Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu đặc điểm địa mạo và mối liên quan của chúng với cấu trúc địa chất vùng ba vì sơn tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.16 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUÔC GIA HÁ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC T ự NHIÊN

BÁO CÁO ĐỂ TÀI
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO
VÀ MỐI LIÊN QUAN CỦA CHÚNG VỚI CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT
VỪNG BA VÌ - SƠN TÂY

MÃ SỐ: QT-01-50
Chủ trì: PGS.TS. Đặng Văn Bào

CÁC CÁN Bộ THAM GIA
ThS. Nguyễn Hiệu
NCS. Tran Thanh Hà
HVCH. Bùi Thị Lê Hoàn

I)T

/

3

5 4 -

Hà nội - 2004

J


BÁO CÁO TÓM TẮT
a. Tên đề tài:


Tiếng Việt• Nghiên cứu đặc điểm địa mạo và mối liên quan của chúng với cấu
trúc địa chất vùng Ba Vì - Sơn Tây
Tiếng Anh: Study of Geomorphological conditions and their connection with
geological structure of Bavi - SonTay area
Mã số: QT-01-50

b. Chủ trì đề tài: PGS.TS. Đặng Vãn Bào
c. Các cán bộ tham gia
1. ThS. Nguyễn Hiệu
2. NCS. Trần Thanh Hà
3. HVCH. Bùi Thị Lê Hoàn
d. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
Mục tiêu: Làm sáng tỏ đặc điểm địa mạo khu vực trong mối liên quan với cấu
trúc địa chất, tân kiến tạo và các quá trình ngoại sinh, làm cơ sở cho việc sử dụng
hợp lý lãnh thổ, giảm thiểu tai biến thiên nhiên. Một mục tiêu nữa trong đề tài này
được chúng tôi kỳ vọng là xây dựng và biên tập được các tờ bản đồ địa mạo, bản đồ
địa chất với các điểm khảo sát có sự đa dạng, chuẩn mực với những vấn đề địa mạo
mới, tạo ra sự tò mò, gợi mở, làm cơ sở cho việc thực tập của sinh viên ngành Địa lý,
Địa chất.
Nội dung nghiên cứu:
1. Phân tích đặc điểm cấu trúc địa chất, thạch học và vai trò của chúng đối với sự
hình thành, phát triển địa hình.
2. Nghiên cứu các đặc trưng địa mạo khu vực Ba Vì - Sơn Tây, xây dựng bản đổ
địa mạo khu vực theo nguyên tắc nguồn gốc - lịch sử.
3. Xây dựng sơ đồ biến động lòng sông Hồng và Sòng Đáy trong Holocen.
4. Viết báo cáo đặc điểm địa mạo và mối liên hệ của nó với cấu trúc địa chất.
e. Các kết quả đạt được
Cấu trúc địa chất - thạch học và đặc điểm tân kiến tạo là các nhân tố ảnh
hưởng đáng kể nhất tới địa hình bề mặt Trái Đất và chính địa hình lại là bức tranh
phản ánh đầy đủ nhất các nhân tố trên. Như vậy, có thể nói rằng, việc nghiên cứu địa

mạo một cách sâu sắc với các đơn vị địa mạo được hội tụ một cách đầy đủ và đúng
đắn nhất các nhân tố thành tạo chúng sẽ phản ánh và đại diện được cho hợp phàn nền
tảng rắn của cảnh quan sinh thái. Đề tài Nghiên cihi đặc điểm địa mạo và mối liên
quan của nó với cấu trúc địa chất vùng Ba Vì - Sơn Tây là một ví dụ để thể hiện tư
tưởng trên. Với mục tiêu là làm sáng tỏ đặc điểm địa mạo khu vực trong mối liên
quan với cấu trúc địa chất, tân kiến tạo và các quá trình ngoại sinh, làm cơ sở cho
việc sử dụng hợp lý lãnh thổ, giảm thiểu tai biến thiên nhiên, tập thể tác giả đã tiến
hành thu thập, xử lý và phân tích các tài liệu đã có về các nhân tố ảnh hưởng tới sự
hình thành và phát triển địa hình; phân tích cấu trúc địa chất, đặc trưng địa mạo; biên
1


tập và xây dụng các bản đổ địa chất, địa mạo tỷ lệ 1: ÌOO.OOO, xây đựng các sư đổ
biến động lòng sông Hồng đoạn Sơn Tây - Đan Phượng. Để thực hiện các nhiệm vụ
đặt ra, đề tài đã sử dụng kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu địa chất, địa mạo
truyền thống với các phương pháp úng dụng công nghệ viên thám - GIS. Ngoài phần
mở đầu và kết luận, báo cáo gồm 4 chương với nội dung chính được thể hiện dưới đây:
Chương 1: Điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tê - xã hội và lịch sử nghiên cứu
địa chất -địa mạo
Khu vực nghiên cứu thuộc phạm vi các huyện Ba Vì, thị xã Sơn Tây, huyện
Phúc Thọ, Thạch Thất,., tỉnh Hà Tây, cách Thủ đô Hà Nội khoảng 40 km về phía
tây. Mặc dù có diện tích không rộng, song địa hình khu vực nghiên cứu khá đa
dạng với núi trung bình, núi thấp, đồi, đồng bằng và thung lũng với hai dòng sông
lớn ở phía bắc và tây là sông Hồng và sông Đà. Ớ phía tây vùng nghiên cứu, trên
nền địa hình tương đối bằng phẳng với độ cao không lớn, khối núi Ba Vì nổi lên 3
đỉnh cao trên 1000m với sườn có dạng bất đối xứng, sườn tây dốc hơn sườn đông.
Phía bắc và đồng của khu vực chủ yếu là địa hình gò đồi thoải và đồng bằng.
Về khí hậu, vùng nghiên cứu nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa,
chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ của gió mùa Đỏng Bắc nên có mùa đông
tương dối lạnh. Khí hậu phân hoá thành hai mùa rõ rệt: mùa lạnh khô hanh vào

