Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA VÀ CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG NGHIỆP VỤ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.21 KB, 21 trang )

BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI
VỚI NGƯỜI THỨ BA VÀ CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG
NGHIỆP VỤ
I. Khái quát chung về bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba:
1. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba.
1.1 Sự cần thiết của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Ngày nay, cùng với những thành tựu to lớn của nền kinh tế, đời sông vật
chất nhân dân ngày càng nâng cao, các nhu cầu cơ bản của phần lớn người dân
được đáp ứng và những nhu cầu mới cao hơn được hình thành. Nhu cầu đi lại
của người dân cũng vì thế mà không ngừng tăng lên.
Hiện nay, xe cơ giới được sử dụng hầu hết trong mọi sinh hoạt hàng ngày
của người dân , từ việc phục vụ nhu cầu đi lại đến sử dụng trong kinh doanh vận
chuyển hàng hoá. Một đặc tính nổi trội của xe cơ giới là có tính việt dã cao, nó
tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển do vậy xác suất rủi ro là rất lớn. Đặc
biệt trong điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông và ý thức chấp hành luật lệ an toàn
giao thông của người dân hiện nay là còn rất hạn chế. Do vậy khi tham gia giao
thông nguy cơ gây ra tai nạn của chủ phương tiện là không thể tránh khỏi đối
với bất kỳ ai. Khi tai nạn xảy ra lúc này sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ
phương tiện. Chủ phương tiện phải có trách nhiệm bồi thường những tổn thất
mà mình gây ra cho người thứ ba. Đối với những vụ tai nạn có số tiền thiệt hại
là nhỏ thì họ có thể đủ khả năng để bồi thường được, tuy nhiên đối với những
tôn thất lớn nằm ngoài khả năng tài chính của họ, việc bồi thường thiệt hại lúc
này trở nên vô cùng khó khăn. Như vậy, khi xảy ra tai nạn đều gây ra gánh nặng
về tài chính đối với cả người gây ra tổn thất và người bị tổn thất. Chính vì vậy
sự ra đời của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là một tất yếu
khách quan, lúc này nhà bảo hiểm sẽ đứng ra bồi thường thiết hại hoặc gánh vác
một phần tài chính đáng kể để giúp người gây ra tai nạn thực hiện nghĩa vụ bồi
thường của mình theo qui định của pháp luật, đồng thời góp phần đảm bảo công
bằng cho xã hội.


1.2 Tác dụng của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Như đã nêu ở trên, sự ra đời của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới với người
thứ ba là một tất yếu khách quan, nó có tác dụng vô cùng to lớn trong đời sống
sinh hoạt hàng ngày của mỗi người dân và của toàn xã hội. Cụ thể như sau:
- Một là: Bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới với người thứ ba góp phần tích
cực ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông. Tham gia sản phẩm bảo hiểm
này góp phần tác động vào ý thức của người dân trong việc chấp hành nghiêm
chỉnh những qui đinh về an toàn giao thông, mỗi người khi tham gia giao thông
đều ý thức được trách nhiệm về sự an toàn của chính bản thân mình và của
những người khác trong xã hội. Như vậy, khi ý thức về an toàn giao thông được
cải thiện theo phản ứng dây truyền số lượng các vụ tai nạn giao thông cũng
được giảm đi một cách đáng kể.
- Hai là: Góp phần ổn định tài chính, sản xuất kinh doanh cho các chủ
phương tiện. Trong trường hợp rủi ro xảy ra, khi tham gia giao thông chủ
phương tiện gây ra tổn thất cho người thứ ba; lúc này họ phải có trách nhiệm
bồi thường những thiệt hại mà họ đã gây ra. Những khoản bồi thường này đôi
khi là quá lớn do vậy sẽ tạo ra những gián đoạn lớn trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày cũng như sản xuất kinh doanh của họ. Thay vào đó nếu chủ phương
tiện tham gia bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, lúc này nhà
bảo hiểm sẽ đứng ra gánh vác giúp họ trang trải một phần chi phí đáng kể trong
việc bồi thường thiệt hại cho bên thứ ba, và do vậy giúp họ phần nào ổn định
được đời sống hàng ngày cũng như sản xuất kinh doanh của mình.
- Thứ ba: Góp phần xoa dịu bới sự căng thẳng giữa chủ xe với phía nạn
nhân trong các vụ tai nạn. Khi tai nạn xảy ra sẽ rất dễ dẫn đến sự bất hoà giữa
chủ phương tiện và đối tượng bị thiệt hại. Nhìn chung, những mâu thuẫn đó
thường liên quan đến việc xác định lỗi thuộc về ai, số tiền bồi thường như thế
nào, thương thức tiến hành giải quyết bồi thường ra sao cho phù hợp và thuận
tiện với từng bên liên quan…. Các mâu thuẫn này đôi khi là rất lớn, các bên liên
quan không tự giải quyết được với nhau dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện tại toà
án. Tuy nhiên tất cả các tranh chấp này đều có thể giải quyết được một cách

