Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.92 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG
TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

PHAN MẠNH HÀ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ ĐÌNH VINH

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết quả khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phan Mạnh Hà


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ đạo


nhiệt tình và quý báu của TS Lê Đình Vinh và tập thể các giảng viên Khoa
sau Đại học - Trường Đại học Mở Hà Nội.
Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại
học Mở Hà Nội, khoa Luật, Phòng Đào tạo và Khoa sau Đại học của nhà
trường cùng các giảng viên, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong
quá trình học tập.
Do thời gian có hạn, luận văn của tôi sẽ còn nhiều thiếu sót, tôi rất
mong nhận được sự đóng góp của các Thầy/cô và quý độc giả.
Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2019
Tác giả luận văn

Phan Mạnh Hà


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
AAA

American Arbitration Asociation
Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ

HKIAC

Hong Kong International Arbitration Centre
Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông

JCAA

Japan Commercial Arbitration Association

Hiệp hội trọng tài thương mại Nhật Bản

SCC

Arbitration Institute of the Stockholm Chamber
of Commerce
Hiệp hội trọng tài Stockholm

SIAC

Singapore International Arbitration Centre
Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TP

Thành phố

UNCITRAL United Nations Commission on International Trade Law
Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
VCCI

Vietnam Chamber of Commerce and Industry
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

VIAC


Vietnam International Arbitration Center
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG, BIỂU

STT

Tên bảng, biểu

Số trang

Biểu đồ 2.1. Số vụ tranh chấp áp dụng biện pháp khẩn cấp
1

tạm thời tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên
cạnh Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam giai

57

đoạn 2010-2018
Bảng 2.1. Tỷ lệ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
2

trong tố tụng trọng tài thương mại tại Trung tâm trọng tài

quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010-2018.

59


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1.

LỜI MỞ ĐẦU

1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI

10

THƯƠNG MẠI VÀ CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái quát về trọng tài thương mại

10

1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của trọng tài thương mại


10

1.1.2.

Tố tụng trọng tài thương mại

19

1.2.

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng

25

trọng tài thương mại
1.2.1.

Khái niệm và đặc điểm của biện pháp khẩn cấp tạm

25

thời trong tố tụng trọng tài thương mại
1.2.2.

Sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm

28

thời trong tố tụng trọng tài thương mại

1.2.3.

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong

29

tố tụng trọng tài thương mại
CHƯƠNG 2.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP

31

KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
2.1.

Các văn bản pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm

31

thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam
2.2.

Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về biện

32


pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài

thương mại
2.2.1.

Quy định về thẩm quyền áp dụng

32

2.2.2.

Quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời

35

2.2.3.

Quy định về trình tự, thủ tục áp dụng

44

2.2.4.

Trách nhiệm của chủ thể do yêu cầu, áp dụng biện

54

pháp khẩn cấp tạm thời không đúng
2.3.

Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời


57

trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam
2.3.1.

Những kết quả đạt được trong áp dụng biện pháp khẩn

57

cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại
2.3.2.

Những vướng mắc, khó khăn trong áp dụng biện pháp

58

khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại
CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM

62

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP
KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về biện pháp khẩn


62

cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt
Nam
3.1.1.

Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng

62

3.1.2.

Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

64

3.2.

Các giải pháp cụ thể

66

3.2.1.

Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi thành

66


Luật Trọng - tài thương mại năm 2010

3.2.2.

Sửa đổi pháp luật trọng tài thương mại về biện pháp

75

khẩn cấp tạm thời
3.2.3.

Tăng cường kỹ năng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm

78

thời trong tố tụng trọng tài thương mại của trọng tài viên
và thẩm phán
3.2.4.

Nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp về việc áp

78

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài
thương mại
3.2.5.

