Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Thử tìm hiểu tâm sự nguyễn du qua truyện kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.27 MB, 209 trang )

NCỈỞ Q U Ố C Q U Ý N H

Thử tìm hiểu
TẤM

sự N G U Y Ề N

DU

ợ ơ a T R U Y Ệ N K lỀ U
(In lần thứ hai có sửa chữa và b ổ sung)

NHÀ X U Ấ T BẢN (ỈIÁ O DỤC V IỆ T NAM


V,



9


Lời nói đầu

TTruyện Kiều là tác phẩm văn học mà
không một người Việt Nam nào, ngay cả
những người không biết chữ, là không ưa
thích, và không thuộc lòng ít nhiều. Người
có học thì đọc Kiều không chỉ để thưởng
thức lời hay, ý đẹp, mà còn quan tâm tới tâm
sự của tác giả, và không khỏi tự hỏi: "Tâm


sự bí ẩn của Nguyễn Du là gì, tại sao lại u
uất như vậy?" Nhiều nhà nghiên cứu đã cô'
gắng đưa ra câu trả lời, nhưng theo Hà Huy
Giáp, trong lời: "Giới thiộu về Nguyễn Du và
Truyộn Kiều", cùa [1]^'^ thì: "Tâm sự của
Nguyễn Du quả là một tâm sự đầy mâu
thuẫn, khó hiểu... đó là một viộc làm rất
công phu, đòi hỏi sự đóng góp của tập thổ".

Các cảu trich dẫn được lấy theo tài liệu Ị1) (xem phẩn Tài liệu tham
khảo) và dược đánh số ỉheo tài liệu ấy


Tôi không phải là người làm công tác
văn học, mà chỉ là mộl người mé Truyện
Kiều, như bao người Việt Nam khác. Tôi cho
ràng, mỗi người đọc "Truyện Kiều", tùy iheo
khả năng của mình, đều có thể và phải góp
phần làm sáng tỏ bí mật về tâm sự Nguyễn
Du, và càng hiểu rõ tâm sự của tác giả, ta
nhận thức càng sâu sắc hơn cái hay, cái đẹp
cùa "Truyện Kiéu". Vì vậy không quàn ngại
về sự hiểu biết nông cạn của mình, tôi cũng
xin mạnh dạn nêu một vài suy nghĩ về vấn
để trên, từ một góc độ mà các nhà nghiên
cứu vãn học có lẽ không nghĩ tới.
Những ý kiến này đã được trình bày vắn
tắt hơn một chút trong một bài mà tôi đã gửi
tòa soạn báo "Văn nghê", năm 1965. nhân
kỷ niệm 200 năm năm sinh cùa Nguyễn Du.

Nhưng tiếc rằng bài báo này đã bị trả lại.
Lần này, tôi trình bày cặn kẽ hcm những lý lẽ
làm cơ sở cho giả thuyết của tôi, và có sửa
một số ý kiến, hoặc bổ sung cho đầy đủ hơn.
Đây không phải là một bài nghiên cứu
văn học, mà chỉ là một giá thuyết có cơ sở,

có tính chất gợi ý đ ể các nhà nghiên cứii
tham khảo. Chấp nhận hay bác bỏ nó là
quyền của bạn đọc, chỉ mong các bạn cùng
đọc và cùng suy nghĩ, được như thế đã là


vinh dự lớn cho tác giả, và tác giả xin chân
thành cảin cm bạn đọc.
Tác giả xin chân thành cảm Cfn Nhà xuất
bản Giáo dục đã giúp đỡ cho cuốn sách này
ra mắt lần đầu, và Nhà xuất bản khoa học xã
hội đã giúp đỡ cho cuốn sách này ra mắt lần
thứ hai, xin cảm Cfn nhà giáo nhân dân Ngô
Tliúc Lanh, và cố nhà giáo nhân dân Hoàng
Thiếu Sơn đã góp nhiều ý kiến quí báu và
khích lệ tôi viết cuốn sách này, và cuối cùng,
xin cảm ơn ông Lê Ngọc Y, nguyên biên tập
viên nhà xuất bản giáo dục, đã nhiệt tình
giúp đỡ tôi hoàn chỉnh bản thảo.

TÁC GIẢ

1



Lờỉ tựa lần xuất bản thứ hai

d ^ u ố n sách nhỏ này, sau khi ra mắt, đã
được đông đảo độc giả đón nhận, nhiều bạn đọc
đã góp nhiều ý kiến quý báu, nhiều lời khích lệ,
khiến chúng tôi rất cảm kích, và chúng tôi xin
chân thành cảm tạ.
Thể theo đề nghị của một số độc giả, trong
lần tái bản này, chúng tôi đã tãng số câu trong
các đoạn trích dẫn, để bạn đọc đỡ mất công tìm
kiếm trong "Truyện Kiều" mà vẫn hiểu được vân
cảnh trong đó có từ ngữ mà tác giả phân tích.
Chúng tôi còn bổ sung thêm một số lý lẽ, chi
tiết, bằng chứng, để bạn đọc dỗ nấm bắt hơn ý
kiến của tác già, và để tăng tính thuyết phục của
lập luận. Chúng tôi cũng thêm một số chi tiết
trong tiểu sử một số nhân vật, trong một số điển
tích. Cuối cùng, chúng tôi cũng đã cố gắng sửa
hết các lỗi ấn loát, biên tập, trong hai bản trước,
mong rằng bản này sẽ hoàn chỉnh hơn.