nhanh chóng nếu chủ phương tiện tham gia bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba. Là những người chuyên nghiệp các công ty bảo hiểm sẽ kết
hợp với các bên có liên quan để xác định phần lỗi của chủ phương tiện, xác định
số tiền bồi thường và phương thức bồi thường hợp lý đồng thời tiến hành bồi
thường thiệt hại cho bên thứ ba. Như vậy sự có mặt của các nhà bảo hiểm làm
cho mọi việc trở nên suôn sẻ và dễ dàng hơn rất nhiều.
- Bốn là: Góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người dân, tăng thu ngân
sách để từ đó nhà nước có điều kiện đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tâng
giao thông. Một điều chúng ta dễ nhận thấy nhất ở Việt Nam khi mới thực hiện
triển khai bắt buộc bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đó là
việc thu hút được một lớn người dân tham gia là đại lý bán bảo hiểm ôtô, xe
máy cho các công ty bảo hiểm, tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn người lao
động.
2. Đặc điểm của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
2.1 Nghiệp vụ này được thực hiện dưới hình thức bắt buộc:
Trên thế giới hiện nay, ở các nước có ngành bảo hiểm phát triển thì hầu hết
các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm nói chung và bảo hiểm trách nhiệm dân sự
chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng đều được thực hiện dưới hình thức
bắt buộc. Ở Việt Nam, trách nhiệm dân sự cũng được qui định chặt chẽ trong bộ
luật dân sự Việt Nam, theo đó tại điều 308 bộ luật này có qui định các lỗi sau
đây phát sinh trách nhiệm dân sự:
- Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì
phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình
sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy
không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
- Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại
sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho

rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Trong trường hợp phát sinh trách nhiệm dân sự gây thiệt hai cho bên thứ ba
thì người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ
ba. Điều này được qui đinh trong điều 307 bộ luật dân sự Việt Nam. Cụ thể như
sau:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất
vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất
về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
- Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản
tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
Trên tinh thần đó của luật dân sự, luật kinh doanh bảo hiểm ngày
22/12/2000 cũng có những qui định cụ thể về từng loại hình bảo hiểm trách
nhiệm dân sự. Theo đó tại khoản 2 điều 8 luật kinh doanh bảo hiểm qui định:
Bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
a, Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách;
b, Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật;
c, Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm;
d, Bảo hiểm cháy, nổ.
Như vậy, Ở nước ta bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
được thực hiện bắt buộc theo qui định của pháp luật. Việc thực hiện bắt buộc
góp phần đảm bảo tính công bằng trong xã hội và đảm bảo quyền lợi của mọi
công dân. Ngoài ra, thực hiện bắt buộc còn góp phần nâng cao tinh thần trách
nhiệm và ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông của mọi người dân và đặc
biệt là của các chủ phương tiện xe cơ giới.

2.2 Bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thường áp dụng giới
hạn trách nhiệm:
Bảo hiểm trách nhiệm nói chung và bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba nói riêng đều bồi thường cho những trách nhiệm sẽ phát sinh trong
tương lai. Chính vì vậy, những trách nhiệm này đôi khi là quá lớn và không
lường trước được gây ra những thiệt hại về tài chính nặng nề cho các nhà bảo
hiểm. Mặt khác, khi tham gia bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba ngoài điểm tích cực là nâng cao ý thức an toàn giao thông cho người dân,
nếu các công ty bảo hiểm không có chế tài quản lý hợp lý sẽ dễ dẫn đến trường
hợp người tham gia dựa vào các nhà bảo hiểm mà không có trách nhiệm trong
việc bồi thường tổn thất cho bên thứ ba, do vậy họ thờ ơ trước những tổn thất do
lỗi của mình gây ra. Để đối phó với những lý do trên trong nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba các nhà bảo hiểm
thường đặt ra hạn mức trách nhiệm của mình ở một số tiền bảo hiểm nhất định.
Ở Việt nam hiện nay, theo quyết định số 23/2007/QĐ- BTC mức trách
nhiệm nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới của các công ty bảo hiểm
được qui định như sau:
TNDS của chủ xe mô tô:
Về người: 30 triệu đồng/ người (đối với người thứ ba )
Về tài sản: 30 triệu đồng/ vụ (đối với người thứ ba )
TNDS của chủ xe ôtô:
Về người: 50 triệu đồng/ người (đối với người thứ ba và hành khách theo
hợp đồng vận chuyển hành khách )
Về tài sản: 50 triệu đồng/ người (đối với người thứ ba )
2.3 Đối tượng bảo hiêm mang tính chất trừu tượng:
Trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba, đối tượng bảo hiểm được xác định là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ
phải bồi thường thiệt hại của chủ xe cơ giới khi quá trình tham gia giao thông
của họ gây tổn thất, thiệt hại cho người khác; do đó đối tượng bảo hiểm của
nghiệp vụ này rât trừu tượng.