nửa đầu mùa và có mưa phùn ẩm ướt vào cuối mùa; mùa nóng trùng với mùa mưa
là thời kỳ hoạt động của gió mùa Tây Nam. Tính phi địa đới của khí hậu thể hiện
khá rõ theo đai cao. Trên đỉnh núi Ba Vì, ở độ cao địa hình trên 600m có khí hậu
khá mát mẻ vào mùa hè, thuận lợi cho việc xây dựng các trung tâm nghỉ dưỡng.
Lượng mưa tăng dần từ 2000mm/năm ở dưới chân lên 2500mm/ năm ở phần địa
hình cao của khối núi Ba Vì.
Khu vực Ba Vì - Sơn Tây có sự đa dạng về thản thực vật. Vườn Quốc gia
Ba Vì từ độ cao 100 m trở lên còn bảo tồn được lớp phủ thực vật khá xanh tốt với
3 kiểu thảm thực vật: rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp; rừng kín
thường xanh hỗm hợp cây lá rộng, lá kim và rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt
đới núi thấp. Theo số liệu điều tra thì đến nay, tại Vườn Quốc gia Ba Vì đã phát
hiện được 450 loài thuộc 128 họ thực vật, trong đó có 8 loài quý hiếm. Trên vùng
đồi xung quanh Ba Vi phát triển các kiểu thảm thực vật tự nhiên như trảng cây bụi
thứ sinh; trảng cỏ thứ sinh; nương rẫy tạm thời hoang hoá và các thảm thực vật
cây trồng.
Dân cư sống ở khu vực xung quanh núi Ba Vì gồm chủ yếu 3 dân tộc: dân
tộc Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất, kế đến là dân tộc Mường (2.720 hộ) và dân tộc
Dao (300 hộ với 1.676 người). Kinh tế trong vùng đệm của Vườn Quốc gia còn
khó khăn, nghề chính là nông nghiệp. Dân tộc Dao chỉ chiếm 4 % dân số, song
tình trạng du canh du cư vẫn còn, có ảnh hưởng xấu tới môi trường khu vực. Hiện
tại, xung quanh khối núi Ba Vì đã có nhiều nhà đầu tự xây dựng các khu du lịch
sinh thái, thu hút đáng kể khách du lịch trong và ngoài nước.
Là một khối núi nổi cao ven đồng bằng với nhiều vấn đề địa chất, địa mạo
lý thú, công tác nghiên cứu địa chất địa mạo khu vực Ba Vì đã được quan tâm từ
khá sớm. Đã có nhiều loại bản đồ địa chất, địa mạo và nhiều bài viết về vùng núi
Ba Vì, song các kết quả không thống nhất. Đáng chú ý là mặc dù thành phần

2



thạch học của đá cấu tạo nên núi Ba Vì ít thay đổi, song vị trí địa tầng của chúng
lại có sự khác nhau đáng kể giữa các tác giả, từ Jura - Kreta (Bản đồ địa chất tỷ lệ
1: 500.000, A,E. Dovjikov, 1965) đến P2-T, (Bản đồ địa chất tỷ lệ i: 200.000), p?
(Bản đổ địa chất tỷ lộ 1: 1.000.000, Phan Cự Tiến chủ biên, 1988) và T, (Bản đồ
địa chất tỷ lệ 1: 50.000). Các nghiên cứu địa chất - địa mạo chi tiết nhất là công
tắc đo vẽ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1: 50.000 của Liên đoàn Bản đồ
Địa chất dưới sự chủ biên của Ngô Quang Toàn. Tuy nhiên, trong các tài liệu
công bố thì tập atlat về Hà Nội (trong đỏ có cả huyện Ba Vì) là đầy đủ nhất về
điểu kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực.

Chương 2: Đặc điểm địa chất khu vực
Đá cổ nhất cấu tạo nên khu vực Ba Vì - Sơn Tây là các đá biến chất thuộc phức
hệ Sông Hồng tuổi Proterozoi phân bố rìa tây nam địa hào Sồng Hổng. Các thành tạo
Paleozoi gồm các đá biến chất hệ tầng Bến Kế tuổi Cambri - Ordovic phân bô ở sườn
đông nam núi Ba VI và khu vực Thanh thuỷ (theo tài liệu của Phan Cự Tiến).
Tại trung tâm vùng nghiên cứu, khối núi Ba Vì cấu tạo chủ yếu bởi các đá phun
trào bazan porphyr và tuf aglomerat màu xám lục nhạt. Phần đỉnh núi cấu tạo bởi
cuội kết mà cuội và xi măng đều là đá phun trào bazan, đó là tập dưới cùng của các
rầm tích hệ tầng Cò Nòi tuổi Triat hạ. Các thành tạo Mesozoi gồm chủ yếu là các
trầm tích lục nguyên, có cấu tạo dạng phức nếp lồi mà trục trùng với đỉnh núi Ba Vì,
đã bị bóc mòn. Các thành tạo Nêogen với thành phần chủ yếu là cuội kết, chuyển lên
ít cát kết, sét kết xen ít thấu kính than nâu lấp đầy các trũng địa hào phương tây bắc đông nam tại khu vực Suối Hai và Trung Hà. Các thành tạo Đệ tứ gồm trầm tích hệ
tầng Hà Nội với thành phần chủ yếu là cuội sỏi mài tròn không đồng nhất. Các trầm
tích hệ tầng Vĩnh Phúc tuổi Pleistocen muộn cấu tạo nên các gò đồi thoải của thềm
10 - 15m; các trầm tích sét bột màu xám xanh, xám đen được thành tạo trong thời kỳ
biển tiến Flandrian cực đại và các thành tạo aluvi với cát bột sét xám vàmg phân bố
dọc các thế hệ lòng sông.
Về cấu trúc địa chất, khu vực nghiên cứu có cấu trúc khối tảng - uốn nếp. Khối
núi Ba Vì được cấu tạo bởi môt nếp lồi mà phần nhân lộ ra các đá cổ nhất là hệ tầng
Bến Kế và trầm tích núi lửa hệ tầng Viên Nam. Cánh của nếp lồi này gồm các đá

