chưa có cơ chế, chính sách phù
hợp đối với các hoạt động KH&CN cần và có thể vận dụng cơ chế thị trường, như
nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN.
Quản lý nhà nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ
thống KH&CN chưa được tách biệt rõ ràng, làm cho công tác quản lý các tổ chức
KH&CN còn mang nặng tính hành chính. Chậm tổng kết thực tiễn để nhân rộng
các điển hình tiên tiến về gắn kết giữa nghiên cứu KH&CN với giáo dục - đào tạo
và sản xuất - kinh doanh.
Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp: Đầu tư xây dựng
tiềm lực KH&CN trong thời gian dài còn chưa được chú trọng đúng mức, thiếu tập



trung vào lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, dẫn đến cơ sở hạ tầng KH&CN lạc hậu,
hiệu quả đầu tư thấp. Thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ
cao ở các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, đặc biệt là cán bộ KH&CN đầu ngành, các
"tổng công trình sư".
Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học
và công nghệ: Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của
Nhà nước, độc quyền của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
làm cho các doanh nghiệp nhà nước có tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng dụng
các kết quả nghiên cứu KH&CN và đổi mới công nghệ. Thiếu cơ chế, chính sách
hữu hiệu để gắn kết giữa KH&CN với sản xuất - kinh doanh và khuyến khích
doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN. Hệ thống tài chính, tiền tệ
kém phát triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn

vốn để đầu tư cho KH&CN.
CHƯƠNG 2
BỐI CẢNH, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM.
2.1. Bối cảnh quốc tế
a) Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ
Cuộc cách mạng KH&CN trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày
càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo
trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Nhờ những thành tựu to lớn của KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v..., xã hội loài người đang
trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền
kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ

hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.


Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng
đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN. Lợi thế
về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng
hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo,
ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Thời gian đưa
kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế
cạnh tranh đang thuộc về các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo
ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của

khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và KH&CN, các công ty xuyên
quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến.
b) Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Đây vừa
là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để bảo vệ
lợi ích quốc gia.
Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt,
những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao
chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức tổ chức quản lý,
đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế,
các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin - truyền thông, xu hướng phổ cập
Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân hàng điện tử,

Chính phủ điện tử, v.v... đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của các quốc gia
và từng doanh nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn
nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định
về pháp lý, v.v... thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao
đổi quốc tế là điều khó tránh khỏi.
2.2. Bối cảnh trong nước


Sau hơn 15 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,
làm nền tảng cho giai đoạn phát triển mới: nền kinh tế có mức tăng trưởng cao,
liên tục; tình hình chính trị, xã hội ổn định; xu thế dân chủ hoá, xã hội hoá ngày

càng mở rộng; đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt; quan hệ hợp tác quốc tế
được cải thiện.
Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định con đường đổi mới theo hướng
đẩy mạnh CNH, HĐH để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào
năm 2020; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết thực hiện các thoả thuận
trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tích cực chuẩn
bị tham gia WTO; tăng cường đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, phát triển kinh
tế tập thể, khuyến khích khu vực dân doanh, hỗ trợ mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp
vừa và nhỏ; đẩy mạnh cải cách hành chính, v.v...
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của nước ta đã xác định
mục tiêu phát triển tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến

năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao.
Trong bối cảnh đó, KH&CN có nhiệm vụ cung cấp kịp thời luận cứ khoa học
cho các quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà nước; đóng góp thiết thực vào việc
nâng cao hiệu quả và sức khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng các mục
tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
2.3. Cơ hội và thách thức
a) Cơ hội



Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển KH&CN, Đại hội IX
của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển KH&CN cùng với phát triển giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH đất nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa học, công
nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để
nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại,
nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình CNH,
HĐH và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí
tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có

thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức.
Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển
KH&CN của nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng
cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển
KH&CN, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng thành tựu KH&CN
trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu
vực và quốc tế.
b) Thách thức
Trong bối cảnh phát triển năng động và khó dự báo cả về KH&CN và kinh tế
của thế giới hiện đại, khả năng nắm bắt thời cơ và tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài tuỳ thuộc nhiều vào trình độ và năng lực KH&CN của quốc gia. Thách thức
lớn nhất đối với sự phát triển KH&CN nước ta hiện nay là phải nâng cao nhanh

chóng năng lực KH&CN để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn, trong điều
kiện nước ta còn nghèo, vốn đầu tư hạn hẹp, trình độ phát triển kinh tế và KH&CN
còn có khoảng cách khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực.


Trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên
nhiên, giá lao động rẻ dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo. Nước ta nếu không sớm chuyển đổi cơ cấu
ngành nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng lao động thì
sẽ không có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút đầu tư và
các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài.
Trong quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và KH&CN, nước ta đang đứng

trước những khó khăn về chuyển đổi và xây dựng những thể chế mới về kinh tế,
thương mại, tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, v.v... phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tình trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ cản trở sự thành công của quá trình hội
nhập khu vực và quốc tế.
Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết sách
đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, những biện
pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế
và KH&CN ngày càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồncông nghệ nhập
là khó tránh khỏi.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
3.1. Quan điểm phát triển khoa học và công nghệ

Quan điểm chủ đạo về phát triển KH&CN đã được chỉ rõ trong các văn kiện
của Đảng và Nhà nước, như: Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Luật KH&CN,
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX và Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX
mới đây. Những quan điểm này cần được cụ thể hoá và phát triển phù hợp với bối
cảnh mới trong nước và quốc tế trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
a) Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước


Để KH&CN nhanh chóng phát huy được vai trò là nền tảng và động lực
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nhà nước cần có chính sách quan tâm đặc biệt
đến phát triển KH&CN: coi đầu tư cho KH&CN là đầu tư phát triển; ưu tiên đầu

tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực; tạo động lực vật
chất và tinh thần mạnh mẽ cho cá nhân hoạt động KH&CN, trọng dụng và tôn
vinh nhân tài.
b) Phát triển kinh tế - xã hội dựa vào khoa học và công nghệ, phát triển khoa
học và công nghệ định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng và an ninh
Các chủ trương, quyết định, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội
quan trọng phải được luận cứ về KH&CN; các nhiệm vụ KH&CN phải hướng vào
giải quyết có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mọi ngành, mọi cấp phải đẩy
mạnh việc triển khai nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi thành tựu KH&CN vào
hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, từ việc định hướng chiến lược
phát triển, hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đến việc tổ chức

thực hiện.
c) Bảo đảm gắn kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo;
giữa khoa học và công nghệ; giữa khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên,
khoa học ký thuật.
Sự gắn kết giữa KH&CN với giáo dục - đào tạo trước hết phải được thực
hiện ngay trong các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển; đồng thời
có cơ chế khuyến khích kết hợp với biện pháp hành chính để tạo ra sự hợp tác, phối
hợp giữa các tổ chức này. Sự gắn kết giữa các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và giữa khoa học với công nghệ được
thực hiện trên cơ sở những nghiên cứu liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề
kinh tế - xã hội tổng hợp và phát triển bền vững đất nước.



d) Đẩy mạnh tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ thế giới, đồng thời
phát huy năng lực khoa học và công nghệ nội sinh, nâng cao hiệu quả sử dụng tiềm
lực khoa học và công nghệ của đất nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hợp tác
quốc tế về KH&CN phải được đẩy mạnh nhằm khai thác những cơ hội mà toàn cầu
hoá có thể mang lại. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cần lấy nhập công nghệ
từ các nước phát triển là chủ yếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của các
ngành kinh tế - kỹ thuật; đồng thời nâng cao năng lực KH&CN nội sinh để tiếp thu
có hiệu quả thành tựu KH&CN hiện đại của thế giới. Đổi mới cơ chế quản lý nhằm
khai thác tối đa năng lực KH&CN hiện có trong nước, vừa tranh thủ tiếp thu, ứng
dụng nhanh chóng có hiệu quả các thành tựu KH&CN của thế giới.

đ) Tập trung đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ.
Nhà nước tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; kết hợp đồng bộ giữa
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật với đầu tư đào tạo nhân lực
KH&CN, thực hiện dứt điểm các công trình để sớm phát huy hiệu quả đầu tư. Quan
điểm này phải được quán triệt ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển
KH&CN 5 năm và hàng năm trên cơ sở định hướng KH&CN trọng điểm được đề
ra trong Chiến lược phát triển KH&CN. Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia nghiên cứu,
ứng dụng và đầu tư phát triển KH&CN.
3.2. Mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ
Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2010 tập trung thực hiện 3 nhóm

mục tiêu chủ yếu.