Tăng cường sự hiểu biết của các luật sư về biện pháp

79

khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại

KẾT LUẬN

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO

82


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, việc giải quyết
tranh chấp thường phải tuân theo một quy trình tố tụng chặt chẽ do pháp luật
quy định, bao gồm nhiều giai đoạn thường được thực hiện tuần tự nối tiếp,
giai đoạn này là cơ sở thực hiện cho giai đoạn sau. Vì vậy, thời gian kể từ khi
trọng tài thương mại thụ lý vụ tranh chấp cho đến trọng tài thương mại ra
phán quyết chính thức giải quyết về nội dung tranh chấp là tương đối dài.
Trong khoảng thời gian này, vì lợi ích của mình hoặc do thiếu thiện chí, một
trong số các bên tranh chấp có hành vi tẩu tán tài sản, hủy hoại hoặc xâm
phạm chứng cứ... Thực tế này đòi hỏi phải có sự can thiệp ngay bằng quyết
định tạm thời của cơ quan có thẩm quyền chống lại các hành vi đó nhằm bảo
vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng tài sản và giữ được tài sản bảo đảm cho việc
thi hành quyết định của trọng tài thương mại sau này... Quyết định của cơ
quan có thẩm quyền sẽ đưa ra các biện pháp có tính khẩn cấp (các biện pháp
này được áp dụng ngay, kịp thời) và tính tạm thời (các biện pháp chỉ được áp
dụng lâu nhất cho đến khi việc giải quyết tranh chấp kết thúc). Các biện pháp
này có nhiều hình thức khác nhau và có tên gọi không hoàn toàn giống nhau
theo pháp luật các nước và pháp luật quốc tế như “các biện pháp khẩn cấp tạm
thời cho sự bảo vệ”, “các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc bảo vệ”, “các biện

pháp lâm thời hoặc bảo vệ”, “các biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Tuy nhiên,
cho dù tên gọi gì thì về nguyên tắc các biện pháp này nhằm để thực hiện các
lệnh tạm giữ nguyên hiện trạng, trong khi chờ đợi kết quả của quá trình tố
tụng trọng tài thương mại. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng

1


trọng tài thương mại được ghi nhận và hiệu quả của nó đã được kiểm chứng
qua thực tiễn tố tụng trọng tài thương mại nhiều nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được pháp luật trọng tài
thương mại ghi nhận từ năm 2003, thời điểm Pháp lệnh Trọng tài thương mại
năm 2003 ra đời. Sau hơn 7 năm triển khai thi hành, Pháp lệnh này đã bộc lộ
nhiều điểm hạn chế, bao gồm cả các vấn đề liên quan đến biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Vì vậy, hiện nay, các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
tố tụng trọng tài thương mại đã được sửa đổi, bổ sung trong Luật Trọng tài
thương mại năm 2010. Như đã đề cập ở trên, biện pháp khẩn cấp tạm thời là
những biện pháp có ý nghĩa rất thiết thực, cần được áp dụng kịp thời để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,
mặc dù các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật trọng tài
thương mại Việt Nam đã được hoàn thiện hơn nhưng dường như các quy định
này vẫn chưa phát huy được hiệu quả như nó vốn có. Biện pháp khẩn cấp tạm
thời được sử dụng chưa nhiều trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam.
Trong tình hình như vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định
của pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam về biện pháp khẩn cấp tạm
thời, thực tiễn áp dụng các quy định này để nhận biết được những thành tựu
đã đạt được cũng như hạn chế còn tồn tại để từ đó đề ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
trọng tài thương mại và nâng cao hơn nữa hiệu quả việc áp dụng các biện
pháp này là cần thiết.

Xuất phát từ những điểm nêu trên, người viết đã chọn vấn đề “Các biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam”
làm đề tài nghiên cứu của Luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật
Kinh tế của mình.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Ở nước ngoài
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đề cập đến biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại mà người viết có thể tiếp cận được
bao gồm:
- “Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế”, sách của nhóm
tác giả Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby, Constantine Partasides
được xuất bản vào năm 2004, được dịch sang tiếng Việt từ nguyên bản tiếng
Anh và xuất bản năm 2009 với sự hợp tác của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCT), Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
Cuốn sách này đề cập đến biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài
thương mại quốc tế dưới góc độ là một nội dung rất nhỏ với lượng thông tin
hạn chế.
- “Interim measures In International commercial arbitration: pasf, present
and future” (tạm dịch: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trọng tài thương
mại quốc tế: quá khứ, hiện tại và tương lai), Luận văn Thạc sĩ Luật học của
tác giả Sandeep Adhipathi, Khoa Luật Trường Đại học Georgia (Hoa Kỳ),
được thực hiện năm 2003 với sự hướng dẫn khoa học của Giáo sư Gabriel M.
Wilner. Tác giả đã tiếp cận biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng
tài thương mại quốc tế toàn diện hơn, có sự so sánh quy định giữa các quốc
gia như Hoa Kỳ, Anh, Thụy Sỹ...
Nhìn chung, ở nước ngoài, các tác giả thường nghiên cứu biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại quốc tế hơn là tố tụng trọng

tài thương mại trong nước. Điều này có thể được lý giải rằng, trên thế giới,
trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến hơn đối
với các tranh chấp phát sinh từ các hoạt động thương mại có yếu tố quốc tế.
3


