CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY VÀ ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆC LÀM
1.1 Các khái niệm
1.1.1. Nguồn lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người, trong quá
trình lao động, con người vận dụng sức lực của bản thân, sử dụng
công cụ lao động để tác động vào các yếu tố tự nhiên, biến đổi
chúng và làm cho chúng trở nên có ích cho đời sống con người.
Trong phát triển kinh tế, quá trình lao động đồng thời là quá
trình sử dụng lao động để đưa các tư liệu lao động vào sản xuất để
tạo ra sản phẩm, của cải vật chất cho xã hội.
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo
quy định của pháp luật có khả năng lao động và những người ngoài
độ tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Việc quy định cụ thể về độ tuổi lao động là khác nhau giữa các
quốc gia, thậm chí khác nhau qua các thời kỳ trong cùng một quốc
qia, tùy thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế. Đa số các
nước quy định cận dưới ( tuổi tối thiểu ) của độ tuổi lao động là
dưới 15 tuổi, còn cận trên ( tuổi tối đa ) có sự khác nhau ( 60 tuổi,
hoặc 65 tuổi…).Ở nước ta, theoo quy định của Luật lao động
(1994), độ tuổi lao động đối với nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi và nữ từ
15 tuổi đến 55 tuổi.
Nguồn lao động luôn được xem xét trên 2 mặt biểu hiện là số
lượng và chất lượng.
Xét về mặt số lượng, nguồn lao động bao gồm:
Bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm.
Và dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang
thất nghiệp, đang đi học, đang đi làm công việc nội trợ trong gia đình,
không có nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm
cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định).
Chất lượng của nguồn lao động về cơ bản được đánh giá ở
trình độ chuyên môn, tay nghề (trí lực) và sức khỏe (thể lực) của
người lao động.
2Lực lượng lao động
Lực lượng lao động theo quan niệm của tổ chức lao động quốc
tế (ILO) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định,
thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp song đang có
nhu cầu tìm việc làm.
Ở nước ta hiện nay, lực lượng lao động được xác định là bộ
phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất
nghiệp. Lực lượng lao động theo quan niệm như trên là đồng nghĩa
với dân số hoạt động kinh tế và nó phản ánh khae năng thực tế và
cung ứng lao động của xã hội.
1.1.3. Việc làm
Việc làm là một hoạt động được thường xuyên thực hiện để
đổi lấy việc thanh toán hoặc tiền công, thường là nghề nghiệp của
một người, Một người thường bắt đầu một công việc bằng cách trở
thành một nhân viên, người tình nguyện, hoặc bắt đầu việc buôn
bán. Thời hạn cho một công việc có thể nằm trong khoảng từ một
giờ (trong trường hợp các công việc lặt vặt) hoặc cả đời (trong
trường hợp của các thẩm phán). Nếu một người được đào tạo cho
một loại công việc nhất định, họ có thể có một nghề nghiệp. Tập
hợp hàng loạt các công việc trong cả cuộc đời là sự nghiệp của họ.
Tùy theo mục đích nghiên cứu mà người ta phân chia việc làm
ra thành nhiều loại:
Theo mức độ sử dụng thời gian:
Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời
gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác.
Việc làm phụ: là công việc mà người thực hiên giành nhiều thời gian
nhất sau công việc chính.
Ngoài ra, người ta còn phân chia việc làm toàn thời gian, bán
thời gian và việc làm thêm.
Việc làm toàn thời gian: Chỉ một công việc làm trong 8 tiếng mỗi
ngày, hoặc theo giờ hành chính 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày trong tuần.
Việc làm bán thời gian: Mô tả công việc không đủ thời gian giờ
hành chính quy định của Nhà nước 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày mỗi
tuần. Thời gian làm việc có thể dao động từ 0.5 đến 5 tiếng mỗi
ngày và không liên tục.
Việc làm thêm: Mô tả công việc không chính thức, không thường
xuyên bên cạnh một công việc chính thức và ổn định.