TÁC GIẢ
8


I

TẠ I SAO, ĐỂ TÌM m Ể u

TÂM S ự N G U YỄN D ư , TA PH Ả I
TÌM TRONG "TRƯYÊN KIỂU"?

Trong cuốn "Việt văn giáo khoa
khi giới
thiệu 'Truyện Kiều" và tiểu truyện tác giii, Dương
Quảng Hàm viết: "Chủ yếu của tác ỉỊÌá lủ CÔI gửi tâm

sự minh vào trong cuốn truyện: cụ vốn tự coi mình
như một cựu thần của Nhà Lê, mà gặp lúc quốc biến
không thể trọn chữ trung với Lề hoàng, lại phải ra thờ
nhà Nguyễn. Cành ngộ thật không khác gì Thúy Kiều,
đã đính ước V(ỉi Kim Trọng, mà vì gia biển phải bún
mình cho người khác, không giữ dưỢc chữ trinh với
tình quân. Bởi vậy, cụ mượìx truyện nàng Kiều đ ể bộc
hạch tám sự của cụ. Trong truyện, cụ lại khéo mô tả
thê thái nhản lình, thật là rạch ròi, chí lý".

Việt văn giáo khoa thư, của Dương Quảng Hàm, Nha Học chính
Đỏng Pháp. Xuất bản 1940.


Cụ Dưcmg vốn là một nhà nho học, đã từn.g léu
chõng đi thi, sau mới chuyển theo Tây học, nèn về
thời gian, cũng như về nếp suy nghĩ, cụ gân với
Nguyễn Du hcm chúng ta nhiều lắm. Vậy, có th ể nói
rằng ý kiến trên đây của cụ Dương cũng là V kiến
chung của các nhà nho học trong thế kỷ 19 và nửa
đầu thế kỷ 20. Thật vậy, ông nội lôi, người đã đậu cỉr
nhân năm Nhâm Ngọ (1906) tại trường thi hưưng

Nam Định, là một nhà nho còn ít chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Tây hơn cụ Dương nhiéu: tuy ông tôi
cũng có đọc sách, báo quốc ngữ, nhưng chủ yếu vẫn
nghiên cứu, tham khảo các sách chữ Hán, và làm
văn, Ihơ chữ Hán; khi giảng "Kiều" cho anh em
chúng tôi, ông tôi cũng nói về lâm sự Nguyễn Du giìn
như hoàn toàn giống với ý kiến của Dương Quảng
Hàm trên đây.
Trước Cách mạng tháng Tám, tổng số các trường
Irung học (lức là trường cấp 2, hoặc cấp 2 + cấp 3)
cổng lập của cả ba kỳ chỉ xấp xỉ mười trường, đéu dạy
và học bằng tiếng Pháp, còn tiếng Việt bị coi là ngoại
ngữ, mồi tuần chỉ học có 3 giờ. Trừ một, hai trường
lớn - thí dụ trường Bưởi - có giáo sư chuyên về Việt
vãn, trong các trường còn lại, môn tiếng Việt lại do
các giáo sư Toán hoặc Lý - Hóa kiêm nhiệm. V ì vậy,
các thày hầu như dựa hoàn toàn vào cuốn "Việt văn
giáo khoa thư" nói trên. Khi học về "Truyện Kiều",
học sinh cấp 2 chúng lôi thời ấy đều gần như thuộc
lòng trích đoạn kể trên, và còn được nghe một sô' thày
10


bổ sung thcm ràng: "Truyện Kim Vân Kiều của Thanh
Tâm lài nhân vốn không có đoạn tái hổi Kim Trọng,
ngưcri ta cho rằng Nguyễn Du đã sáng tác Ihêm đoạn
ấy để tỏ lòng mong mỏi được "tái hợp" với "Vua Lê".
Và vấn đề "Tâm sự Nguyễn Du" tưởng như đã được
giải đáp.
Tuy nhiên, cũng vào thời đó, lại xuất hiện cuốn