a) Bảo đảm cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình công nghiệp hoá rút
ngắn, phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập thành công
vào nền kinh tế thế giới
Khoa học và công nghệ, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn tập
trungnghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình CNH rút ngắn và
xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng luận cứ
khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, các giải pháp phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền
kinh tế khu vực và thế giới; giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn

khác do cuộc sống đặt ra.
b) Góp phần quyết định nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và
năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, đảm bảo quốc phòng và an ninh
Đến 2010, KH&CN phải góp phần quyết định vào việc tạo ra sự chuyển biến
rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả ở một số ngành kinh tế quan trọng
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi kỹ thuật tiến bộ trong ngành
nông - lâm - ngư nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm nhằm phát
huy có hiệu quả nguồn tài nguyên sinh học nhiệt đới, nâng cao giá trị gia tăng và
sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu ngang bằng các nước có nền nông nghiệp
phát triển trong khu vực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo thêm
nhiều việc làm, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân và bộ mặt nông thôn nước ta
vào năm 2010. Hỗ trợ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực tiểu thủ công

nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và mở rộng xuất khẩu. Nâng cao
năng lực tiếp thu, làm chủ, thích nghi và cải tiến các công nghệ hiện đại nhập từ
nước ngoài trong một số lĩnh vực dịch vụ, kết cấu hạ tầng (tài chính, ngân hàng,
bưu chính, viễn thông, giao thông vận tải, hàng không, v.v...) nhằm đảm bảo sự
tương hợp quốc tế, hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Xây


dựng và phát triển có trọng điểm một số ngành công nghiệp công nghệ cao; phát
triển công nghiệp công nghệ thông tin - truyền thông, công nghiệp công nghệ sinh
học trở thành các ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, đáp ứng ngày càng
cao nhu cầu trong nước, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.

c) Xây dựng và phát triển năng lực khoa học và công nghệ đạt trình độ trung
bình tiên tiến trong khu vực
Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ đạt trình độ trung bình tiên tiến
trong khu vực: Bảo đảm tốc độ tăng tỷ lệ đầu tư cho KH&CN từ ngân sách nhà
nước phải lớn hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước, đồng thời đẩy mạnh đa dạng
hoá các nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho KH&CN. Phấn đấu đưa tổng
mức đầu tư của toàn xã hội cho KH&CN đạt 1% GDP vào năm 2005 và 1,5% GDP
vào năm 2010. Phát triển nguồn nhân lực KH&CN có chất lượng cao , có cơ cấu
trình độ, chuyên môn phù hợp với các hướng KH&CN ưu tiên, với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và được phân bố hợp lý theo vùng lãnh thổ. Phấn đấu đến năm
2010, nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ cán bộ KH&CN ngang mức trung
bình tiên tiến của các nước trong khu vực. Hình thành một số tổ chức nghiên cứu phát triển và một số trường đại học đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực ở

một số lĩnh vực công nghệ trọng điểm, một số ngành khoa học có thế mạnh của
Việt Nam. Hoàn thành xây dựng giai đoạn I, hai khu công nghệ cao tại Hoà Lạc và
thành phố Hồ Chí Minh; đưa vào sử dụng và khai thác có hiệu quả các phòng thí
nghiệm trọng điểm quốc gia đã được phê duyệt; nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật
một số tổ chức dịch vụ KH&CN quan trọng về thông tin KH&CN, tiêu chuẩn - đo
lường - chất lượng. Hình thành mạng lưới các tổ chức KH&CN đủ năng lực hội
nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ với giáo dục - đào tạo, sản xuất - kinh doanh.
Hình thành cơ chế quản lý quản lý khoa học và công nghệ tiến bộ, tương hợp
quốc tế: Đổi mới căn bản cơ chế quản lý KH&CN theo hướng phù hợp với cơ chế


thị trường, đặc thù của hoạt động KH&CN và hội nhập quốc tế; tạo động lực phát

huy sáng tạo của đội ngũ cán bộ KH&CN; nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN.
Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ: Đến năm 2010, KH&CN nước ta
đủ năng lực tiếp thu, làm chủ và sử dụng có hiệu quả công nghệ hiện đại nhập từ
nước ngoài; có khả năng nghiên cứu và ứng dụng một số công nghệ hiện đại, nhất
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ
tự động hoá, cơ - điện tử; tiếp cận trình độ thế giới trong một số lĩnh vực khoa học
Việt Nam có thế mạnh.
CHƯƠNG 4
NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
4.1. Các nhiệm vụ trọng tâm nghiên cứu trong khoa học xã hội và nhân văn
a) Nghiên cứu lý luận và thực tiễn con đường phát triển của Việt Nam
Tiếp tục nghiên cứu làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với