Trong thời kỳ hội nhập và toàn câu hóa hiện nay, Tổ chức lao
động quốc tế (ILO) còn khuyến cáo và đề cập tới việc làm nhân văn
hay việc làm bền vững.
1.1.4. Thất nghiệp
Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động, không có việc làm và đang tìm kiếm việc làm.
Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động
muốn có việc làm mà không tìm được việc làm ( từ Hán Việt thất:
mất mát, nghiệp: việc làm). Tỷ lệ thấy nghiệp là phần trăm số người
lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội.
Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x
Phân loại:
Theo loại hình thất nghiệp: thất nghiệp chia theo giới tính( nam, nữ ),
theo lứa tuổi, theo vùng lãnh thổ ( thành thị, nông thôn ), chia theo ngành
nghề ( ngành kinh tế, nông nghiệp,..) , theo dân tộc, chủng tộc,…
Theo lý do thất nghiệp:
Do bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho
rằng lương thấp, không hợp nghề, hợp vùng
Do mất việc: Các hãng cho thôi việc do những khó khăn trong kinh
doanh
Do mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa
tìm được việc làm ( thanh niên đến tuổi lao động đang tìm kiếm việc,
sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác…)
Quay lại: Những người dã ra khỏi lực lượng lao động nay muốn
quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
Theo nguồn gốc thất nghiệp:
Thất nghiệp tạm thời: là tình trạng không có việc làm ngắn hạn do
không có đầy dủ thông tin về cung – cầu lao động hoặc chờ đợi vào
những điều kiện lao động và thu nhập không thực tế hoặc liên quan đến
sự di chuyển của người lao động giữa các doanh nghiệp, giữa các vùng
và lĩnh vực kinh tế.
Thất nghiệp cơ cấu: là tình trạng không có việc làm ngắn hạn hoặc
dài hạn do không phù hợp về quy mô và cơ cấu cũng như trình độ của
cung lao động theo vùng đối với cầu lao động ( số chỗ làm việc ). Sự
không phù hợp có thể là do thay đổi cơ cấu việc làm yêu cầu hoặc do
biến đổi từ phía cung của lực lượng lao động.
Ở nước ta thất nghiệp cơ cấu biểu hiển rõ nhất trong những năm khi
mà GDP tăng trưởng cao nhưng thất nghiệp giảm không đáng kể, thậm chí
còn trầm trọng hơn với một số đối tượng như thanh niên, phụ nữ, người
nghèo và với những thành phố lớn.
Thất nghiệp nhu cầu là tình trạng không có việc làm ngắn hạn hoặc
dài hạn do giảm tổng cầu về lao động và làm nền kinh tế đình đốn hoặc suy
thoái, dẫn đến giảm hoặc không tăng số việc làm.
1.2. Vai trò của việc làm đối với cá nhân và xã hội
1.2.1. Vai trò của việc làm với cá nhân:
Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi
sống bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời
sống của cá nhân. Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ
tay nghề của từng cá nhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm
thường tập trung vào những vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về
điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng,..), vào những nhóm người nhất định (lao
động không có trình độ tay nghề, trình độ văn hoá thấp,..). Việc không có
việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao
trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn
có.
1.2.2 .Vai trò của việc làm với xã hội:
a, Trên bình diện kinh tế xã hội :
Đối với mỗi quốc gia , giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ tạo điều kiện
và cơ sở để triển khai các chính sách xã hội khác như phát triển văn hóa, y
tế, giáo dục..góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Về
mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu quả của việc
giải quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả của sản xuất. Về mặt
xã hội, giải quyết việc làm có mục tiêu hướng vào toàn dụng lao động,
chống thất nghiệp và khắc phục tình trạng thiếu việc làm bảo đảm thu nhập.