trầm tích hệ tầng Cò Nòi, hệ tầng Suối Bàng tuổi Triat. Khối sụt dạng địa hào Suối
Hai ở phía bắc khối núi khối tảng - nếp lồi Ba Vì được lấp đầy bởi các trầm tích
neogen hạt thô xen các thấu kính than nâu. Hệ thống đứt gãy chính trong khu vực
đều kéo dài phương tây bắc - đông nam, phù hợp với phương của các cấu trúc uốn
nếp. Dọc theo sông Đà có lẽ phải tồn tại một hệ đứt gãy phương á kinh tuyến, đó là
hệ đứt gãy hoạt động mạnh trong Kainozoi.
Chương 3. Đặc điểm địa mạo và mối liên quan với cấu trúc địa chất
Về đặc điểm địa mạo, nét dặc trưng là địa hình khu vực có tính phân bậc rõ
ràng. Các bậc địa hình có độ cao 1000 - 1200m phân bố trên đỉnh Ba Vì, các bậc 400
- 600m, 200 - 300m phân bố trên sườn khối núi, là di tích của các bề mặt san bằng
tuổi Neogen. Bề mặt có độ cao 80 - 120 khá phổ biến xung quanh chân núi Ba VI
chính là pedimen tuổi đầu Đệ tứ bị phân cắt tạo nên đồi trung bình. Các bậc địa hình
40 - 60m, 20 - 30m, 10 - 15m là các bậc thềm sông (phía bắc và tây Ba Vì) hoặc
thềm biển (phía đông Ba VI).

3


Các bề mặt có độ cao 20 - 30m, 15 - 20 có diện phân bố khá rộng rãi ở phía
đông khu vực nghiên cứu, trên mặt còn nhiều cuội thạch anh mài tròn khá, có lẽ là di
tích của các bậc thềm biển cổ. Dấu vết của biển để lại rõ hơn ở bề mặt có độ cao từ 4
- 6 m phân bố ở phía tây của sông Đáy cổ. Đó là các bề mặt bằng phẳng cấu tạo bởi
sét bột màu xám xanh, xám đen.
Hình thái hiện tại của địa hình khu vực Ba Vì - Sơn Tây phản ánh khá rõ nét
cấu trúc địa chất - tân kiến tạo. Đồng thời với quá trình bóc mòn chọn lọc, sự hiện
diện của khối núi Ba Vì thể hiện một quan hệ thuận giữa bình đồ địa hình với cấu
trúc địa chất và hoạt đông tân kiến tạo, đó là khối núi trên cấu trúc nếp lồi được nâng
dạng vòm tân kiến tạo với hệ thống sông suối dạng toả tia. Sông Hồng, sông Đà,
sông Đáy chảy khá thẳng do được định hướng theo các đứt gãy hoạt động mạnh
trong tân kiến tạo.

Lịch sử phát triển địa hình của khu vực được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn
Neogen với sự hoạt động mạnh của quá trình nội sinh, trong mối tương tác với quá
trình ngoại sinh mà dấu ấn để lại là các bề mặt san bằng trên đỉnh và sườn khối núi
Ba Vì và cấu tạo của trầm tích lấp đầy vùng sụt địa hào Suối Hai, Trung Hà. Giai
đoạn Đệ tứ với sự ưu trội của nhân tố ngoại sinh mà điển hình là giao động mực nước
biển để tạo nên các bề mặt thềm biển, thềm sồng khá phổ biến ở xung quanh khối
núi Ba Vì.
Chương 4. Định hướng sử dụng hợp lý lãnh thổ và bảo vệ môi trường trên
cơ sở địa mạo
Theo hướng sử dụng hợp lý lãnh thổ, khu vực Sơn Tây - Ba Vì được chia thành
4 vùng theo vị trí so với khối núi trung tâm Ba Vì: 1. Vùng núi trung bình Ba Vì; 2.
Vùng đổi trung bình xung quanh chân núi Ba Vì; 3. Vùng gò đổi chuyển tiếp với
đồng bằng và thung lũng; 4. Vùng đồng bằng và thung lũng sông Hổng.
Vùng núi Ba Vì được ưu tiên mục tiêu bảo tồn kết hợp với khai thác du lịch
sinh thái, tận dụng khu rừng nguyên sinh và sự mát mẻ của khí hậu do phân hoá theo
đai cao. Vùng đồi xung quanh núi Ba Vì với lợi thế địa hình đa dạng, có nhiều khe
suối dòng chảy quanh năm, có thể xây dựng được các hồ chứa nước nén được ưu tiên
phát triển các trung tâm du lịch sinh thái với chức năng phục hồi hệ sinh thái và bảo
vệ môi trường. Vùng gò đồi chuyển tiếp với đồng bằng là nơi có bề mặt địa hình
lượn sóng thoải rộng, vỏ phong hoá feralit dày, đất hiện đang bị rửa trôi thoái hoá
mạnh, được ưu tiên cho việc quy hoạch các trung tâm, trang trại chăn nuôi, trồng trọt
quy mô lớn, các khu công nghiệp, khu đô thị mới. Vùng đồng bằng thung lũng sóng
Hồng được định hướng phát triển nông nghiệp, giảm thiểu tai biến do xói lở bờ sông.
Các bề mặt san bằng trên khối núi Ba Vì đang bị phá huỷ bởi quá trinh sườn với
sự thống trị của sườn bóc mòn tổng hợp. Độ dốc của sườn này ở phía đông chỉ từ 20 30°, song ở phía tây thường đạt trên 30°, nhiều nơi tạo các vách dốc đứng với quá
trình trọng lực nhanh chiếm ưu thế. Hiện tượng rửa tròi bề mặt và xâm thực theo khe
rãnh xói phát triển mạnh dọc các gò đồi, trên tầng vỏ phong hoá bở rời đang gây tổn
thất nặng nề cho tài nguyên đất của khu vực. Cần có những giải pháp chống xói mòn
hợp lý và kịp thời.
Sông Hồng có sự định hướng khá rõ và phụ thuộc đáng kể vào đứt gãy kiến tạo.