Người viết hiện chưa tìm thấy công trình nghiên cứu khoa học nào của nước
ngoài đề cập biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở
Việt Nam.
2.2. Ở Việt Nam
Theo tìm hiểu của người viết, hiện nay ở Việt Nam có rất ít công trình
nghiên cứu mà đối tượng nghiên cứu là biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng trọng tài thương mại. Cụ thể mới chỉ có 2 công trình, đó là:
- “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài của tác giả Phạm
Duy Nghĩa, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc hội, Số
23 năm 2010. Vì chỉ đừng lại là một bài viết ngắn đăng trên tạp chí chuyên
ngành nên tác giả chỉ tiếp cận biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
trọng tài ở góc độ nhất định, không đưa ra những cơ sở lý luận và phân tích
toàn diện về vấn đề này.
- “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật Việt Nam về trọng tài
thương mại”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Nhựt Bình, Trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh được thực hiện vào năm 2010 với sự hướng
dẫn khoa học của GS. TS Nguyễn Thị Mơ. Với công trình nghiên cứu này, tác
giả đã chú trọng nghiên cứu một số vấn đề lý luận về trọng tài thương mại và
các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại. Đặc biệt,
tác giả đã tìm hiểu phân tích những quy định của Luật Trọng tài thương mại
năm 2010, so sánh với những quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại
năm 2003 để chỉ ra những điểm tiến bộ của Luật Trọng tài thương mại năm
2010 cũng như những điểm còn hạn chế của Luật này về vấn đề áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại, trên cơ sở đó, đề

xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Luật
Trọng tài thương mại năm 2010. Tác giả thực hiện công trình nghiên cứu này
4


khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chưa có hiệu lực, đến nay, do thực
tiễn đã có những thay đổi nhất định, một số kiến nghị tác giả đề xuất đã không
còn tính thời sự, không đáp ứng được những thay đổi của thực tiễn.
Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học có đề cập
đến biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại dưới góc
độ vấn đề có liên quan đến đối tượng nghiên cứu, đó là:
- “Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và vai trò của Tòa án trong quá
trình tố tụng trọng tài” của tác giả Đào Trí Úc, đăng trên Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Luật học (26) năm 2010.
- “Sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Tống Vân
Huyền, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, được thực hiện vào năm 2011.
- “Tác động của những quy định mới trong Luật Trọng tài thương mại
tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam”,
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền, Trường Đại
học Luật Hà Nội, được thực hiện vào năm 2012 với sự hướng dẫn khoa học
của TS. Vũ Thị Lan Anh.
- “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương
mại theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010”, Luận văn Thạc sĩ Luật học
của tác giả Phan Chân Nhân, Trường Đại học Luật Hà Nội, được thực hiện
vào năm 2012 với sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Viết Tý.
Nhìn chung, những công trình này đề cập đến biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại với lượng thông tin còn hạn chế.
Từ việc điểm qua các công trình nghiên cứu hoặc có liên quan tới biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại, có thể khẳng định,

5


kể từ khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có hiệu lực pháp luật, chưa có
công trình nghiên cứu khoa học nào mang đến cho người đọc cái nhìn toàn
diện về lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
trọng tài thương mại ở Việt Nam. Vì thế, Luận văn này được hoàn thành với
tham vọng sẽ là một công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn
diện và có tính hệ thống về vấn đề biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
trọng tài thương mại ở Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ
bản về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại, đánh
giá thực trạng pháp luật hiện hành về biện pháp khẩn cấp tạm thời, từ đó kiến
nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật về các biện pháp này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích của việc nghiên cứu đề tài, các nhiệm vụ được đặt
ra là:
- Làm rõ về khái niệm và đặc điểm trọng tài thương mại, khái niệm và
đặc điểm cũng như thủ tục của tố tụng trọng tài thương mại.
- Làm rõ khái niệm và đặc điểm của biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
tố tụng trọng tài thương mại, sự cần thiết phải có các quy định về biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại và các loại biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại.
- Đánh giá thực trạng các quy định và tình hình áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về thương mại của trọng tài
6