Đối với Việt Nam, việc làm còn gắn với công cuộc xóa đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm là biện pháp quan trọng, thiết thực xóa đói giảm nghèo.
b, Trên bình diện chính trị- pháp lí:
Chính sách việc làm không phù hợp tất yếu sẽ không hiệu quả đối với
vấn đề lao động – việc làm nói riêng và các vấn đề xã hội nói chung. Ở bất
kì quốc gia nào, việc làm đã, đang và luôn là vấn đề gay cấn, nhạy cảm, nếu
không được giải quyết có thể dẫn đến những “điểm nóng” và trở thành vấn
đề chính trị.
Trên bình diện pháp lí, việc làm là phạm trù thuộc quyền cơ bản của
con người. Quyền này đã được thừa nhận trong hiến pháp, luật và các công
ước quốc tế. Vấn đề việc làm còn gắn liền với chế độ pháp lí lao động, là cơ
sở hình thành, duy trì và là nội dung của quan hệ lao động.
c, Trên bình diện quốc gia - quốc tế.
Đối với mỗi quốc gia, chính sách việc làm và giải quyết việc làm là bộ
phận có vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống các chính sách xã hội nói
riêng và trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung.
Chính sách việc làm là chính sách cơ bản nhất của quốc gia, góp phần bảo
đảm an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Trong thời đại ngày nay, vấn đề
lao động việc làm không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà nó còn có tính
toàn cầu hóa, tính quốc tế sâu sắc. Trong xu thế hội nhập với kinh tế khu
vực và thế giới, các quốc gia không thể tránh khỏi áp lực ngày càng gia tăng
của tiến trình tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường về phương diện kinh
tế và phải đối mặt với các vấn đề việc làm, chuyển dịch lao động quốc tế về
vấn đề xội. Thị trường lao động không chỉ tồn tại trong đường biên giới
lãnh thổ quốc gia mà không ngừng được mở rộng sang các quốc gia khác và
trên phạm vi quốc tế. Chính vì vậy, từ góc độ pháp luật trong bối cảnh toàn
cầu hóa, ngoài cơ sở luật pháp quốc gia,vấn đề lao động – việc làm còn
được điều chỉnh hoặc chịu sự ảnh hưởng chi phối của các công ước quốc tế
về lao động .
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM
2.1. Các quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề giải quyết việc
làm
Ở nước ta, quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra hàng loạt vấn đề
bức xúc liên quan đến việc làm và chính sách giải quyết việc làm. Đây là
tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, góp phần
tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chủ trương giải quyết việc làm của Đảng
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với
mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao
động lớn như Việt Nam; giải quyết việc làm cho người lao động trong sự
phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu
quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế
thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế
giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ
trương, đường lối thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nhiều việc làm cho
người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống
nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 đã được thông qua tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: "Giải quyết việc làm là yếu
tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế,
làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc
của nhân dân". Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định
rõ: "Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết
cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học
nghề, tự tạo và tìm việc làm".
Chủ trương của Đảng tại Đại hội XII: “Tạo cơ hội để mọi người có
việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ
điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt nhất nguồn nhân
lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Chú
trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do
việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô
thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều
việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những
bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều
chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính
sách bảo hộ lao động”.
2.2. Thực trạng vấn đề việc làm và nguyên nhân thất nghiệp ở
nước ta hiện nay
2.2.1. Thực trạng vấn đề việc làm ở nước ta hiện nay
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, quy mô dân số và
mật độ dân cư tương đối lớn so với các nước trên thế giới và tốc độ phát
triển nhanh, trong lúc đó việc mở rộng và phát triển kinh tế, giải quyết vấn
đề việc làm gặp nhiều hạn chế như thiếu vốn sản xuất, lao động chưa được
phân bổ hợp lý, nguồn tài nguyên khai thác chưa hiệu quả,… làm cho chênh
lệch giữa cung và cầu về lao động rất lớn, gây ra sức ép lớn về vấn đề giải
quyết việc làm ở nước ta hiện nay.
Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên của cả nước quý I năm 2018 ước tính là 55,1 triệu người, giảm 70,7
nghìn người so với quý trước (trong đó, giảm chủ yếu ở khu vực nông
thôn), tăng 586,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Lực lượng lao
động trong độ tuổi lao động quý I năm 2018 là 48,4 triệu người, giảm
122,0 nghìn người so với quý trước, tăng 497,3 nghìn người so với cùng
kỳ năm trước. Lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là
16,1 triệu người, chiếm 33,3%, lực lượng lao động nữ trong độ tuổi là 22,1
triệu người, chiếm 45,8% tổng số lao động trong độ tuổi của cả nước.
Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm 2018 ước
tính là 54,0 triệu người, giảm 66,1 nghìn người so với quý trước, tăng
622,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Lao động từ 15 tuổi trở lên
có việc làm ở khu vực thành thị chiếm 31,9%, lao động nữ từ 15 tuổi trở
lên có việc làm chiếm 48,1% tổng số người có việc làm. Lao động từ 15
tuổi trở lên có việc làm trong khu vực khu vực Nông nghiệp, lâm nghiệp
và thuỷ sản ước tính là 20,9 triệu người, chiếm 38,6% (giảm 1,9 điểm
phần trăm so với cùng kỳ năm trước); khu vực Công nghiệp và xây dựng
là 14,4 triệu người, chiếm 26,7% (tăng 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ
năm trước); khu vực Dịch vụ là 18,7 triệu người, chiếm 34,7% (tăng 0,7
điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).
Số người thất nghiệp trong quý I năm 2018 là 1,1 triệu người, giảm 4,6
nghìn người so với quý trước, giảm 35,4 nghìn người so với cùng kỳ năm
trước. Tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn quốc quý I năm 2018 ước là 2,01%,
giảm 0,01 điểm phần trăm so với quý trước, giảm 0,09 điểm phần trăm so
với cùng kỳ năm trước. Số thanh niên (người từ 15 đến 24 tuổi) thất nghiệp
trong quý I năm 2018 ước khoảng 547 nghìn người, chiếm 49,4% tổng số
người thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên trong quý I năm 2018
ước là 7,25%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I năm 2018 ước
là 1,48%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với quý trước (giảm chủ yếu ở khu
vực thành thị), và giảm 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ
lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị ước là
0,55%, ở khu vực nông thôn ước là 1,94%.
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp trong quý
I năm 2018 ước là 56,8%, giảm 0,05 điểm phần trăm so với quý trước,
giảm 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động có việc
làm phi chính phi nông nghiệp quý I năm 2018 giảm chủ yếu ở khu vực
thành thị, tỷ lệ này ở khu vực nông thôn cao gấp 1,3 lần ở khu vực thành
thị, tương ứng là 63,8% và 48,3%.
Lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp nghề” trở
lên trong quý I ước tính là 11,6 triệu người, chiếm 21,5% số lao động có
việc làm trong cả nước.
Thu nhập bình quân tháng từ công việc chính của lao động làm công
hưởng lương trong quý I năm 2018 là 5,8 triệu đồng, tăng gần 263 nghìn
đồng so với quý trước và tăng 147 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.
Hiện nay, nước ta đang phải đối mặt với những thách thức to lớn. Cạnh
tranh diễn ra ngày càng gay gắt từ cấp độ sản phẩm doanh nghiệp đến toàn
nền kinh tế, từ bình diện trong nước đến toàn nền kinh tế, một số bộ phận
không thích nghi kịp có nguy cơ phá sản, người lao đông có nguy cơ phá
sản, người lao động có nguy cơ thất nghiệp cao, thiếu việc làm nhất là trong
lĩnh vực nông nghiệp. Chất lượng nguồn lao động nước ta chưa đáp ứng
yêu cầu, gây trở ngại trong quá trình hội nhập.
