Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phương hướng và biện pháp đổi mới hoạt động kinh doanh ở Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.79 KB, 19 trang )

Phương hướng và biện pháp đổi mới hoạt động kinh doanh ở
Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ
I/ MỤC TIÊU PHƯƠNG HƯỚNG CỦA CÔNG TY TRONG NHỮNG NĂM TỚI
Sau khi chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần hoạt
động sản xuất kinh doanh đã từng bước được ổn định và có hiệu qủa. Để đảm
bảo cho sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn, thị trường được mở
rộng hơn, mẫu mã sản phẩm đa dạng hơn và ngành nghề kinh doanh được mở
rộng hơn, công ty đã đặt ra mục tiêu phương hướng cho những năm tới:
- Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, phát huy sáng kiến cải
tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
- Tìm thêm những bạn hàng lớn làm ăn lâu dài để có kế hoạch sản xuất
kinh doanh trong thời gian tới.
- Đa dạng hóa mặt hàng sản xuất kinh doanh để từ đó có cơ sở bố trí sắp
xếp lao động hợp lý.
Những chỉ tiêu chủ yếu của năm 1999 của Công ty thể hiện như sau:
- Sản lượng thực hiện : 6.000.000 viên gạch ngói các loại
- Doanh thu: 2.000.000.000 đồng
- Lợi nhuận sau thuế: 210.000.000 đồng.
- Nộp ngân sách: 100.000.000 đồng
- Thu nhập bình quân: 380.000đồng/người/tháng
* Chỉ tiêu định hướng từ năm 2000 đến 2005 của Công ty tập trung vào
đẩy nhanh sản lượng hàng hoá, phấn đấu đến năm 2005 đạt mức sản lượng
10.000.000 viên gạch ngói các loại.
Cơ cấu mặt hàng mở rộng, ngoài các loại gạch ngói, gạch chống nóng còn
sản xuất các loại vật liệu xây dựng khác, xây dựng cơ bản, nuôi trồng hải sản;
sản xuất các sản phẩm cao cấp khác như gạch Ceramic, Grannit ...
Kế hoạch phát triển công ty từ năm 2000-2005 được chia thành 3 giai
đoạn:
Giai đoạn I: Từ 2000-2002 nâng sản lượng lên 7.000.000 sản phẩm/năm.
Giai đoạn II: Từ 2002-2004 nâng sản lượng lên 10.000.000sản phẩm
gạch, ngói/năm và mở rộng sản xuất đa dạng hoá sản phẩm như làm gạch


chống nóng 3-10 lỗ, gạch lá nem, lá dừa và các loại vật liệu xây dựng khác như
gạch xi măng lát vỉa hè, các sản phẩm bằng bê tông, đá các loại, tiến tới sản
xuất các loại vật liệu xây dựng cao cấp khác.
Giai đoạn III: Từ 2004-2005, sau khi có đủ điều kiện về vốn, năng lực sản
xuất kinh doanh, có nhiều bạn hàng quen thuộc công ty sẽ đi vào kinh doanh
ngành nghề xây dựng. Với điều kiện thuận lợi hiện nay công ty đã có năm kỹ sư
xây dựng, một kỹ sư kinh tế xây dựng, một trung cấp xây dựng. Tại địa bàn
huyện Yên Mô chưa có đơn vị nào kinh doanh ngành nghề xây dựng vì vậy
phương hướng hoạt động về ngành nghề này mang tính khả thi cao.
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: từ những thế mạnh sẵn có của thiên
nhiên trao tặng, trữ lượng đất còn rất lớn, chất lượng đất cho ra chất lượng
sản phẩm tốt và thị trường tiêu thụ rộng rãi. Từ xưa gạch ngói Yên Từ đã có
tiếng trên toàn tỉnh Hà Nam Ninh cũ và vào cả trong Thanh Hoá, ra Hà Nội.
Trên toàn tỉnh Ninh Bình các doanh nghiệp sản xuất gạch chống nóng, lá nem,
lá dừa còn ít. Vì vậy thị trường tiêu thụ sản phẩm còn rất lớn vấn đề còn lại là
năng lực sản xuất kinh doanh của công ty để làm sao cho ra những sản phẩm
có mẫu mã đẹp chất lượng tốt và giá cả hợp lý.
Về nguyên liệu vật liệu: khả năng khai thác đất với diện tích đất là 21ha
phần lớn số đất chưa được khai thác hết và không có kế hoạch cụ thể dẫn đến
tình trạng lãng phí rất nhiều. Do đó công ty phải có kế hoạch cụ thể để tận
dụng hết khả năng khai thác đất. Do điều kiện địa lý thuận lợi nên sau khi khai
thác xong có thể khoanh vùng để chặn phù sa sau 5 năm có thể quay lại tiếp
tục khai thác do đó nguồn nguyên liệu chính là ổn định. Nhiên liệu như than,
củi, điện, nước do điều kiện địa lý thuận lợi nên việc cung cấp nhiên liệu cho
hoạt động sản xuất tương đối thuận tiện. Hiện công ty có hai trạm biến áp
công suất 280KVA thực tế chưa sử dụng hết nên khả năng cung cấp điện cũng
tương đối tốt.
II/ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI CÁC MẶT HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY
1. Đổi mới hoạt động thương mại đầu vào
Hoạt động thương mại đầu vào cho sản xuất bao gồm từ khâu nghiên cứu