"Nguyễn Du và Truyện Kỉềù' của Hoài Thanh, và
cuốn "Nguyễn Du và Trii\ện Kiều” của Nguyễn Bách
Khoa (còn có bút danh Trương Tửu). Và vấn đề được
đật lại, và thu hút sự quan tâm của nhiều người hơn.
Tiếc rằng sau cuộc kháng chiến chống Pháp đất nước
bị chia cát, trong văn học và đạc biệt, trong nghiên
cứu về Nguyễn Du đã nảy sinh nhiều vấn đề lớn, quan
trọng hơn, nên một số nhà nghiên cứu tuy có nói đến
tâm sự Nguyẻn Du, nhưng khỏng đi sâu nghiên cứu
nó, và có lúc còn dẫn chứng một số sáng lác khác,
ngoài Truyện Kiều, điều này, theo thiển ý, có lẽ không
phải dụng ý của Nguyễn Du.
Tôi cho rằng, tuy ý kiến trên đây cùa Dưcmg
Quảng Hàm không phản ánh đúng tâm sự của Nguyễn
Du, nhưng nếu coi nó là ý kiến chung của đa sô' các
nhà nho học trước, thì ý kiến ấy hẳn có phần xác đáng,
mà chúng ta không thể bỏ qua, đó ìầ:"Nguyễn Du

sáng tác 'Truyện Kiều" đ ể ký thác tâm sự cùa mình".
Do đó, tôi cho rẳng, để hiểu được tâm sự ấy, chúng ta
phải tìm nó trong "Truyện Kiểu", và chỉ tìm trong đó
là đủ, vì nếu tác giả "Truyện Kiều" đã dụng ý ký thác
11


tâm sự mình trong đó, thì không có lý do gì mà cụ
không gửi gắm một cách trọn vẹn. Đó là điểm xuất
phát đầu tiên, ưong cuộc tim tòi của chúng tôi.
Chúng ta chú ý rằng, không chỉ chúng ta ngày
nay mới quan tâm tới tâm sự Nguyên Du mà những

người cùng thời, bạn bè, thân thuộc của cụ cũng chú ý
tới bầu tâm sự u uất của cụ. Xin phép trích dẫn hai
đoạn sau đây, trong "Liệt truyện Nguyễn Du" [Xem
[1], trang 497- 498, chú thích 10].

..."Ông là ngưcyi trong lòng tự phụ mà mật ngoài
cẩn hậu. Mồi khi tiến kiến, lo sợ rụt rè như người
không thể nói năng được. Tìùig được lời vua dụ ràng:
"Nhà nước dùng người, duy dùng người hiền tài, vốn
không phân biệt trong Nam ngoài Bắc.Ngươi cùng
Ngô Vị đ ã được tri ngộ, làm quan đến bậc á khanh,
nên biết điều gi cứ nói hết, cho đầy đủ chức trách.
Đâu lại rụt rè e sợ chỉ nhữtĩg váng dạ mà thôi"...
..."Ông làm quan, thường phải quan trên áp c h ế
nên phẫn uất bất đắc chí. Đến khi bệnh nặng, ông
không chịu uống thuốc, bào người nhà mỏ xem chán
tay. Họ nói với ông đ ã lạnh rồi, ông nói "được". Nối
xong thì mất, không trối lại một điều gì..."
Những chi tiết "trong lòng tự phụ, mà mặt ngoài
cẩn hậu.,.." và "lo sợ rụt rè, như người không thể nói
năng được..." của người chép liột truyện đánh giá thái
độ của cụ, và "... đâu lại rụt rè e sợ chỉ những vâng dạ
mà thôi" mà vua Gia Ix)ng quở trách cụ chứng tỏ rằng
12


nhiều ngưcrt trong Triều đình đều thấy rõ thái độ "Từ
Thứ qui Tào" của cụ, và đều chờ đợi ở cụ một lời tâm
sự, hoặc một sự bộc lộ kín đáo, vào một lúc nào đó.
Và chi tiết "Nói xong thì mất, không trối lại một điều

gì" cho thấy rằng, lúc sắp qua đời, cụ hoàn toàn tỉnh
táo, xung quanh có nhiều người thân, mong mỏi, chờ
đợi cụ lên tiếng, và họ hoàn toàn thất vọng vì cụ
không hé lộ điều gì, ngoài một tiếng "được",
Thông thường, những người có một bầu tâm sự u
uẩn giữ kín trong lòng suốt cả đời, khi biết mình sắp
sang thế giới bên kia, đều thổ lộ với một vài người
thân nhất, để lương tâm được thanh thản trước khi
nhắm mắt. Trong hầu hết các trường hợp ấy, lời trối
trăng thường là một câu chuyện xấu, hoặc về tình ái,
về tiền bạc, hoặc thậm chí về hình sự, mà người đó là
thủ phạm, đồng thời là người duy nhất còn lại, biết rõ
ngọn ngành, và nếu để lộ ra, thì hoặc sẽ bị trừng trị,
hoặc bị dư luận lên án. Nhưng là người có lương tâm,
nên suốt đời day dứt không yên; mật khác, lại không
đù dũng cảm đổ công khai tự nhận lỗi về viộc làm sai
trái cùa mình, đến lúc gần đất xa trời mới thú thật với
một vài người thân, để được thanh thản lưcmg tâm.
Còn nếu là những chuyện, như có tài mà không được
trọng dụng, hoặc oan ức vì bị gian thần gièm pha, hãm
hại, hoặc vô tình làm mếch lòng người trên nên bị thất
sủng, hoặc tình duyên trắc trở v.v..., thì dầu không kể
lể với mọi người, thì thường người ta cũng không ngần
ngại gì mà không thổ lộ trong văn thơ.
13