Lòng sông có sự biến động mạnh từ sau biển tiến Flandrian. Phân tích ảnh viễn thám
4


và khảo sát thành phần vật chất cho thấy các thế hệ đầu của sông ở vùng hạ lưu có
hướng chảy về đông nam, bắt đầu từ ngay phía đông của thị xã Sơn Tây. Có thể cho
rằng, lòng sông Hổng cổ có hướng chảy về đông nam và luôn chuyển dòng từ tây
sang đông. Sông Đáy hiện tại là một nhánh của sông Hồng ở vào thời kỳ cuối của
nhánh này. Sự biến động hiện tại của sông Hổng tại Sơn Tây - Phúc Thọ khá phức
tạp, gây nên hiện tượng xói lở mạnh.
f. Tình hình kinh phí của đề tài
Kinh phí của đề tài được cấp là 14.600.000 (mười bốn triệu sáu trăm nghìn
đồng), chia thành 2 năm: năm 2001 (thực chất để triển khai nãm 2002) là 8 triệu
đồng; năm 2003 là 6,6 triệu đồng. Khoản kinh phí trên đã được dùng vào các công
việc chuyên môn như thuê khoán chuyên môn vói các chuyên gia: 60%, hỗ trợ đi
thực địa khảo sát, hội thảo khoa học, quản lý phí và các khoản chi khác.
Đề tài được duyệt và cấp kinh phí vào cuối tháng 12 năm 2001, thực chất bắt
đầu được bắt đầu từ tháng 1 năm 2002 và dự kiến sẽ được triển khai trong 2 năm:
2002 - 2003. Tuy nhiên, do lý do kỹ thuật, nãm 2002 đề tài không được đưa vào
danh sách cấp kinh phí và đến tháng 6 năm 2003 mới được duyệt và cấp tiếp kinh
phí. Những lý do trên đã làm cho đề tài phần nào bị chậm trễ.
Kinh phí của đề tài đã được thanh toán hết đúng hạn.
KHOA QUẢN LÝ

CHỦ NHIỆM ĐÊ TÀI

C ơ QUAN CHỦ TRÌ ĐỂ TÀI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Tự NHIÊN
PHÓ HIỆU TRƯÒNS


5


SUMMARY
Geological structure - litho logy and new tectonics are major factors
affecting on the formation of landforms, and they are also reflected in the
landforms. Therefore, the detail studies of geomorphological units and their
formation-factors are very important for the knowledge of eco-landscape. The
project: ” Study o f geomorphological characteristics and their relation to
geological structure in Ba Vi- Son Tay area ” is an example for above idea. With
the object of elucidating the relation between geomorphological characteristics and
geological structure, new tectonic and exogenetic processes for base of rational use
of territory and mitigation of natural hazards, the traditional methods and remote
sensing and GIS technology are used for taking the project.
The study area belongs to Son Tay town, Ba Vi, Phuc Tho, Thach That
districts..., are about 50km far from Hanoi to the West direction. In a not very
big area, however, the landforms are multiform with mountainous, hill, plain,
valley land forms and two big rivers Da and Red in the North. In the West of
study area, on rather even and flat plain, there is the mount Bavi with three
peaks upper 1000m having unsymmetrical slope with western side steeper than
eastern one. The gravity process happens strongly in the western side. In other
side, the general denuding is main process.
The specific geomorphological characteristics of study area are the substage.
The landforms with altitude of 1000- 1200m distribute on the tip of Bavi
Mountain. The 400-600m and 200- 300 steps distribute on the side of the
mountain, which are vestiges of Neogen terraces. The terrace with 80- 120m of
height locate around the bottom of BaVi Mountain. The landform step: 40- 60m,
20-30m and 10- 15m of height are river terraces (in the North and West of Ba Vi)
or marine terraces (in the East of Ba Vi).

Red River performed and developed by rather straight direction North West South East according to Red River fault. From Son Tay to Hanoi, Red River is
flowing by such a parallel and there are lots of tributaries running by South East.
The results of geomorphological analyses said that system of Day and Nhue rivers
are Red River’s main tributaries. These rivers were getting naưower happened by
natural rule and some part of them became the former rivers. Nowadays, erosion of
Red River’s bank strongly happened with 27-116 m/per year. Settling the position
of Day, Nhue River beds in the past and erosive action of Red River is the
important base for the project for dyke protection.


MỤC LỤC
Báo cáo tóm tắt
Mục lục
Mở đầu
Chương 1. Khái quát về điều kiệntự nhiên, kinh tế - xã hội và lịch sử
nghiên cứu địa mạo, địa chất

2
5

1.1. Vị trí nghiên cứu

5

1.2. Đặc điểm địa hình

5

1.3. Đặc điểm khí hậu


6

1.4. Đặc điểm thuỷ vãn

7

1.5. Thổ nhưỡng và sinh vật

8

1.6. Khái quát vể kinh tế- xã hội

9

1.7. Lịch sử nghiên cứu địa chất, địa mạo
Chương 2. Đăc điểm địa chất khu vực

10
13

2.1. Địa tầng

13

2.2. Magma

20

2.3. Cấu trúc kiến tạo


20

Chương 3. Đặc điểm địa mạo

23

3.1. Khái quát chung về địa mạo khu vực

23

3.2. Đặc điẻm các dạng địa hình

25

3.3. Lịch sử phát triển địa hình

40

Chương 4. Định hướng sử dụng hợp lý lãnh thổ và bảo vệ môi trường trên
cơ sở địa mạo

44

4.1. Phân vùng địa mạo cho việc sử dụng hợp lý lãnh thổ

44

4.2. Định hướng sừ dụng hợp lý lãnh thổ

49


4.3. Biến động lòng sông và giải pháp giảm thiểu

57

Tài liệu tham khảo chính
Phụ lục: Phiếu đăng ký kết quả nghiên cứu
Công trình công bô