thương mại, qua đó làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong quy định của
pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam hiện hành và những vướng
mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó trong thực tiễn.
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại và nâng cao hiệu quả
điều chỉnh của các quy định đó trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn bao gồm những vấn đề sau:
- Các quy định của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam, trong đó
tập trung nghiên cứ các quy định của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam
về biện pháp khẩn cấp tạm thời và quy định về vấn đề này trong pháp luật của
một số nước trên thế giới, cũng như trong Luật mẫu của Uỷ ban Liên hợp
quốc về trọng tài thương mại quốc tế (UNCITRAL).
- Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật trọng tài thương mại
Việt Nam về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong những năm gần đây.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là một vấn đề nghiên cứu tương đối lớn, có
phạm vi nghiên cứu rộng nên có thể được nghiên cứu dưới nhiều phương diện
khác nhau và với nhiều nội dung khác nhau. Luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại, không
nghiên cứu biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng hành chính hay dân sự.
Mặc dù trong Luận văn có tham khảo quy định về biện pháp khẩn cấp
tạm thời của pháp luật một số nước và Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài
thương mại quốc tế cũng như tham khảo pháp luật về trọng tài thương mại
7


của Việt Nam trước đây và biện pháp khẩn cấp tạm thời; tuy nhiên, Luận văn

chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam hiện
hành về biện pháp khẩn cấp tạm thời mà chủ yếu là các quy định của Luật
Trọng tài thương mại năm 2010 về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong suốt quá trình thực hiện Luận văn, người viết đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành phù hợp dựa trên cơ sở
phương pháp luận đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu mà
người viết đã sử dụng để giải quyết nội dung khoa học của đề tài bao gồm:
Phương pháp tiếp cận lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
thống kê.
Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng nhiều trong Chương 1 để
làm rõ những khái niệm, phạm trù mà Luận văn sử dụng từ đó rút ra những
kết luận khoa học làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và xác định định
hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận lịch sử, phân tích, so sánh, phương pháp thống kê
được sử dụng trong Chương 2 của Luận văn để luận giải cho nhận định, đánh
giá về thực trạng pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng
tài thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng ở Chương 2 và Chương 3 của Luận
văn để rút ra những kết luận và định ra được các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

8


6. Kết cấu của luận văn
Nội dung của Luận văn gồm 3 nội dung chính như sau:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận về trọng tài thương mại và các biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam;
- Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam.

9


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI VÀ CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI

1.1. Khái quát về trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trọng tài thương mại
1.1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Hiện nay, trọng tài thương mại đã là một thuật ngữ được biết đến và sử
dụng phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Vậy trọng tài thương mại là gì? Về mặt
ngôn ngữ, để hiểu thế nào là trọng tài thương mại, tác giả cho rằng cần phải
làm rõ hai khái niệm trọng tài và thương mại.
Thuật ngữ trọng tài có thể được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, là phương
thức giải quyết tranh chấp, phân biệt với phương thức giải quyết tranh chấp
bằng tòa án; và thứ hai, là cơ quan (tổ chức) thực hiện việc giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của các luật gia ở những nước có nền kinh
tế thị trường phát triển, định nghĩa trọng tài với tư cách là phương thức giải
quyết tranh chấp phổ biến hơn [25. tr.617].
Từ điển Luật học Black’s Law Dictionary giải nghĩa thuật ngữ trọng tài

như sau: “Trọng tài: là một phương thức giải quyết tranh chấp thông qua bên
thứ ba trung lập thường do các bên lựa chọn và phán quyết của bên thứ ba
này có tính bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp” [28. tr.199].
10