điều kiện của đất nước, con người, xã hội Việt Nam và thích ứng với những thay
đổi hiện nay của bối cảnh quốc tế. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá
trình công nghiệp hoá rút ngắn; các giải pháp đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH và
phát triển bền vững đất nước.
b) Nghiên cứu những vấn đề kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh
Nghiên cứu bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN); vấn đề đổi mới và tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam. Cung cấp luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước và các ngành, vùng trọng điểm. Đề xuất giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, năng lực tham gia vào các định chế tài chính tiền tệ quốc tế. Nghiên cứu đổi mới hệ thống chính trị, đề xuất giải pháp thực hiện
và phát huy dân chủ, củng cố vai trò của Đảng cầm quyền, cải cách bộ máy hành



chính nhà nước. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu
quan hệ sở hữu, đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nghiên cứu sự biến đổi của cơ cấu
xã hội và quản lý sự phát triển xã hội ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành
lang pháp lý thuận lợi cho việc tạo lập và phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghiên cứu những
vấn đề quốc phòng, an ninh của nước ta trong 10 năm tới phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về tiến trình lịch sử và diện mạo của
nền văn hoá Việt Nam, những giá trị văn hoá mới của Việt Nam, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

c) Nghiên cứu về phát triển con người Việt Nam
Nghiên cứu cơ bản về con người, nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể xã
hội, có trình độ học vấn cao, mang đậm tính nhân văn và các giá trị văn hoá tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của văn hoá - văn minh nhân loại, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của công cuộc CNH, HĐH đất nước.
d) Nghiên cứu dự báo các xu thế phát triển của thế giới
Nghiên cứu bản chất, đặc điểm, nội dung của cuộc cách mạng KH&CN hiện
đại và sự phát triển của nền kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI, trong đó chú trọng
mặt xã hội và sự tác động của cuộc cách mạng này đến tiến trình phát triển của Việt
Nam. Nghiên cứu và dự báo các xu thế phát triển chủ yếu của thế giới và khu vực
những thập niên đầu thế kỷ XXI, những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu
hoá. Dự báo động thái và xu thế phát triển chủ yếu ở khu vực và trên thế giới, tranh

thủ tối đa thời cơ và lợi thế, phòng ngừa và giảm thiểu các bất lợi, rủi ro, tập trung
mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục nghiên cứu chủ
nghĩa tư bản hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá, sự tác động về chính trị, kinh tế,
xã hội, văn hoá, quân sự của chủ nghĩa tư bản hiện đại, các chủ thể mới trong quan


hệ quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược phát triển của Việt Nam nhằm
định rõ vị thế, vai trò, bước đi, chính sách hội nhập của Việt Nam vào các thể chế
toàn cầu và khu vực.
4.2. Các nhiệm vụ trọng tâm nghiên cứu trong khoa học tự nhiên
Nhà nước quan tâm phát triển nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên,
đặc biệt là nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng. Trong giai đoạn đến năm

2010, các nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên cần được tiến hành có trọng
điểm theo một số hướng chủ yếu sau đây:
a) Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng nhằm hỗ trợ cho quá trình lựa
chọn, tiếp thu, thích nghi và cải tiến các công nghệ tiên tiến nhập từ nước ngoài vào
Việt Nam và tiến tới sáng tạo các công nghệ đặc thù của Việt Nam, nhất là trong
các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến,
công nghệ tự động hoá, cơ - điện tử.
b) Nghiên cứu làm rõ giá trị sử dụng của các loại tài nguyên của nước ta, làm
cơ sở xây dựng phương án và lựa chọn công nghệ khai thác có hiệu quả. Chú trọng
nghiên cứu tiềm năng về đa dạng sinh học và các loại tài nguyên quý đang có nguy
cơ cạn kiệt do khai thác quá mức và do môi trường suy thoái.
c) Nghiên cứu bản chất, quy luật của tự nhiên và những tác động của chúng

đến đời sống kinh tế - xã hội nước ta, trong đó chú ý các yếu tố khí tượng và tự
nhiên ở các vùng sinh thái, phục vụ dự báo phòng tránh thiên tai (bão lụt, cháy
rừng, trượt lở đất, nứt đất, xói lở bờ sông, bờ biển, bồi lấp các cửa sông, cửa đầm,
hạn hán, v.v...).
d) Nghiên cứu các vấn đề cơ bản về Biển Đông phục vụ cho dự báo các
nguồn lợi biển, phục vụ xây dựng các công trình trên biển và khai thác tổng
hợp các nguồn lợi từ biển, phát triển bền vững kinh tế biển, đảm bảo quốc
phòng, an ninh.


×