Nguyễn Du, cho đến những giây phút cuối cùng
của cuộc đời vẫn giữ kín bầu lâm sự cho riêng mình,
chỉ "một mình mình biết, một mình mình hav", và

cũng không để lộ rõ trong các tác phẩm văn học của
lĩiình.Vậy, chúng ta có thổ đoán rằng, cụ không muốn
thổ lộ tâm tư với người đương thời, chẳng phải vì sợ bị
trừng phạt, hoặc vì xấu hổ khi phải thú nhận việc làm
sai trái nào đó của mình, mà hẳn là cụ cho rằng, người
đương thời không ai hiểu được cụ. Do đó, điểm xuấl
phát thứ hai của chúng tôi là: "Tâm sự của Nguyền Du
không thuộc loại đcm giản, Ihông thường như mọi
người, không như theo cách nghĩ của các nhà nho
trước kia, chỉ đcm giản là đã "không thể trọn chữ trung
với Lẽ hoàng, lại phải ra thờ nhà Nguyễn", mà nảy
sinh do mâu thuẫn ngay trong nội tâm cụ".
Tuy mang nặng bầu tâm sự u uất, không thổ lộ
với người đương thời, nhưng Nguyễn Du lại mong hậu
thế có người hiểu được mình. Hai câu nổi tiếng trong
bài thơ "Độc Tiểu thanh ký" của cụ:

"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp TốNhiỉ".
mấy ai không biết? Và điều mong mỏi đó của cụ hẳn
không phải là vô căn cứ, tức là ta phải cho rằng
Nguyễn Du không mang theo bí mậl về tâm sự của cụ
sang thế giới bên kia, mà đã "cất giấu" nó ở đâu đó
trong các sáng tác văn chương cùa mình. Nguyễn Du
để lại khá nhiều thơ chữ Hán (trong ba bộ: Thanh


14



Hiên tlỉ. tập, Nam TriinỊỊ tạp ngâm và Bác hành tạp
lục) và bốn tác phẩm Nôm là: 'Truyện Kiều" (tức
Đoạn trxờng tân thanh), "Văn chiêu hồn" ('hay Văn tế
thập lo ậ oỉiúng sinh), 'Thác ỉời trai phườtig nón" và
"Văn ti sống hai cô gái Trườìig Liùt", trong đó
"Truyện Kiều" là lác phẩm lớn nhất, được Nguyễn Du
dành nhiều tâm huyết nhất khi sáng tác, và hầu như
không raột người Việt Nam nào không thuộc lòng một
vài đoạn, mà rất nhiều người còn thuộc làu đến mức
có thể làm một bài tập Kiều, về bất kỳ đề tài nào. Vậy,
chúng ta có thể tin chắc rằng, để "cất giấu" bầu tầm sự
phức tạp của mình, Nguyễn Du đã lựa chọn "Truyện
Kiều", nới có thổ giãi bày, đầy đủ, và chi tiết nỗi lòng
u uẩn cùa mình. Chỉ có điều là cụ giấu quá kín, không
để bất kỳ ai cũng nhận ra được một cách dễ dàng;
nhưng cụ lại vẫn muốn có người "khám phá" được
"nơi cất giấu điều bí mật của cụ", nên cụ phải dụng ý
đổ lại những dấu vếi chỉ dẫn cho ngưòd nào dụng công
phát hiện các dấu vết ấy, tìm hiểu ý nghĩa của chúng,
mới mong hiểu đúng được lâm sự của cụ.Và điểm xuất
phát thứ ba của chúng tôi là: "Phải tìm trong "Truyện
Kiéu" những dấu vết mà Nguyễn Du để lại, tìm hiểu
dụng ý của tác giả thể hiện trong các dấu vết ấy mới
có thể khám phá được bí mật về tâm sự tác giả".

15


C Ă N C Ứ ĐỂ TIN RẰNG N G U Y ÊN D U
DỤNG Ý đ Ể l ạ i d ấ u VẾT

TRONG TRƯ ỶÊN K lỀU

Trong văn học Việt Nam và Trung Hoa, số tác
phẩm có chứa đựng tâm sự của tác giả chúng không
nhiều. Tuy nhiên, phân tích các bài ít ỏi ấy, cũng có
thể thấy được một vài qui tắc mà tác giả của chúng đã
áp dụng.
Chúng ta hãy xem bài phú "Ngọc tỉnh liên" của
Mạc Đĩnh Chi ([5], lập Iỉ,trang 112 đến trang 117).
Mạc Đĩnh O ii, lên lự là Tiết Phu, nguyên ngưòri làng
Lan Khê, huyên Băng Hà (nay là Thanh Hà, tỉnh Hải
Dưcmg), sau dời sang làng Lũng Động, huyện Chí
Linh. Ông đậu trạng nguyên đời Trần Anh Tòng. là
người nổi tiếng văn tài mản tiệp. Vua quan nhà
Nguyên biết tiếng ông, nên khi ông đi sứ, bị vua, quan
Tàu thay nhau thừ lài. bàng nhicu câu dôi hiém hóc;
câu nào ông cũng ứng khẩu clỏ’i lại râl chọi, khiõn mọi
16


người phái phục tài. Được mời đọc bài điếu một công
chúa chết trẻ, ông mỏ giấy ra, chỉ thấy có bốn chữ
"nhất", biết là họ lại thử tài nên không cần nghĩ lâu,
ông đọc ngay:

'Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì* nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa làn, nguyệt khuyết".