Theo qui định của bộ luật dân sự thì trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có đủ
các điều kiện sau:
- Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba;
- Có hành vi không đúng pháp luật của cá nhân hay tổ chức;
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của cá nhân hay tổ chức đó với
thiệt hại của bên thứ ba
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm nói chung thi phần trách nhiệm
thực tế phát sinh la bao nhiêu được qui định bởi sự phán quyết của toà án và phù
hơp với điều kiện hoàn cảnh của từng cá nhân, tổ chức nhất định.
Ở nước ta hiện nay, chính vì đối tượng bảo hiểm trừu tượng của nghiệp vụ
bảo hiểm này cộng với ý thức và hiểu biết về pháp luật dân sự của người dân
còn nhiều hạn chế nên để triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này thành công, các
công ty bảo hiểm và phía các cơ quan nha nước có thẩm quyền cần phải tích cực
tuyên truyền, phổ biến để nâng cao hiểu biết của người dân về sự cần thiết cũng
như hiệu quả của việc triển nghiệp vụ bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba cũng như nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ Bảo hiểm TNDS của chủ xe cớ giới đối
với người thứ ba:
3.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm:
3.1.1 Đối tượng bảo hiểm:
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba, người tham gia bảo hiểm thông thường là các chủ phương tiện.
Họ có thể là cá nhân họ là chủ của các phương tiện phục vụ nhu cầu đi lại hàng
ngày, cũng có thể họ là các tổ chức, các doanh nghiệp có số lượng xe lớn phục
vụ cho công việc hoặc quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Về phía các
công ty bảo hiểm, các nhà bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm
dân sự của chủ xe đối với người thứ ba khi quá trình tham gia giao thông họ gây
ra lỗi và dẫn đến tổn thất cho bên thứ ba. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
là phần trách nhiệm được xác định bằng tiền theo qui định của pháp luật và sự
phán quyết của toà án để xác định chủ xe phải gánh chịu một số tiền là bao

nhiêu do lỗi của mình gây ra cho người thứ ba.
Người thứ ba ở đây được hiểu là phía nạn nhân trong các vụ tai nạn, người
thứ ba có thể là một người hoặc nhiều người, cũng có thể là những thiệt hại về
tài sản, tư trang hành lý, hoa màu…. Do việc sử dụng xe cơ giơi gây ra. Tuy
nhiên, theo qui định tại Quyết đinh số 23/2007/QĐ-BTC ngày 9 tháng 4 năm
2007 của Bộ Tài chính những trường hợp sau đây không được coi là người thứ
ba:
- Lái xe, phụ xe trên chính chiếc xe đó;
- Người trên xe và hành khách trên chính chiếc xe đó;
- Chủ sở hữu xe trừ trường hợp chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm
hữu, sử dụng chiếc xe đó.
Như vậy với những điều nêu trên, đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là “ trách nhiệm và
nghĩa vụ bồi thường của chủ xe cho người thứ ba khi xe của họ lưu hành phát
sinh trách nhiệm dân sự gây tổn thất cho người thứ ba”. Trach nhiệm dân sự của
chủ xe chỉ phát sinh từ những cơ sở sau đây:
- Chủ xe/ lái xe phải có lỗi ;
- Người thứ ba phải có thiệt hại thực tế;
- Nguyên nhân của vụ tai nạn phải gắn liền với hậu quả của nó.
3.1.2 Phạm vi bảo hiểm:
■ Những rủi ro được bảo hiểm:
Trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba, những rủi ro bất ngờ, không lường trước được gây ra tai nạn, làm phát
sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Cụ thể các thiệt hại sau nằm trong phạm vi
trách nhiệm bồi thường của các công ty bảo hiểm:
- Tai nạn gây thiệt hại đến tính mạng tình trạng sức khoẻ của người thứ ba;
- Tai nạn gây thiệt hại đến tài sản của người thứ ba;
- Những tai nạn gây thiệt hại đến quá trình sản xuất kinh doanh cùa người
thứ ba;
- Những rủi ro gây thiệt hại đến tính mạng, tình trạng sức khoẻ của người

tham gia cưú chữa nhằm giảm mức độ thiệt hại trong các vụ tai nạn;
- Các chi phí cần thiết và hợp lý trong các vụ tai nạn có phát sinh trách
nhiệm dân sự
■ Những rủi ro loại trừ:
Nhà bảo hiểm sẽ không chấp nhận bồi thường đối với những vụ tai nạn do
chủ xe gây ra mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự trong những trường hợp
sau:
- Tai nạn do hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người thiệt hại;
- Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng luật lệ an toàn giao thông như: lái xe
không có bằng lái hoặc bị tịch thu bằng hoặc bằng không hợp lệ; lái xe sử dụng
chất kích thích trong khi tham gia giao thông; xe chở chất cháy, chất nổ trái
phép; xe chở quá khổ, quá tải hoặc chạy quá tốc độ

×