thị trường, xác định nhu cầu vật tư của doanh nghiệp, xác định nguồn vật tư,
lập kế hoạch mua sắm vật tư, tổ chức mua sắm, tổ chức tiếp nhận, bảo quản và
cấp phát, đến việc tổ chức quản lý sử dụng và quyết toán vật tư.
Phải tổ chức tốt việc nghiên cứu thị trường và lập kế hoạch mua sắm vật
tư cho doanh nghiệp: kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng của
kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính của doanh nghiệp. Việc xây dựng kế
hoạch mua sắm kịp thời và có chất lượng cho phép đảm bảo các yếu tố của
sản xuất một cách có hiệu quả nhất. Lập kế hoạch mua sắm vật tư đòi hỏi phải
nghiên cứu kỹ thị trường các yếu tố của sản xuất để xác định nhu cầu vật tư
cho doanh nghiệp cả về số lượng, chất lượng, thời gian và giá cả, nghiên cứu
nhiệm vụ sản xuất trong năm kế hoạch, khả năng tiêu thụ sản phẩm, kiểm tra
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch vật tư năm báo cáo, xác định lại bảng
danh mục vật tư tiêu dùng trong năm kế hoạch, xây dựng và chỉnh lý lại các
loại định mức, bao gồm định mức tiêu hao nguyên vật liệu, định mức sử dụng
công suất thiết bị máy móc và định mức dự trữ vật tư, tính toán các nhu cầu
vật tư trong toàn bộ doanh nghiệp và cho tất cả các loại công việc, tính toán
nguồn vật tư, lên biểu tổng hợp nhu cầu vật tư và biểu cân đối vật tư.
- Tổ chức tốt việc mua sắm vật tư, trên cơ sở kế hoạch mua sắm vật tư và
kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp lên đơn hàng vật tư và tổ chức
thực hiện bảo đảm vật tư cho sản xuất. Lên đơn hàng là quá trình cụ thể hoá
nhu cầu đến các quy cách, chủng loại và thời gian nhận hàng. Lập đơn hàng là
công việc hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức mua sắm vật tư hàng hoá
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một sai sót nào
cũng có thể dẫn đến việc đặt mua những vật tư mà nhu cầu sản xuất không
cần hoặc không đủ so với nhu cầu. Để lập đơn hàng được chính xác, bộ phận
lập đơn hàng phải tính đến các cơ sở để lập đơn hàng như nhiệm vụ sản xuất,
hệ thống định mức tiêu dùng vật tư, định mức dự trữ vật tư, lượng tồn kho vật
tư, kế hoạch tác nghiệp về đảm bảo vật tư quý, tháng... Nhiệm vụ quan trọng
trong công tác lập đơn hàng là chọn và đặt mua những loại vật tư hàng hoá
phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Tổ chức mua sắm vật tư ở doanh nghiệp