2.2.2. Nguyên nhân thất nghiệp ở nước ta hiện nay
Sự hạn chế trong công tác giải quyết vấn đề việc làm cho người lao
động ở nước ta hiện nay là do những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, lực lượng lao động phân bố không đồng đều giữa các vùng địa
lý kinh tế, chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Hồng (không bao gồm Hà
Nội) và đồng bằng sông Cửu Long, trong khi các vùng đất rộng có tỉ trọng
lao động thấp như trung du và miền núi phía Bắc hay Tây Nguyên chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số lực lượng lao động. Vì vậy, chưa tạo điều kiện
phát huy được lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho người lao động và góp
phần phân bố lại lực lượng lao động, đây chính là nguyên nhân tạo ra sự
mất cân đối cục bộ về lao động và là tác nhân của thất nghiệp, thiếu việc
làm.
Hai là, lực lượng lao động có chất lượng thấp. Theo đánh giá của
Ngân hàng Thế giới năm 2017, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam
chỉ đạt mức 3,39 điểm (trong thang điểm 10) trong khi một số nước trong
khu vực như Malaysia là 5,59, Thái Lan là 4,94… . Nguồn nhân lực nước ta
yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong lao động công
nghiệp... Ngoài ra, thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém,
chưa đáp ứng được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy
móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác chăm sóc sức khỏe và an
toàn nghề nghiệp chưa tốt; bên cạnh đó, kỷ luật lao động còn kém so với
nhiều quốc gia trong khu vực. Một bộ phận lớn người lao động hiện nay
chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và
hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm
việc theo nhóm, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy
sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Ba là, năng suất, hiệu quả lao động trong các ngành kinh tế thấp và có
sự khác biệt đáng kể giữa khu vực nông nghiệp với khu vực công nghiệp và
khu vực dịch vụ.
Bốn là, tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ vẫn thường
xuyên xảy ra. Thị trường lao động nước ta chủ yếu tập trung ở các thành
phố lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, nơi có nhiều KCX-KCN, như: Long
An, TP HCM, Bình Dương, Đồng Nai… Ngược lại một số tỉnh như Bạc
Liêu, Ninh Thuận, Thanh Hóa, Nghệ An lại có tình trạng dư cung, đang
phải đối mặt với tỉ lệ thất nghiệp cao.
Năm là, mặc dù đã tiến hành 2 đợt cải cách tiền lương (năm 1993 và
2004), bước đầu tách bạch tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh và khu
vực hành chính sự nghiệp, tạo điều kiện đổi mới chính sách tiền lương khu
vực sản xuất kinh doanh theo định hướng thị trường nhưng mức tiền lương
tối thiểu thấp chưa được tính đúng, tính đủ cho mức sống tối thiểu và chỉ
đáp ứng được 70% nhu cầu cơ bản của người lao động, thấp hơn mức lương
tối thiểu thực tế trên thị trường khoảng 20% và hiện nay mới đạt khoảng
45% mức tiền lương tối thiểu trung bình của khu vực ASEAN.
Sáu là, công tác quản lý nhà nước về lao động - việc làm còn nhiều
hạn chế, các chính sách, pháp luật đang từng bước hoàn thiện, hệ thống
thông tin thị trường lao động còn sơ khai thiếu đồng bộ. Chính sách bảo
hiểm thất nghiệp hết sức tiến bộ nhưng chưa đạt được mục tiêu như mong
muốn nhằm không chỉ hỗ trợ cuộc sống người lao động khi mất việc làm
mà còn phải đào tạo nghề, tư vấn, hỗ trợ để giúp quay lại thị trường lao
động. Việc đãi ngộ lao động ở nước ta hiện nay cũng chưa phù hợp, chưa
tương xứng, đang là cản trở cho việc phát huy tiềm năng và sức sáng tạo
của lao động qua đào tạo. Chúng ta dễ thấy sự chêch lệch đến độ khó tưởng
trong đãi ngộ giữa thủ khoa đại học, huy chương Vàng Olympic các kỳ thi
học sinh giỏi quốc tế, mức thưởng cho một phát minh sáng chế… với tiền
thưởng cho “hoa hậu”, tiền cát-xê cho các “sao”… Hiện tượng “chảy máu
chất xám”, đào tạo nhân tài nhưng lại không sử dụng được người tài, đào
tạo để “người khác” sử dụng vẫn đang phổ biến ở nước ta hiện nay đều có
nguyên nhân từ cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với nguồn nhân lực chất
lượng cao của đất nước.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM GIẢI
QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ KHÓ KHĂN VỀ TÌM VIỆC LÀM Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.1 Một số giải pháp
3.1.1 Tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung
pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động
và người lao động.
Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao
động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công; khắc phục tình trạng bất
hợp lý với người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài và kể cả một số doanh nghiệp trong nước như hiện nay, người
lao động phải được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao
động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi
trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
3.1.2 Phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nhanh chóng tạo ra việc làm và khả
năng thu hút lao động vào sản suất
Phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một doanh nghiệp. Phát triển
kinh tế trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp. Đặc biệt coi trọng phát
triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát
triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu để tận dụng lao động dư thừa và lao động có ngành
nghề truyền thống của nước ta. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thúc đẩy thị
trường lao động trong nông nghiệp và thị trường xuất khẩu lao động ngày
càng phát triển cao hơn nữa.
3.1.3 Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có trình
độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, nhất là ở
khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu
công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động đang có nhu cầu
thu hút mạnh. Tập trung xử lý lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà
nước theo hướng chuyển đổi ngành nghề cho họ. Khắc phục tình trạng
"đóng băng” trong đổi mới cơ cấu lao động làm ảnh hưởng tới sự phát triển
đa dạng và chiều sâu của nền kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Chuyển mạnh các
đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công sang đơn vị tự chủ, tự chịu
trách nhiệm và thực hiện chế độ hợp đồng lao động để lao động khu vực
này có điều kiện tham gia vào thị trường lao động trong nước và ngoài
nước, nâng cao hiệu quả của lao động.
3.1.4 Mở rộng và phát triển thị trường lao động nước ngoài
Đây là một trong những thế mạnh của lao động nước ta về số lượng
đông và trẻ. Vì vậy phải tập trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động
xuất khẩu, nhất là thanh niên nông thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận
được với thị trường lao động của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với
những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu cầu thu hút lao động
cho các ngành nghề sản xuất.
3.1.5 Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghề
Nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ
(sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Cần mở rộng đào tạo và
đào tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên. Có
như vậy mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động trong
những năm tới. Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo
định hướng nhu cầu lao động của thị trường (đào tạo gắn với sử dụng, gắn
với nhu cầu của sản xuất) tạo khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao
về tay nghề và sức khỏe tốt, có kỹ thuật, tác phong công nghiệp, có văn
hóa ... cho thị trường trong nước và thị trường ngoài nước.
3.1.6 Đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của
Nhà nước, của tư nhân và quốc tế
Áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành thị
trường phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ
thống dạy nghề kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây
dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia. Đối với tỉnh, thành phố
cũng phải có trường dạy nghề; các quận và huyện cũng cần có các trung
tâm dạy nghề; cổ phần hóa các cơ sở dạy nghề công lập, phát triển cơ sở
dạy nghề ngoài công lập để giảm chi phí ngân sách cho Nhà nước. Đa dạng
hóa các kênh giao dịch trên thị trường lao động bằng thông qua các hệ
thống thông tin, quảng cáo, trang tin việc làm trên các báo, đài và tổ chức
các hội chợ việc làm để tạo điều kiện cho các quan hệ giao dịch trực tiếp
giữa người lao động và người sử dụng lao động ký kết các hợp đồng lao
động theo đúng quy định của pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng trước hết ở các vùng
kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung và
cho cả xuất khẩu lao động để giúp người lao động tìm kiếm việc làm thuận
lợi nhất.