Lược dịch:

'Trời xanh mộ! áng mây
Lò dó ị hồng) mội hạt tuyết
Thượng uyển mội cành lìoa
Dao trì một mành trăng
Ôi! Mây tàn, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết".
{* Dị bản: Quảng hàn)
Vua Nguyên cùng triều Ihần vô cùng thán phục sự
mản tiệp của ông, và cuối cùng nhà vua đã phong tặng
ông danh hiêu "Lưỡng quốc irạng nguyên" (trạng
nguyên hai nước).
Người ta thường kể rằng:"Khi ồng đi thi, văn bài
rất xuất sắc đáng đỗ trạng nguyên. Nhưng vua Trần
Anh Tông thấy tướng mạo ông xấu xí, không muốn
lấy đỗ. Ông bèn dâng bài phú "Ngọc tỉnh liên" (tức là;
hoa sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá

p


thanh cao của mình. Vua xem xong rất cảm phục, bòn
cho ông đỗ trạng nguyên". Tuy nhiên, người kể lại
không dẫn lời nào của vua giúp ta rõ, vua cảm phục
cái "phẩm giá thanh cao" hay cái tài của tác giả, mà
trong bài phú, tác giả chỉ kể lại chuyện mình gặp đạo
sĩ, được đạo sĩ cho xem bông hoa sen quí, bèn ngẫu
hứng làm bài ca, ca ngợi mà thôi, tuyệt không có mộl
câu, một chữ nào liên hệ về mình. Và chúng ta cũng
không thấy ai coi bài phú này là có chứa đựng tâm sự

gì của "Mạc Đĩnh Chi".
Chúng ta lại xem một bài phú khác, bài "Hàn
vương tôn phú"^'^ của Đặng Trần Thường.
Đặng Trần Thường người huyện Chương Mỹ tỉnh
Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) đỗ sính đồ (tức tú tài)
đời Hậu Lê, vốn là bạn học với Ngô Thì Nhậm, nhưng
lại trở thành kẻ thù của Ngô Thì Nhậm. Khi Ngô Thì
Nhậm ra làm quan với Tây Sơn, thì ông trốn vào Nam,
phò Nguyễn Ánh, bày tỏ tình thế Bắc Hà, được
Nguyên Ánh tin dùng, ông bày mưu lập kế đánh Tây
Sơn, lập nhiều công trạng, được phong chức Tán lý đô
thống chế. Sau khi lên ngôi vua, Gia Long lại phong
cho ông chức Binh bộ Bắc thành, rồi lại triệu về kinh
làm Binh bộ thượng thư. Sau, vì có tội, bị bắt giam
trong ngục, làm bài phú này, cùng với bài "Tần cung
nữ oán Bái công văn". Cuối cùng, bị xử giảo.

Việt Nam thi văn hợp tuyển, của Dương Quảng Hàm (trang 109
110). Nha Học chính Đông Pháp, xuất bản 1943.

18


Hàn Tín là người huyện Hoài Âm, có tài trí,
nhưng nhà nghèo, ban đầu theo Sở bá vưcmg Hạng Võ,
không được trọng dụng, bèn bỏ theo Hán vương Lưu
Bang, nhờ có Tiêu Hà hết lòng tiến cử, nên được Lưu
Bang phong làm Đại tướng. Hàn Tín giúp Lưu Bang
lập nhiều chiến công, cuối cùng đã đại thắng Hạng Võ
trong trận Cai Hạ, khiến Võ phải tự đâm cổ chết. Lên

ngôi vua, Hán cao tổ phong cho Hàn Tín tước Hoài
Âm hầu, sau vu cho Tín làm phản, bắt trói Tín đưa về
Lạc Dương, tha cho Tín, rổi ít lâu sau lại mượn tay Lữ
Hậu bắt Tín và tru di tam tộc.
Hàn Tín cùng với Trương Lưcmg và Tiêu Hà là ba
đại công thần của nhà Hán, được Lưu Bang suy tôn là
tam kiột. Sau khi bình định giang scm, Hán cao tổ bắt
giam Tiôu Hà, tru di Hàn Tín, Bành Viột, chỉ trừ
Trương Lưcmg không làm quan mà theo đạo lu tiên
nên mới thoát chết.
Đặng Trần Thường cùng với Tả quân Lê Văn
Duyệt, Tiền quân Nguyễn Văn Thành, hậu quân Lê
Văn Qiất cũng là công thần, đã có công giúp Nguyễn
Ánh diệt Tây Sơn, lôn ngôi Hoàng đế. Nguyễn Vân
Thành thì vì một bài thơ của con trai, mà bị kết tội
phản nghịch, bị bắt giam rồi uống thuốc độc tự tử,
Đặng Trần Thường, được thăng đến Binh bộ thượng
Ihư, đối với Gia Long cũng có công trạng gần như Hàn
Tín đối với Hán cao tổ, và cũng bị bất giam, không
khác gì Hàn Tín. Vì vậy, trong cuốn Việt Nam sử
19