được thực hiện trên cơ sở đơn hàng và hợp đồng ký kết và như vậy việc lập
đơn hàng, thảo hợp đồng hoặc ký kết hợp đồng phải thật chặt chẽ hạn chế tối
đa những rủi ro có thể xảy ra trong khi thực hiện hợp đồng.
- Tổ chức chuyển đưa vật tư hàng hoá về doanh nghiệp đóng vai trò quan
trọng. Đây là một trong những giai đoạn kết thúc của công tác các yếu tố vật
chất cho sản xuất. Quản lý và tổ chức tốt việc vận chuyển, tiếp nhận hàng hoá
sẽ tạo điều kiện cung ứng vật tư kịp thời và đồng bộ cho sản xuất của doanh
nghiệp, giữ gìn tốt số lượng và chất lượng vật tư hàng hoá, bảo đảm sử dụng
có hiệu quả vốn lưu động và giảm được chi phí kinh doanh.
Chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp nên thực hiện bằng phương pháp tập
trung để giải phóng doanh nghiệp khỏi bận tâm lo lắng trong việc đảm bảo vật
tư cho sản xuất nhờ đó có thể tập trung quản lý và đẩy mạnh sản xuất.
- Tiếp nhận và bảo quản vật tư về số lượng và chất lượng. Khi hàng hoá
vật tư chuyển về đến doanh nghiệp, cần tổ chức tốt công tác tiếp nhận và bảo
quản. Mục đích của công tác này là kiểm tra việc thực hiện các hợp đồng mua
bán vật tư, hàng hoá về nguyên vẹn, bảo đảm số lượng và chất lượng hay
không? Ai là người chịu trách nhiệm về những hao hụt và hư hỏng đó?
Sau khi tiếp nhận vật tư, hàng hoá phải tổ chức quản lý và bảo quản ở
kho, trang bị kho và tổ chúc bảo quản kho phải bảo đảm giữ gìn tốt số lượng
và chất lượng, đồng thời phải tuân thủ yêu cầu dễ thấy, dễ lấy, dễ kiểm tra và
mỹ thuật kho tàng.
- Cấp phát vật tư cho phân xưởng sản xuất là một công tác hết sức quan
trọng. Tổ chức tốt công tác này sẽ đảm bảo cho sản xuất của doanh nghiệp tiến
hành được nhịp nhàng, góp phần tăng năng suất lao động của công nhân, tăng
nhanh vòng quay vốn lưu động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm. Việc cấp phát được tiến hành theo hạn mức. Hạn mức là lượng vật tư
quy định cho phân xưởng trong kỳ kế hoạch để phân xưởng thực hiện nhiệm vụ
sản xuất được giao. Hạn mức cấp phát nâng cao trách nhiệm của phân xưởng
trong việc sử dụng số lượng vật tư lĩnh được một cách hợp lý và tiết kiệm.
- Quyết toán và kiểm tra sử dụng. Để nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu

tố đầu vào (vật tư) của sản xuất đòi hỏi doanh nghiệp phải định kỳ quyết toán
vật tư sử dụng. Việc quyết toán vật tư nhằm tính toán lượng vật tư thực chi có
đúng mục đích không? Việc sử dụng các yếu tố vật chất có tuân thủ các định
mức tiêu dùng hay không? Lượng vật tư tiết kiệm hoặc bội chi? Nguyên nhân
gây lãng phí trong sử dụng vật tư ở doanh nghiệp và từ đó đưa ra những giải
pháp phù hợp với thực tế.
2. Đổi mới tổ chức lao động ở doanh nghiệp
Trong quá trình vận hành doanh nghiệp, chúng ta nhận thấy rằng, nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh sẽ không hoàn thành nếu không có con người hay nói
cách khác nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp là con
người chính vì vậy công tác tổ chức lao động ở doanh nghiệp cũng phải luôn
đổi mới để nhằm mục đích nâng cao trình độ năng lực quảnlý, năng suất lao
động.
Trước hết là việc bố trí sắp xếp hợp lý khoa học đội ngũ cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp nhằm khai thác hết khả năng tiềm tàng của mỗi con
người.
Tiếp theo là phải có chính sách tuyển dụng lao động, chính sách tuyển
dụng phải trở thành chính sách then chốt trong vận hành doanh nghiệp, trong
đó nổi lên vấn đề là những người được tuyển dụng phải thỏa mãn đầy đủ các
yêu cầu vận hành của doanh nghiệp bảo đảm thực hiện chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần căn cứ vào loại công việc, số lượng người
cần tuyển và trình độ cụ thể của từng loại cán bộ công nhân viên mà giới thiệu
công việc và những yêu cầu của công việc cho những người được dự tuyển.
Tuyển dụng được những người lao động có phẩm chất và tiêu chuẩn nhất
định theo yêu cầu công việc sản xuất kinh doanh là vấn đề quan trọng trong
chính sách vận hành của doanh nghiệp. Nhưng để cho doanh nghiệp đứng
vững và phát triển thì việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động hợp lý có ý
nghĩa quyết định. Ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và liên tục
cùng với sự bùng nổ thông tin, cạnh tranh trên thương trường ngày càng
quyết liệt... đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên chăm lo đến việc đào tạo,