MỞ ĐẨU
Địa mạo học là một chuyên ngành trong khối các Khoa học về Trái đất
có sự ra đời khá sớm. Trải qua những giai đoạn phát triển thăng trầm, cho tới
nay chuyên ngành địa mạo đã khẳng định được vị trí của mình thông qua
nhũng nghiên cứu lý thuyết cũng như nghiên cứu ứng dụng. Đặc biệt, trong
những năm gần đây, khi con người can thiệp ngày càng nhiều vào thiên nhiên
và trước những diễn biến phức tạp của khí hậu dẫn tới sự gia tăng của thiên tai
thì người ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò của nghiên cứu địa mạo cho việc
giảm thiểu thiệt hại do chứng gây ra. Để sử dụng địa hình lãnh thổ một cách
hợp lý, giảm được những thiệt hại do tai biến thiên nhiên có thể xảy ra, cần
phải hiểu sâu sắc về hình thái bề mặt, lịch sử phát sinh, quy luật phát triển và
những quá trình động lực hiện đại của địa hình.
Địa hình bề mật Trái Đất là sản phẩm tác động tương hỗ giữa quá trình
xảy ra trong lòng Trái Đất và các quá trình trên bề mặt, song chúng lại quyết
định sự chi phối vật chất và năng lượng cho các quá trình tự nhiên khác. Trong
số các nhân tố chi phối, ảnh hưởng tới sự phát triển địa hình và các quá trình
địa mạo thì cấu trúc địa chất, hoạt động tân kiến tạo có một vị trí đặc biệt. Có
thể nói rằng thông qua cấu trúc địa chất (bao gồm cả các cấu trúc được hình
thành trong các giai đoạn địa chất trước Kainozoi, đã ghi lại dấu ấn trong cấu
tạo của các đá cổ lẫn các cấu trúc được hình thành trong Kainozoi mà lịch sử

phát triển nó gắn liền với quá trình hình thành bề mặt địa hình Trái Đất), có
thể hiểu được quy luật phân bố, sắp xếp địa hình và ngược lại, nghiên cứu các
đặc trưng về địa hình có thể bước đầu phác hoạ được Gấu trúc địa chất, thành

phần thạch học của mỗi khu vực, mỗi lãnh thổ. Đã có nhiều nghà địa chất, địa
mạo người Việt Nam cũng như người nước ngoài để cập tới sự phù hợp một
cách khá lý tưởng về hình thái sơn văn và bình đồ cấu trúc địa chất hiện tại của
lãnh thổ Việt Nam. Đó là cấu trúc địa hình dạng các cánh cung ở vùng Đông
Bắc, địa hình dạng tuyến phương tây bắc - đông nam ở Tây Bắc, là địa hình dải
núi Trường Scm hùng vĩ ở Bấc Trung Bộ, là các khối núi khối tảng trên địa
khối Kon Tum.
Như vậy, có thể nói rằng, nếu nghiên cứu địa mạo một cách sâu sắc với
một định hướng kết hợp tốt giữa các đặc trưng cấu trúc địa chất, thành phần
thạch học và điều kiện tân kiến tạo thì đó chính là một cách tiếp cận tốt nhất
tới việc phân loại cảnh quan. Nói một cách khác, các đơn vị địa mạo nếu được
hội tụ một cách đầy đủ và đúng đắn nhất các nhân tố thành tạo chúng sẽ phản
ánh và đại diện được cho hợp phân nền tảng rấn của cảnh quan sinh thái.
Với nhận thức như trên, chúng tồi đã tiến hành xây dựng đề tài Nghiên
cítii đặc điểm địa mạo và môi liên quan của nó với cấu trúc địa chất vùng Ba
Vì - Sơn Tây với mục tiêu là Làm sáng tỏ đặc điểm địa mạo khu vực trong mối
2


liên quan với cấu trúc địa chất, tân kiến tạo và các quá trình ngoại sinh, làm cơ
sờ cho việc sử dụng hợp lý ỉãnh thổ, giảm thiểu tai biến thiên nhiên. Một mục
tiêu nữa trong đề tài này được chúng tôi kỳ vọng là xây dựng và biên tập được
các tờ bản đổ địa mạo, bản đổ địa chất với các điểm khảo sát có sự đa dạng,
chuẩn mực vói những vấn đề địạ mạo mới, tạo ra sự tò mò, gợi mở, làm cơ sở
cho viộc thực tập của sinh viên ngành Địa lý, Địa chất.
Để tài cấp Đại học Quốc gia mã số QT.01.50 có những nhiệm vụ sau

đây:
1. Phân tích đặc điểm cấu trúc địa chất, thạch học và vai trò của chúng đối
với sự hình thành, phát triển địa hình.
2. Nghiên cứu các đặc trưng địa mạo khu vực Ba Vì - Sơn Tây, xây dựng
bản đổ địa mạo khu vực theo nguyên tắc nguồn gốc - lịch sử.
3. Xây dựng sơ đổ biến động lòng sông Hổng và Sông Đáy trong Holocen.
4. Viết báo cáo đặc điểm địa mạo và mối liên hệ của nó với cấu trúc địa
chất.
Để tài được duyệt và cấp kinh phí vào cuối tháng 12 nãm 2001, thực
chất bắt đầu được bắt đầu từ tháng 1 năm 2002 và dự kiến sẽ được triển khai
trong 2 năm: 2002 - 2003. Tuy nhiên, do lý do kỹ thuật, năm 2002 đề tài
không được đưa vào danh sách cấp kinh phí và đến tháng 6 nãm 2003 mới
được duyệt và cấp tiếp kinh phí. Những ỉý do trên đã làm cho đề tài phần nào
bị chậm trễ.

Kinh phí của đề tài được cấp là 14.600.000 (mười bôn triệu sáu trăm
nghìn đồng), chia thành 2 năm: năm 2001 (thực chất để triển khai năm 2002)
ỉà 8 triệu đổng; năm 2003 là 6,6 triệu đồng. Khoản kinh phí trên đã được dùng
vào các công việc chuyên môn như thuê khoán chuyên môn với các chuyên
gia: 60%, hỗ trợ đi thực địa khảo sát, hội thảo khoa học, quản lý phí và các
khoản chi khác.
Tham gia thực hiện đề tài gồm PGS.TS. Đặng Văn Bào, chủ nhiệm đề
tài; ThS. Nguyễn Hiệu, bộ môn Địa mạo và NCS. Trần Thanh Hà. Tham gia hỗ
trợ chuyên môn cho đề tài còn có các chuyên gia địa mạo, địa chất thuộc Bộ
môn Địa mạo, khoa Địa lý và khoa Địa chất, trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Sau một thời gian thu thập, phân tích tài liệu trong phòng về các mặt như
Điều kiện địa lý tự nhiên - kinh tế - nhân văn, lịch sử nghiên cứu, các tài liệu
chuyên môn về địa mạo, địa chất, tập thể tác giả đã tiến hành khảo sát thực địa
bổ sung, thu thập các thông tin cần thiết để làm sáng tỏ các vấn đề chưa được rõ.