lược'^^^ Trần Trọng Kim đá viết: 'Tươìỉg truyền rằng
Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm hài "Hàn
vương tôn phú" bằng quốc âm đ ể ví mình như Hàn Tín
đời Hán".
Thật ra các nhà sưu tầm và nghiên cứu văn học
khi giới ihiệu hoặc irích dẫn bài phú này, không ai
nói là Đặng Trần Thường có ý ví minh như Hàn Tín,

hoặc có gửi gắm tâm sự gì trong bài ấy. Vì trong cả
bài, tác giả chỉ kể lại những bước gian truân của Hàn
Tín và ca tụng tấm lòng ưung hậu của Tín "ơn nho

nhỏ cũng lấy vàng mà báo đáp, oán rành rành cồn
lấy tước phẩm đ ể ban cho", và kể lại sự việc Tín bị
bắt chứ trong bài không có một câu, một chữ nào tác
giả liên hệ về mình.
Ngay cả câu kết:
'T a nay: xem pho cựi( sử, đọc truyện nhân thần,

thấy câu:"Hán đắc thiên hạ, đại đ ể giai Tín chi công"
chưa từng thán tích Hàn vương tôn chi anh tài, mà
thám trách Hán cao hoàng chi sai kỵ ", vẫn có thể coi
là của bất kỳ ngưồã nào, có gặp cảnh ngộ như Hàn Tín
hay không.
Do trong toàn bài phú không có câu, chữ nào lạc
ra ngoài đầu đề "Hàn vưcmg tôn", nên ngay cả vua
Minh Mạng, ngưòd đã hạ lộnh xử giảo Đặng Trần

Nhà xuất bản vàn hóa thông tin ấn hành, năm 2002, trang 451

20


Thường, cũng chỉ "cho là Đặng có ý oán hận' chứ
không thể công khai kết tội ông về bài phú đó. Và
chúng ta cũng không thể từ bài phú ấy mà rút ra được
kết luận gì chắc chắn về tâm sự tác giả.
Qiúng ta lại xem bài "Ngọa long cương vãn" của

Đào Duy Từ ([5], tập II, trang 618 - 622).
Đào Duy Từ (xem Binh thư yếu lược, của
ƯBKHXH do NXB Khoa học xã hội phát hành, năm
1977) sinh vào khoảng năm 1572 ở xã Hoa Trai,
huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, ông
thông minh, học rộng, nhưng vì là con nhà phường
chèo, nén không được đi thi. ô n g căm phẫn trốn vào
Nam. Đầu tiên, ông đi ở chăn trâu cho một phú ông ở
xã Tùng Châu, huyện Hoài Nhơn. Tương truyền, một
hôm đi chăn trâu về thấy trong nhà có nhiểu khách
cùng chủ nhà bàn luận thế sự, ông vẫn tay cầm roi,
tay giữ thừng trâu chắp sau lưng đứng ngoài thềm
sang sảng nghị luận rất xác đáng, khiến mọi người
rất khâm phục. Phú ông liền tiến cử ông với khám lý
Hoài Nhom là Trần Đức Hòa, Duy Từ liền dâng bài
"Ngọa long cưcmg vãn". Đức Hòa lại đem bài đó cho
chúa Nguyễn Phúc Nguyên xem, chúa mừng lắm,
bèn mời Duy Từ đến hỏi chuyện và ngay sau đó trao
cho ông chức Nha úy nội tán, tước Lộc khê hầu,
trông coi việc quân cơ.
Đào Duy Từ giúp chúa Nguyễn làm nên nhiều
việc lớn, giúp chúa xây lũy Trường Dục và lũy Đổng
21


Hới (thường gọi là lũy Thày, vì mọi người đều tôn ông
là bậc thày), nhờ đó chúa Nguyễn đã ngăn chặn được
các cuộc tiến công của chúa Trịnh, rồi xưng vương ở
phía Nam.
Đào Duy Từ được coi là Đệ nhất khai quốc công

thần của nhà Nguyễn.
Đọc bài "Ngọa long cưoíng vãn", khám lý Trần
Đức Hòa nói: "Đào Duy Từ là Ngọa Long'” đời nay
chăng?", còn chúa Nguyễn thường nói với mọi ngưcri:
"Đào Duy Từ thật là Tử Phòng (tức là Trưcfng Lưcmg)
và Khổng Minh (Gia Cát Lượng) ngày nay". Tác giả
biên soạn tài liộu [5] cũng nói: "Tác giả viết bài này

có ỷ ví mình như Khổng Minh và hy vọng chúa
Nguyễn biết dùng tài minh''. Các ông sở đĩ khẳng định
dứt khoát được như vậy, vì sau cả 130 câu chỉ kể vé
các chiến công của Khổng Minh, bài vãn được kết
thúc bằng bốn câu:

"Chốn này thiên hạ đời dùng
Ất là cũng có Ngọa Long ra đời
Chúa nay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn b ể dưới trời đêu yên".
Đào Duy Từ nói không úp mở, rằng "Ngọa Long
cũng đã ra đời ở nơi này, và nếu chúa dùng được tài

Ngọa Long Cương là tèn vùng đất què hương của Khổng Minh, và
Khổng Minh cũng lấy tèn hiệu là Ngọa Long (nghĩa là: rồng nằm).

22


của tỏi. thì bốn bể đều yên" thì khác gì tự nhận mình
là Ngọa Long thời nay?
Qua mấy thí dụ trên, chúng ta có thể thấy rằng

các nhà văn, nhà thơ trước kia thường không mấy khi
nói thẳng ý kiến hoặc tâm tư của mình, mà thường
mượn một nhân vật lịch sử, hoặc một nhân vật do
mình tưởng tượng, hoặc một sự vật vô tri được nhăn
cách hóa nói thay cho mình. Khi mượn lời nhân vật
hoặc sự vật. bao giờ các cụ cũng rất rạch ròi, minh
bạch. Trong tác phẩm, các tác giả đều phân biệt rõ
ràng, rành mạch, phần nào nói về nhân vật, còn phần
nào là liên hệ về mình. Có thể là do giữa nhân vật và
tác giả chỉ có sự tương đồng ở một sô' điểm, một số
mặt, một số chỗ, chứ không thể có sự tương đồng hoàn
toàn, nên để người đọc khỏi suy diễn lung tung, rồi
gán cho tác giả ià có ý ám chỉ không tốt, để qui tội
cho tác giả - như chuyên Nguyễn Văn Thành, chỉ vì
một câu, trong một bài thơ của con trai là Nguyễn Văn
Thuyên bị cho là "lời thơ hơi có ý tứ ngỗ nghịch" mà
phải đưa ra xét xử, đến phải uống thuốc độc tự tử,
chẳng hạn,- tác giả phải có những câu, chữ để lưu ý
độc giả chỉ nẽn quan tâm đến những chỗ tưcmg đồng
đó mà thôi. Nếu trong bài văn không có câu, chữ nào
liên quan đến tác giả, như trong hai bài "Ngọc tỉnh
liên" và "Hàn vương tôn phú" trên đây, thì chúng ta
không thể coi bài đó là lời tâm sự của tác giả.
Không riêng gì các nhà văn, nhà thơ Viột Nam,
mà cả các danh sĩ Trung Hoa cũng tuân theo thông lệ
23


này, Ta hãy xét bài thơ dài: "Tỳ bà hành" nổi tiếng
trong vãn học Trung Hoa và Việt Nam, đặc biệt là

trong giód "nghiền" ca trù.
Theo tài liệu [5], trang 464 - 468, thì: 'T ỳ h à hành
là một bài thơ dài, của Bạch Cư DỊ, đời Đường". Bạch
Cư Dị, tự Lạc Thiên là một nhà thơ lớn thời Trung
Đường. Vốn là người trung trực, đương làm quan ờ
kinh, ông bị bọn nịnh thần gièm pha, phải biến ra đất
Giang Qiâu. Nhân đêm khuya gặp người kỹ nữ vể già ở
bến Tầm Dương gảy đàn tỳ bà và kể thân thế cho nghe,
tiếng đàn não nuột, thân ứiế lại có chỗ giống mình, ông
cảm khái viết nên bài Tỳ bà hành.
Phan Huy Vịnh, người làng Thụy Khê, huyện
Yên Sơn, tỉnh Scm Tây (nay Ihuộc Hà Nồi) đõ cử nhân
dưới triều Minh Mạng, làm quan trải ba triều Minh
Mạng, Thiêu Trị và Tự Đức là người dịch Tỳ b à hành
ra tiếng Việt thành công hơn cả. Bản dịch của Phan
Huy VỊrưi^'^ còn là một trong những áng văn dịch hay
nhấl trong văn học ta, rất phổ cập và được coi trọng
không khác gì một tác phẩm xuất sắc trong nước.
Một nữ sĩ (hay là công chúa, tôi tiếc không nhớ
chính xác) đọc Tỳ bà hành đã than rằng: "Đọc Tỳ hà

hành càng cảm thươtìg chàng Giang Châu Tư mã".
Một nhà văn Trung Hoa nghe câu than đó, đã nức nở
khen: "Đọc như thế mới là hiểu Tỳ bà hành". Qiúng ta

Nay nhiều người cho là của Phan Huy Thực, bố của Phan Huy Vịnh.