3.2 Một số kiến nghị
Do vấn đề việc làm của nước ta vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm,
chú trọng. Vì vậy, nhà nước, các cơ quan có trách nhiệm đề ra các kiến nghị
kịp thời, chính xác cho các cá nhân nhằm giải quyết các vấn đề việc làm.
Thứ nhất, do hiện nay, sinh viên có rất nhiều người lựa chọn trường
đại học nhưng không có sự định hướng cho khả năng đầu ra sau này vì chỉ
chọn vì nó “hot”. Đây là tư tưởng không hợp lí, gây ra tình trạng thừa thiếu
bất hợp lí trong xã hội. Do đó, cần:
Kiến nghị với các cá nhân, đả thông tư tưởng chạy đua theo phong
trào.
Chính bản thân đối tượng được đào tạo cũng như các bậc phụ huynh
cần phải đánh giá lại cách nhìn nhận làm sao để chọn hướng đi phù hợp cho
con em mình và hoàn cảnh gia đình mà vẫn có ích cho xã hội. Nhưng sinh
viên ra trường cũng cần có cách nhìn nhận đúng đắn hơn trong việc chọn
nghề nghiệp, tránh tư duy “thấp không lao, cao không với” hay “việc nhẹ
lương cao”.
Nhà nước cần khuyến khích, kiến nghị các doanh nghiệp đẩy mạnh,
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư, phát triển, mở
rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Kiến nghị người lao động cần tich cực học hỏi để nâng cao trình độ
chuyên môn cho công việc và đơn vị sử dụng cũng có nhiều cơ hội để thu
hút nhiều hơn lực lượng lao động được đào tạo với chất lượng cao.
Bên cạnh đó, cũng có những kiến nghị đối với nhà nước như sau: Nhà
nước là người quản lí ở tầm vĩ mô do vậy nhà nước cần đưa ra những chính
sách hợp lí để thu hút và tạo điều kiện cho người lao động. Đặc biệt là sinh
viên, tạo điều kiện cho sinh viên vào học các ngành nghề kĩ thuật mà hiện
nay một đất nước đang trên con đường công nghiệp hóa rất cần đến. Đồng
thời, nhà nước cũng nên quan tâm đến việc làm ở các vùng sâu vùng xa,
động viên họ cả về mặt vật chất và tinh thần để họ có thể yên tâm đem hết
tâm huyết và năng lực ra để phục vụ cho đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra mục tiêu: "Giải
quyết việc làm cho 8 triệu lao động... Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/
năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%... Phát triển đa dạng các ngành,
nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến khích tạo thuận lợi để
người lao động học tập nâng cao trình độ lao động, tay nghề; đồng thời có
cơ chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”.
Cần kiến nghị nhà nước có những chính sách việc làm hợp lí:
Về hoàn thiện thể chế phát triển thị trường lao động
Trong những năm đổi mới, nhất là từ giai đoạn 2001 đến nay, hệ thống
pháp luật kinh tế tiếp tục được hoàn thiện (Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Thuế, Luật Phá sản...) đã góp phần
giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển. Bộ
luật lao động, sửa đổi bổ sung năm 2002 và 2006, Luật bảo hiểm xã hội,
Luật dạy nghề, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, các
nghị định, thông tư liên quan tới lao động, thị trường lao động và việc làm
đã hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường lao động phát triển, tăng cường
cơ hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao động. Các chế độ về tiền lương,
thu nhập, trợ cấp ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao năng suất lao
động và cải thiện thu nhập của người lao động.