Theo Okezie Chukwumerije, “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa các bên với nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các bên
lựa chọn hoặc bởi việc dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất định
được lựa chọn bởi chính các bên”. Với quan điểm tương tự, James và Nicholas
cho rằng trọng tài được coi như là một tiến trình tư được mở ra theo sự thỏa
thuận của các bên nhằm giải quyết một tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ
phát sinh bởi một Hội đồng trọng tài gồm một hoặc nhiều trọng tài viên [16,
tr.24].
Như vậy, với ý nghĩa là một cơ quan (tổ chức) thực hiện việc giải quyết
tranh chấp, trọng tài là bên thứ ba trung lập, bao gồm một hay nhiều trọng tài
viên là những người hành nghề tự do nhân danh cá nhân hoặc nhân danh
trung tâm trọng tài, do các bên đương sự thỏa thuận thành lập để giải quyết
tranh chấp phát sinh giữa các bên. Với ý nghĩa là một phương thức giải quyết
tranh chấp, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tư,
được thực hiện bởi các tổ chức xã hội nghề nghiệp, không nhân danh quyền
lực nhà nước; do đó, thủ tục tố tụng rất linh hoạt và mềm dẻo, đảm bảo tối đa
quyền định đoạt của các bên tranh chấp (khác với tòa án là phương thức giải
quyết tranh chấp công, nhân danh quyền lực nhà nước, bị ràng buộc nghiêm
ngặt bởi các thủ tục tố tụng).
Hiện nay, trên thế giới tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ
thương mại. Có thể khẳng định rằng, chưa có sự thống nhất hoàn toàn về định
nghĩa thế nào là thương mại. Người ta cho rằng có nhiều lý do dẫn tới sự khác
biệt nhau trong định nghĩa hoạt động thương mại ở các nước, đó là: (i) Các
đạo luật về thương mại của các nước được xây dựng ở những thời kỳ khác

nhau; (ii) Cấu trúc hệ thống pháp luật các nước khác nhau; và (iii) Quá trình
thương mại hóa các hành vi dân sự hay ngược lại dân sự hóa các hành vi
thương mại luôn xảy ra theo sự phát triển của xã hội [17, tr.47].
11


Nhằm cung cấp một cách hiểu thống nhất về khái niệm thương mại, năm
1985, Ủy ban Pháp luật Thương mại của Liên hợp quốc đã xây dựng một đạo
luật mẫu về trọng tài thương mại (thường gọi là Luật mẫu của UNCITRAL về
Trọng tài Thương mại quốc tế), tại đoạn ghi chú 2 Điều 1 nhấn mạnh rằng:
“Thuật ngữ “thương mại” cần được giải thích theo nghĩa rộng bao hàm cả
các vấn đề phát sinh từ các quan hệ có bản chất thương mại, dù là quan hệ
hợp đồng hoặc không phải là quan hệ hợp đồng. Những quan hệ có bản chất
thương mại bao gồm, nhưng không giới hạn bởi các giao dịch sau: giao dịch
thương mại để cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thỏa thuận
phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; hoa hồng; thuê mua; xây dựng
công trình; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm;
thỏa thuận thăm dò hoặc khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác công
nghiệp hoặc kinh doanh khác; vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường
hàng không; đường biển, đường sắt hoặc đường bộ”.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật thương mại không có quy định cụ thể
nào về thuật ngữ thương mại. Luật Thương mại năm 2005 quy định về hoạt
động thương mại tại Khoản 1 Điều 3 như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Từ quy định này, có thể thấy rằng khái niệm thương mại ở Việt Nam đã được
hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm 14 hành vi thương mại được đề cập
đến trong Luật Thương mại năm 1997, mà bao trùm các lĩnh vực thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ, các khía cạnh thương mại của đầu tư và sở hữu
trí tuệ, khá tương đồng với khái niệm thương mại mà Luật mẫu UNCITRAL

về Trọng tài thương mại quốc tế đã đề cập.
Hoạt động thương mại tiềm ẩn nhiều rủi ro, bao gồm cả việc nảy sinh
tranh chấp thương mại là những bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi giữa các
12