24



có thê dễ dàng hiểu tại sao, hai danh sĩ, hoàn toàn
không quen biết nhau, thuộc hai dân tộc khác nhau, ở
hai đấi nước khác nhau, lại có cùng một mối đồng
cảm với lác giả "Tỳ bà hành". Đó là vì, sau 62 câu
dành cho tiếng đàn và thân thế người kỹ nữ, Bạch Cư
Dị đã thốt lèn những lời cảm khái về thân phận mình:
(xem [5], trang 466).

"Nghe đàn, ta đ ã chạnh buồn
Lại rầu thêm nỗi nì non mấy lài
Cùng một lứa bên trời lận đận
Găp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dươììg đất trích gối sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ơi vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch suốt năm
Sóng Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng, trúc võ, nảy mẩm quanh hiên
Tiếng chi dó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sấu, vượn hót véo von
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lán tay chuốc, chén son riêng ngừìig
Há chẳng có ca rừỉĩg địch nội
Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe..."
Qua những lời tự sự này, tác giả chỉ nói đến nỗi
buồn của riêng mình, không một lời oán trách nhà
vua. Do đã phân biệt rạch ròi, lời nào là của người kỹ
25



nữ, lời nào là của tác giả. nên không ai nói rằng, tác
giả mượn lời người kỹ nữ oán trách chồng mình:

Khách trọng lợi khinh dường ly cách
Mái huân chè sớm têclĩ nguồn khơi...
để kín đáo tỏ ý oán hận nhà vua, mà người đọc "Tỳ bà
hành" chỉ có thể "cảm thương chàng Giang Châu Tư
mã" chứ không thể chia sẻ với chàng lòng oán hận ai.
Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng, có một
ước lệ không thành văn của các nho sĩ trước kia, là khi
mượn lời một nhân vật, hoặc một sự vật nào để kín
đáo giãi bày tâm sự của mình bằng một tác phẩm văn
học, tác giả luôn luôn rạch ròi, minh bạch: họ dùng
một vài câu, chữ thích hợp, để báo cho người đọc, đây
mới là lời tâm sự của tác giả, còn lời lẽ của nhân vật,
dù phát biểu trong một hoàn cảnh hoàn toàn giống như
cảnh ngộ của tác giả, - như lời oán hận của ngưcri kỹ
nữ trên đây - vẫn chỉ là lời bộc lộ tình cảm cùa nhân
vật, chớ không phải của tác giả.
Nguyễn Du, khi ký thác tâm sự mình vào
"Tniyộn Kiéu" lất cũng phải theo thông lộ này. Trong
cuộc đời đầy gian truân của mình, kể từ lúc gặp Kim
Trọng lần đầu, tới lúc tái hợp với chàng, Thúy Kiều đã
trải qua nhiều cảnh ngộ rất khác nhau. Đâu phải tất cả
các cảnh ngộ đó đéu giống cảnh ngộ của Nguyễn Du?
Mà dù cho cảnh ngộ giống nhau thì tinh cảm, tư tưởng
của nàng Kiều đâu đã chắc là giống như tình cảm, tư
26



tưởng của tác già? Nguyễn Du xây dựng "Truyện
Kiều" trong đó mỗi nhân vật có một tính cách hoàn
toàn xác định; do đó, hành động, tư iưởng, tình cảm
của nhàn vật trong mỗi hoàn cảnh đều phải phù hợp
với tính cách mà tác giả đã định trước cho nhân vật,
không Ihể tùy tiện uốn nấn theo ý thích riêng của
mình. Nói một cách khác, không thể cho ràng cả 3254
câu Kiểu đều chứa đựng tâm sự của tác giả, muốn
trích dần câu nào cũng có thể minh chứng rằng đó là
thái độ. hoặc tư tưởng, lâm sự Nguyễn Du. Thí dụ, lời
Kiều khuyên Từ Hải:

2495

Làm chi d ể tiếng về sau

2496

Nghìn năm ai có khen đàu Hoàng Sào...

có người cho rằng Kiều không coi Từ Hải là anh
hùng nữa, mà coi Từ Hải cũng chỉ là một tướng giặc
như Hoàng Sào (dưcri đây, tôi sẽ còn trở lại chi tiết
này), và như thế là Nguyễn Du, cuối cùng, cũng coi
Quang Trung là giặc. Theo ý tôi, ta không có căn cứ
nào để coi lời đánh giá trên của Kiều, về Từ Hải,
cũng đồng thời là lời đánh giá của Nguyễn Du, về
vua Quang Trung. Theo logic của truyện, thì Kiều
chỉ nhầm một mục đích là thuyết phục Từ ra hàng,
mà Từ vốn là người kiêu căng, tự phụ, nên Kiéu đưa

ra lời đánh giá đó để đánh đúng vào nhược điểm đó
của Từ. Vả chăng lời của Kiều cũng có một phần
đúng, mà Từ có lẽ cũng tự thấy là Từ không đủ sức
chống đỡ lâu dài với quân triều đình, cuối cùng sẽ
27


×