Về kết nối cung cầu lao động
Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992, đã tạo môi trường
pháp lý phát triển dịch vụ kết nối cung-cầu về lao động, tăng cường cơ hội
để người lao động tiếp cận thông tin về việc làm, lựa chọn công việc. Đặc
biệt, với việc sửa Điều 18 của Bộ luật lao động năm 1995, Nghị định số
19/2005/NĐ-CP ngày 28/5/2005 và Nghị định số 71/2008/NĐ-CP của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2005/NĐCP đã từng bước hoàn thiện khung pháp lý cho dịch vụ việc làm. Cùng với
các trung tâm giới thiệu việc làm công lập, các doanh nghiệp cũng được
phép hoạt động giới thiệu việc làm, kể cả sự tham gia của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
Về hỗ trợ lao động di chuyển
Cần có các chính sách phát triển đô thị, các khu công nghiệp, khu chế
xuất, các vùng kinh tế trọng điểm... cũng có tác động kích thích di chuyển
lao động, nhất là di chuyển nông thôn - đô thị, góp phần chuyển dịch cơ cấu
lao động, nâng cao điều kiện về việc làm và thu nhập cho lao động nông
thôn.
Đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh: Cần có các chính sách ưu đãi
đặc biệt để doanh nghiệp và hộ gia đình tạo việc làm và xuất khẩu lao động.
Đối với người lao động: Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tín
dụng ưu đãi cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật,
thanh niên: hỗ trợ hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất thông qua Chương
trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo.
PHẦN KẾT LUẬN
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, các vấn đề
xã hội mới nảy sinh ảnh hưởng đến xu hướng phát triển chung của cả đất
nước. Quy luật của thị trường và sự vận động không ngừng của xã hội đòi
hỏi bất kỳ một quốc gia nào cũng cần có một chính sách cụ thể để điều tiết
cho phù hợp. Chúng ta có thể đánh giá một nước phát triển dựa vào trình độ
quản lí cũng như giải quyết về an sinh xã hội, trong đó có vấn đề việc làm.
Nguồn lao động của nước ta hiện nay có rất nhiều thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế đất nước, song bên cạnh đó chúng ta cũng gặp phải không
ít khó khăn khi mà hội nhập hóa đang ngày càng được đẩy mạnh, yêu cầu
về nguồn lao động chất lượng cao được chú trọng. Chính vì vậy từ những
phân tích ở trên, cũng như tình hình thực tế hiện nay ở Việt Nam ta có thể
thấy được tầm quan trọng trong việc quản lý của Đảng và Chính phủ đối
với các chính sách về vấn đề việc làm hiện nay.
Bài tiểu luận này thực hiện dựa trên cơ sở tìm hiểu thực trạng về vấn
đề của việc làm của nước ta hiện nay cũng như những chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng trong việc giải quyết khó khăn về vấn đề việc làm.
Bên cạnh đó dựa vào sự hiểu biết và vốn kiến thức của mình chúng
em cũng xin đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm giải quyết các vấn đề
khó khăn về tìm việc làm ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù đây chưa hẳn đã là
những giải pháp hữu hiệu nhất để giải quyết những khó khăn, vướng mắc
đang tồn tại nhưng chúng em hy vọng rằng với việc nghiên cứu và đưa ra
những giải pháp, tiểu luận này sẽ góp phần thiết thực, tạo ra những cơ sở
nhất định cho việc xây dựng chiến lược lâu dài trong việc giải quyết vấn đề
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ths. Nguyễn Thúy Hà, Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp, Trung
2.
3.
4.
5.
6.
tâm Nghiên cứu khoa học - Viện Nghiên cứu lập pháp, 7/6/2013
Tạp chí Cộng sản, TS. Trương Thị Thanh Quý, Đẩy mạnh việc thực hiện
chính sách an sinh xã hội bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam
hiện nay, 22/3/2018
Văn Kiện Đại Hội Đảng lần thứ XII, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, trang 79-83
Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1-6-2012 của Ban Chấp hành Trung Uơng
khóa XI
Trần Việt Tiến, “Chính sách việc làm ở Việt Nam: Thực trạng và định
hướng hoàn thiện”, Tạp chí Kinh tế phát triển số 181, trang 40-47
Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân. Quản lý nguồn nhân lực ở Việt
Nam: một số vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội,
2004.
7. Tổng cục Thống kê, Điều tra lao động và việc làm Việt Nam, 2017.