bên khi tham gia vào quan hệ thương mại. Vì vậy, để hoạt động thương mại
được tiến hành bình thường và lợi ích chính đáng của các bên được bảo vệ,
đòi hỏi phải có phương thức để loại trừ các tranh chấp. Trọng tài, với ý nghĩa
là một phương thức giải quyết tranh chấp tư với thủ tục tố tụng linh hoạt mềm
dẻo, đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp, rất phù hợp để
giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại. Hiện nay, các quốc gia
đều thiết lập cơ sở pháp lý, trao thẩm quyền cho trọng tài giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực thương mại. Ngược trở lại, thương mại là lĩnh vực chủ
yếu mà trọng tài tham gia giải quyết tranh chấp. Sở dĩ như vậy là vì ở thời kỳ
đầu hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp trọng tài với tư cách là một biện
pháp giải quyết tranh chấp tư, trọng tài chỉ được các nhà nước trao thẩm
quyền giải quyết tranh chấp thương mại mà chủ yếu là tranh chấp từ hợp đồng
thương mại. Đối với các tranh chấp thuộc các lĩnh vực khác như hôn nhân gia
đình (như việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng), sở hữu trí tuệ (không
liên quan đến tài sản), lao động... các nhà nước thường can thiệp trực tiếp
bằng việc bắt buộc giải quyết tại tòa án hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhất định vì chúng được coi là vấn đề thuộc chính sách công [16, tr28].
Ngày nay, mặc dù nhiều nước như Anh, Mỹ, Đức, Thụy Điển, Nhật, Trung
Quốc... đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài, theo đó, trọng tài không chỉ giải
quyết các tranh chấp thương mại truyền thống mà còn có thể giải quyết tranh
chấp về lao động và dân sự (tất nhiên, các nhà nước vẫn loại trừ thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp bắt nguồn từ những quan hệ liên quan tới lợi ích
công và trật tự công của trọng tài); tuy nhiên, thẩm quyền chủ yếu của trọng
tài chủ yếu trong lĩnh vực thương mại. Chính vì điều này, khi nhắc đến trọng

tài người ta thường nghĩ tới trọng tài thương mại.
Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng: Trọng tài thương mại là
một phương thức giải quyết tranh chấp về thương mại (mua bán hàng hóa,
13


cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác) dựa trên sự thỏa thuận của các bên về việc giao tranh
chấp cho trọng tài thương mại giải quyết.
1.1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Với ý nghĩa là một phương thức giải quyết tranh chấp về thương mại,
trọng tài thương mại có những đặc điểm chủ yếu dưới đây:
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp mang
tính tài phán: Không giống như các phương thức giải quyết tranh chấp như
thương lượng, trung gian hay hòa giải ngoài tố tụng - đây là những phương
thức giải quyết tranh chấp không mang tính tài phán; theo đó, những kết quả
giải quyết tranh chấp có được thực hiện bởi các bên hay không hoàn toàn phụ
thuộc vào sự thiện chí cũng như tinh thần tự nguyện của các bên - khi giải
quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài, tương tự như Tòa án, các bên
buộc phải thực hiện theo phán quyết của cơ quan xét xử; nếu các bên không thi
hành đúng theo các phán quyết đó thì có cơ chế đảm bảo thi hành phán quyết.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp tư:
Khác với Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp công, nhân danh quyền
lực nhà nước, bị ràng buộc nghiêm ngặt bởi các thủ tục tố tụng, trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tư, được thực
hiện bởi các tổ chức xã hội nghề nghiệp, không nhân danh quyền lực nhà
nước; do đó, thủ tục tố tụng rất linh hoạt và mềm đẻo, đảm bảo tối đa quyền
định đoạt của các bên tranh chấp.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp đề cao
ý chí thỏa thuận giữa các bên: Chính ý chí thống nhất của các bên là cơ sở để

việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được hình thành. Khác
với giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, nguyên tắc đề cao ý chí của các bên
14


liên quan tới cả quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, từ
việc lựa chọn trung tâm trọng tài đến việc lựa chọn trọng tài viên, từ thủ tục
xét xử cho đến những quy định về hủy phán quyết trọng tài.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp mà thủ
tục xét xử kín, đảm bảo bí mật kinh doanh và uy tín của các bên tranh chấp:
Đây là điểm đặc trưng của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
so với Tòa án. Xét xử tại Tòa án thường là xét xử công khai, thông tin về vụ
tranh chấp sẽ được thông báo rộng rãi. Ngược lại, khi xét xử bằng trọng tài,
các thông tin về vụ tranh chấp sẽ được giữ kín, bí mật kinh doanh và uy tín
của các bên tranh chấp không bị ảnh hưởng.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp dứt
điểm: Khi xét xử tại Tòa án, một vụ tranh chấp có thể phải trải qua hai cấp xét
xử là sơ thẩm và phúc thẩm. Việc này có thể kéo dài thời gian giải quyết tranh
chấp, gây tốn kém về thời gian, chi phí cho các bên tranh chấp. Ngược lại,
trọng tài chỉ tiến hành xét xử một lần và phán quyết trọng tài có giá trị chung
thẩm đối với các bên, các bên không có quyền kháng cáo. Điều này giúp các
bên giải quyết dứt điểm tranh chấp.
- Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, linh hoạt,
thuận lợi cho các bên: Khi xét xử tại Tòa án, các bên hoàn toàn phụ thuộc vào
sự chỉ đạo của Tòa án về thủ tục, thời gian, địa điểm và cách thức xét xử.
Trong khi đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục,
thời gian, địa điểm và cách thức xét xử theo phương thức tiện lợi, nhanh
chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều
này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải
quyết tranh chấp.