đào tạo lại, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Tuỳ theo tình hình nhân lực và yêu cầu cụ thể trong hoạt động kinh doanh
mà doanh nghiệp có kế hoạch đào tạo, kèm cặp, bồi dưỡng từng loạicán bộ
công nhân viên bằng các phương pháp và hình thức phù hợp, tạo điều kiện cho
họ tiếp cận được với môi trường kinh doanh thường xuyên biến động và với
những đòi hỏi của kỹ thuật nghiệp vụ mới trong sản xuất kinh doanh.
Cùng với việc đào tạo và bồi dưỡng nhân lực phải thường xuyên cải tiến
tổ chức lao động trong các khâu, khuyến khích mọi người phát huy tính chủ
động, sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và chất lượng công việc giảm chi
phí, nâng cao hiệu quả lao động, tăng thu nhập cho tập thể và cá nhân.
3. Đổi mới thương mại đầu ra.
Hoạt động thương mại đầu ra (tiêu thụ sản phẩm) của doanh nghiệp bao
gồm hàng loạt các nghiệp vụ, từ khâu nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu
thị trường cho đến xuất bán theo yêu cầu khách hàng nhằm mục đích đạt hiệu
quả cao nhất. Do vậy cần:
Thứ nhất: tổ chức tốt việc điều tra nghiên cứu thị trường, điều tra nghiên
cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên đối với doanh nghiệp, là khâu
đóng vai trò quan trọng trong việc thành công hay thất bại của hoạt động tiêu
thụ sản phẩm. Nghiên cứu thị trường nhằm trả lời câu hỏi: thị trường đang
cần những loại sản phẩm gì? Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của nó ra sao. Dung
lượng thị trường về sản phẩm đó như thếnào? Ai là người tiêu thụ sản phẩm
đó.
Thứ hai: Phải lựa chọn sản phẩm thích ứng và tiến hành tổ chức sản xuất.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường doanh nghiệp lựa chọn sản phẩm thích ứng.
Đây là công việc quyết định hiệu quả hoạt động tiêu thụ. Lựa chọn sản phẩm
thích ứng có nghĩa là phải tổ chức sản xuất những sản phẩm hàng hoá mà thị
trường đòi hỏi. Sản phẩm thích ứng bao hàm về lượng, chất lượng và giá cả.
Về mặt lượng, sản phẩm phải thích ứng với quy mô thị trường, với dung lượng
thị trường. Về mặt chất lượng sản phẩm phải phù hợp với yêu cầu, tương xứng
với trình độ tiêu dùng. Thích ứng về mặt giá cả hàng hoá được người mua

chấp nhận và tối đa hóa được lợi ích người bán.
Thứ ba: Tổ chức tốt việc hoàn chỉnh sản phẩm và đưa sản phẩm về kho
thành phẩm để chuẩn bị tiêu thụ. Khâu hoàn chỉnh sản phẩm bao gồm: kiểm
tra chất lượng sản phẩm, phân loại.
Thứ tư: Đẩy mạnh việc mở rộng tiêu thụ, áp dụng các kỹ thuật marketing
vào việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời với việc phát triển
mạng lưới đại lý tiêu thụ.

×