3


Ngoài các phương pháp khảo sát ngoài thực địa, phương pháp phân tích
tổng hợp các nguồn tài liệu, các phương pháp địa mạo - địa chất truyền thống
như phân tích nguồn gốc - lịch sử, phân tích kiến trúc * hình thái, phân tích trắc
lượng hình thái, trong đề tài tài, tạp thể tác giả đã ứng dụng công nghệ viễn
thám và GIS để phân tích biến động địa hình, làm nổi bật và trực quan hình
thái địa hình của vùng Ba Vì - Sơn Tây, từ đó có thể nhìn nhận đúng đắn hơn
về điều kiện hình thành khối núi Ba Vì. Tới nay, những nội dung cơ bản của
nhiộm vụ đã được hoàn thành, Việc làm sáng tỏ được đặc điểm cấu trúc địa
chất và địa mạo khu vực Ba Vì - Sơn Tây và lân cận đã cho phép chúng tôi
nhím nhận rõ hơn vị trí của khu vực này trong bình đồ chung của lãnh thổ,
nhận thấy rõ vai trò của khu vực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
môi trường. Tập thể tác giả hy vọng rằng, với những tài liệu thực tế và những
kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng
một paligon thực tập địa lý - địa chất cho sinh viên thuộc khối Các Khoa học
về Trái Đất.
Báo cáo được trình bày gồm 4 chương: 1. Đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh
tế, nhân văn và lịch sử nghiên cứu địa mạo - địa chất; 2. Đặc điểm địa chất khu
vực Ba Vì - Sơn Tây; 3. Đặc điểm địa mạo khu vực. 4. Lịch sử phát triển địa
hình và mối liên hê với cấu trúc địa chất. Kèm theo báo cáo là 5 hình vẽ minh
hoạ trong đó có hai bản đồ: bản đổ địa mạo và bản đồ địa chất, được thể hiện ở
tỷ lộ 1: 100.000. Theo quy định chung, ở phần đầu, trước báo cáo chính còn có
phần báo cáo tóm tắt bằng tiếng Việt và tiếng Anh, phần cuối là các phụ lục.
Để hoàn thành báo cáo này, tập thể tác giả đã nhận được sự chỉ đạo
thường xuyên và kịp thời của các phòng ban, các cấp lãnh đạo trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, sự thảo luận, góp ý chần thành
của các đổng nghiệp trong và ngoài cơ quan. Nhân dịp này cho phép tập thể tác

giả được trân trọng cảm ơn những sự chỉ đạo, động viên và giúp đỡ quý báu đó.

4


Chương 1
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ Tự NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI VÀ LỊCH sử
NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT - ĐỊA MẠO VÙNG NGHIÊN cứu
1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Khu vực nghiên cứu thuộc phạm vi các huyện Ba Vì, thị
huyện Phúc Thọ, Thạch Thất,., tỉnh Hà Tây. Trung tâm khu vực
Hà Nội khoảng 50 km về phía tây. Điộn tích nghiên cứu nằm
bản đồ địa hình tỷ lệ 1:50.000 như tờ Ba Vì, Sơn Tây, Việt Trì,
các toạ độ:

xã Sơn Tây,
cách Thủ đô
trong các tờ
giới hạn bởi

2L001' - 21°09' vĩ độ Bắc
105° 18' 13" - Ktf^O'OO" kinh độ Đồng.
Phía tây giáp với sông Đà, phía bắc giáp sông Hồng, phía đông là
sông Đáy và phía nam giáp tỉnh Hoà Bình.
1.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH
Mặc dù có diện tích không rộng, song địa hình khu vực nghiên cứu
khá đa dạng với địa hình núi trung bình, núi thấp, đổi, đổng bằng, thung
lũng với hai dòng sồng lớn ở phía bắc và tây là sông Hồng và sông Đà. Nàm
ở phía tây vùng nghiên cứu, trên một nền địa hình tương đối bằng phảng với
độ cao không lớn, khối núi Ba Vì với đỉnh Tản Viên cao 1287m nổi tiếng

với truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh đã tạo nên ấn tượng lớn với mỗi
người dân đất Việt ngay từ thủa thiếu nhi. Khối núi Ba Vì có dạng đẳng
thước với 3 đỉnh cao trên 1000m. Độ cao của núi Ba Vì giảm dần ra xung
quanh, tạo nên một số bậc địa hình đặc trưng với các đỉnh cao 900 - 1200m;
600 - 800m; 400 - 500m và 200 - 300m. Nhìn tổng thể, khối núi Ba Vì có
dạng đẳng thước, song phân tích chi tiết bình đồ vẫn dễ đàng nhận ra sự
định hướng của khối núi theo tây bắc - đông nam - hướng chung của cấu
trúc địa chất vùng Tay Bắc. Sườn của khối núi Ba Vì cũng có dạng bất đối
xứng với sườn tây dốc hơn sườn đông.
Xung quanh khối núi Ba Vì là hệ thống các đồi có hình thái và kính
thước khác nhau. Các đồi cũng có tính phân bậc khá rõ, sát chân sườn núi là
đổi cao 60 - 120m, xa hơn là các dải đổi dài với đỉnh rộng, sườn thoải cao
40 - 60m; 20 - 30m và địa hình gò cao 10 - 20m. Đó chính là các bề mặt
pedimen, các thềm sông, thềm biển bị phân cắt tạo gò đồi. Trên địa hình
đồng bằng đổi này còn thấy những quả đồi sót như các đổi Năm Voi, đồi
Nhân Lý,... và phần thấp nhất của địa hình là bề mặt các trũng và đáy các