15


Với ý nghĩa là cơ quan giải quyết tranh chấp về thương mại, trọng tài
thương mại có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Trọng tài thương mại là một tổ chức xã hội nghề nghiệp: Trọng tài
thương mại không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà nước
thành lập nên và cũng không hoạt động bằng ngân sách nhà nước; do đó
không nhân danh quyền lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp. Trọng tài là
các tổ chức xã hội nghề nghiệp, phi chính phủ. Các trọng tài viên không phải
là các công chức, viên chức Nhà nước, không do Nhà nước bổ nhiệm và
không hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp mang tính trung
lập do các bên lựa chọn: Việc lựa chọn trọng tài thương mại để giải quyết
tranh chấp cho phép các bên được tự do thỏa thuận về thành phần Hội đồng
trọng tài, tiêu chuẩn trọng tài viên, cách thức chỉ định trọng tài viên, quốc tịch
trọng tài viên... Việc này sẽ đảm bảo tính trung lập, công bằng cao hơn, tạo sự
an tâm cho các bên tranh chấp; đặc biệt là đối với các tranh chấp có yếu tố
nước ngoài. Thường thì những tranh chấp có yếu tố nước ngoài, như tranh
chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước, nếu được giải
quyết bởi Tòa án nước tiếp nhận đầu tư sẽ mang lại những cảm nhận về sự
không trung lập của Tòa án, những quan ngại rằng tranh chấp không được xét
xử công bằng, cho dù điều này có trên thực tế hay không.
- Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp mang tính
chuyên môn cao: Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Tòa án, có khả năng thẩm
phán được chỉ định để giải quyết vụ việc không có trình độ chuyên môn liên
quan đến đối tượng tranh chấp, đặc biệt các ngành đặc thù chuyên môn cao
như: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tư, hàng hải, bảo hiểm... Khi giải quyết
bằng trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ

16


chuyên môn phù hợp với đối tượng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả,
công bằng và tính chính xác trong giải quyết tranh chấp.
- Trọng tài thương mại cần đến sự hỗ trợ của Tòa án trong quá trình
giải quyết tranh chấp: Như phân tích ở trên, trọng tài thương mại là một tổ
chức xã hội nghề nghiệp, chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo sự lựa
chọn của các bên nên phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực
nhà nước, không đại diện cho ý chí của nhà nước mà đại diện cho ý chí của
các bên tranh chấp. Do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài
thương mại cần phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với một số hoạt động như:
chỉ định trọng tài, thay đổi trọng tài; xem xét lại quyết định của Hội đồng
trọng tài; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; như thu thập chứng cứ, triệu
tập người làm chứng; hủy phán quyết của trọng tài...
1.1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là: (i) trọng tài vụ
việc (trọng tài ad-hoc); và (ii) trọng tài thường trực (trọng tài quy chế).
Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) là hình thức trọng tài được thành lập
để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể theo sự thỏa thuận của các bên và tự
chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp. Đặc điểm cơ
bản của trọng tài vụ việc là không có trụ sở cố định, không có cơ quan thường
trực, không có quy chế hoạt động riêng và không có quy tắc tố tụng riêng. Khi
sử dụng hình thức trọng tài này, các bên phải tự thỏa thuận để lập ra quy tắc tố
tụng, chọn trọng tài viên và địa điểm xét xử. Đây là hình thức trọng tài đơn
giản, linh hoạt, mềm dẻo nên phù hợp với những tranh chấp ít phức tạp, có nhu
cầu giải quyết nhanh chóng. Tuy nhiên, hình thức trọng tài này có nhược điểm
là tiên trình xét xứ để bị trì hoãn nếu các bên không thống nhất được thủ tục
giải quyết hoặc gặp trở ngại trong việc lựa chọn trọng tài viên.
17



×