5


hình 3 chiều khu vực nghiên cứu (a) và hình ảnh của núi Ba Vì nhìn từ phía đông bắc xuống (b) và từ phía đông nar


thung lũng có hình dạng phức tạp, mấp mồ liên quan chặt chẽ với sự phát
triển của hộ thống suối dày đặc. Địa hình sườn núi Ba Vì bị chia cắt mãnh
liệt, độ dốc của sườn tăng nhanh từ chân (20 - 30°) đến đỉnh (40-45°), nhiều
nơi lô ra các vách đá dựng đứng nên rất hiểm trờ, khó qua lại. Sườn các quả
đồi có độ dốc chỉ từ 5 đến 10° đôi nơi 10 - 20° như ở các đồi Nhân Lý, Năm
Voi, Thuyền úp...
Phía đông khu vực nghiên là địa hình đồng bằng với độ cao tuyệt đối

từ 4 đến 8m. Trên đồng bằng này còn nhiều dấu ấn các dòng sông cổ với
các dải ghờ cao ven lòng dạng kéo dài, hơi uốn cong theo các khúc uốn với
độ cao từ 6 - 8m, nghiêng thoải vè phía xa dần lòng sông. Nhiều dấu vết
lòng sông cổ Jiiộn còn ngập nước có dạng hổ móng ngựa. Trên bản đổ địa
hình, và đặc biệt là trên các bức ảnh viễn thám, các lòng sông cổ này được
thể hiện khá rõ nét bởi sự định hướng của các khu dân cư theo các ghờ cao
ven lòng, sự định hướng của các dạng sử dụng đất với độ phản xạ ánh sáng
khác nhau.
1.3. ĐẶC ĐIỂM KHÍ HẬU
Vùng nghiên cứu nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu
ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ của gió mùa Đông Bắc nên có mùa đồng
tương đối lạnh. Khí hậu phân hoá thành hai mùa rõ rệt: mùa lạnh khô hanh
vào nửa đầu mùa và có mưa phùn ẩm ướt vào cuối mùa; mùa nóng trùng với
mùa mưa là thời kỳ hoạt động của gió mùa tây nam. Tính phi địa đới của
khí hậu thể hiện khá rõ tbeo đai cao. Trên đỉnh núi Ba Vì, ở độ cao địa hình
trên 1000m, khí hậu khá mát mẻ vào mùa hè, thuận lợi cho việc xây dựng
các trung tâm nghỉ dưỡng, mùa đông thường xuyên có mây mù phủ
1.3.1. Chế độ bức xạ, nắng, mây
Khu vực Ba Vì nói riêng và vùng đổng bằng Trung du phía bắc nói
chung chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông bắc nên có lượng bức xạ
tổng công khồng lớn lắm. Lượng bức xạ tổng cộng trong năm khoảng 122 125 Kcal/cm2/ năm, phân bồ' không đồng đều
Nhiệt độ trung bình hàng năm vào khoảng 23 - 25°c với lượng mưa trung
bình 2000 - 2500mm. Độ ẩm không khí ở đây khá cao đạt tới 80 - 88%. Do
đặc điểm địa hình ở đây phức tạp nên khí hậu phân hoá khá sâu sấc và tạo
nên đặc điểm khí hậu riêng. Các khu vực đồi cao, đổi thoải lượn sóng có
khí hậu hầu như khá đồng nhất. Riêng trên khối núi Ba Vì với độ cao trên
1000m có khí hậu phân hoá dần với sự khác biệt về nhiệt độ, gió, mưa độ
ẩm giữa sườn đông và sườn tây, giữa chân núi và đỉnh núi, giữa núi Ba vì với
các khu vực khác. Sự phân dị về khí hậu đã ảnh hưởng đến đặc điểm phong
hóa đá gốc tạo thành trầm tích bở rời của vùng nghiên cứu.


6


Phan Tất Đắc khi nghiên cứu khí hậu vùng này đã nhận xét: "sư biến
thiên nhanh chóng theo độ cao của nhiệt độ có một quy luật khá ổn (lịnh,
nhiệt độ rát nhạy cảm với những vi địa hình" và ông đã đưa ra những cứ
liệu, chứng minh cho nhận xét đó:
Vùng chân núi, nhất là ở phía Tây có chế độ nhiệt tỏa ra khắc nghiệt
hơn đồng bằng rõ rột, về mùa đông cũng như mùa hè nhiệt độ tối thấp ở
vùng chân núi Ba Vì trung bình thấp hơn đồng bằng tới trên l°c . Nhiệt độ
tối cao trái lại lại cao hơn đồng bằng, sự chênh lệch này rõ rệt nhất ở chân
núi phía Tầy còn chân núi phía Đồng đo thoáng gió nên tính chất này không
thể hiện rõ rệt lắm.
Lượng mưa cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa hai sườn núi phía Đông
và phía Tây và từ chân núi đến đỉnh núi. Sườn phía Đồng đón gió cả hai mùa
cho nên thu được lượng mưa cao, trội hơn sườn phía Tây khuất gió. Lượng
mưa cũng tăng từ chân đến đỉnh núi Ba Vì. Bên sườn phía Đông của núi,
trong khi lượng mưa năm ở chân núi vào khoảng trên dưới 2000mm thì lên
đến độ cao 400m lượng mưa đã tãng tới 2200mm, ở độ cao 600mm lượng
mưa lên tới 2400m và đến độ cao 800m đã lên tới 2500mm. Như vậy tiến độ
tăng cùa lượng mưa trung bình vào khoảng 60mm/100m độ cao.
Độ ẩm trên núi Ba Vì cũng biến thiên theo độ cao, về mùa đông cả
sườn núi phía Tây và sườn núi phía Đông đều quan sát thấy sự tăng độ ẩm
khá nhanh theo quy luật. Từ chân núi đến 600m độ ẩm tăng thêm đến 6%;
so cùng độ cao thì sườn Tây ẩm hơn sườn phía Đông từ 1 - 2%. v ề mùa hè
trên sườn đông, độ ẩm biến thiên phức tạp, giảm từ chân núi đến độ cao
200m rồi tăng dần từ 200m đến 400m. Bên sườn phía Tây trái lại độ ẩm tăng
nhanh từ chân núi đến độ cao 200m rồi giảm dần khi lên tới 400m. ở chân
núi phía Tây độ ẩm thấp hơn chân núi phía Đông rõ rệt, sự chênh lệch này

tới 5%.
Trong phông trung của khí hậu nhiệt đới gió mùa như vậy và đặc
điểm riêng về tính chất vi khí hậu như đã nói đã có sự tác động mạnh mẽ
đến hoạt động của hệ thống sông suối ở đây và là một nhân tố quan trọng
trong qúa trình thành tạo địa hình.
1.4. ĐẶC ĐIỂM THƯỶ VĂN
Hệ thống sông suối khu vực Ba Vì chủ yếu bắt nguồn từ đỉnh núi Ba
Vì và chảy ra xung quanh tạo ra một mạng lưới sông suối dạng toả tia rất
điển hình. Sông suối đã chia cắt toàn bộ địa hình đổi núi thấp tạo ra các
trũng và thung lũng có hình dạng phức tạp.
ở phía Bắc và phía Đông khu vực nghiên cứu có thể thấy được những
con suối lớn và dòng nhánh của chúng thuộc lưu vực sông Hồng như các
suối Đô, Chằm sỏi, Chằm Me, suối Quanh, Suối Bơn, Suối Yên Cư, Suối
7


Cầu Rồng tạo nên các trũng và thung iũng nửa kín như Xóm Chóng, Xóm
Muỗi, Đồng Vàng, Xóm Xuân, Xóm Nghe...
Các suối này chảy theo hướng Bắc đông Bắc và đổ vào hổ Suối Hai
hoặc vào sông Hổng. Phía Tây núi Ba Vì các suối thường ngắn và dốc bắt
nguồn từ núi Ba Vì và đổ vào sông Đà như các suối Mít, suối Ninh, Ngòi
Lạt... và cũng tạo nên các thung lũng họp nửa kín,Mạng lưới sông suối từ
cấp I đến cấp IV đã chia cắt mạnh mẽ địa hình với mật độ chia cắt ngang từ
1,2 - 2km/km2. Các suối này phần lớn quanh nãm có nước và thường gây lũ
vào mùa mưa. Vì các suối ngắn và dốc, thung lũng hẹp do vậy khi có những
trận mưa to thì nước lên rất nhanh có thể chênh lệch với mức bình thường là
+ 2 đến + 3m song chúng rút cũng rất nhanh bởi vì khu vực này lắm hổ,
đầm lầy và gần các con sồng lớn như sông Đà và sổng Hổng.
Sông Hồng là con sông lớn nhất miền Bắc và chảy qua khu vực
nghiên cứu, với chiều dài chảy trong phạm vi nghiên cứu chỉ khoảng 3km.

Đây là con sông có một lượng nước lớn, lưu lượng bình quân nhiều năm tại
Sơn Tây là 36.30m3/s. Về chế độ nước sông Hồng thuộc loại đơn giản, có
một lùa lũ và mùa cạn kế tiếp nhau. Tại Sơn Tây sông Hồng có thời đoạn lũ
là 5 tháng, thời gian lũ là các tháng VI - X. Lượng nước bình quân của mùa
lũ là 74% riêng tháng VII cũng tới 21% tổng cả năm. Sông Hồng là con
sông có lượng phù sa lớn, lưu lượng cát bùn lơ lửng bình quân nhiều năm tại
Sơn Tây là 3610kg/s ứng với tổng lượng dòng chảy là 114.106 tấn/năm.
Sông Đà là một phụ lưu của con sông Hồng nó bắt nguồn từ Vân Nam
- Trung Quốc, chảy theo hướng Tây bắc đông nam vào nước ta ỏ Mường Tè
(Lai Châu), đến Hoà Bình ngoặt lên đống Bắc, đổ vào sông Hồng ở Trung
Hà đoạn sông chảy qua khu vực nghiên cứu dài khoảng 20km. Sông Đà là
nguồn cung cấp nước và phù sa ỉớn nhất cho sông Hồng chúng chiếm tới
50% tổng lượng nước và tổng lượng cát bùn cung cấp cho sông Hồng.
1.5. THỔ NHƯỠNG VÀ SINH VẬT
Khu vực nghiên cứu là một vùng đồi núi trung du, các qúa trình
phong hoá đá xảy ra mạnh tạo nên một lớp vò phong hoá khá dày, hệ thống
sông suối chia cắt tạo ra những trầm tích phù sa có thành phần cơ giới nặng.
Trong khu vực nghiên cứu có thể thấy các loại đất:
- Đất feralit phát triển trên vùng đồng bàng đổi, có độ dốc nhỏ từ 5 10° và độ cao từ 50 -150m, loại đất này có màu vàng đỏ đến vàng nâu, thành
phần cơ giới nặng.
- Đất phù sa: chúng phân bố dọc theo các bên của sông Hồng; sông
Đà và các con suối lớn, bị ngập nước vào mùa lũ và được bổi sản phẩm mới.

8


Thành phần cơ giới đất nhẹ, đây là loại đất tốt với hoa màu và cây công
nghiệp ngắn ngày như mía, dâu...
- Đất bạc màu: là sản phẩm của phù sa cũ, phân bố chủ yếu ở các bậc
thềm I, và bậc thềm II của hệ thống sông suối, đất bị rửa trôi, kết hợp canh

tác chưa tốt do vậy đất bị bạc màu.
Rừng ở đây chỉ còn một ít do con người trồng, còn lại thực vật chủ
yếu là các loại cây trổng, các cây như sắn, mít, chè được trồng trên các đồi
thấp có sườn dốc 5 - 10°. Lúa được trồng chủ yếu ở các trũng giữa núi, các
thung lũng song suối, ngoài ra cũng có lúa nương được trồng ở các bể mặt
đổi.
Động vật tự nhiên rất hiếm, các loại gia súc được phát triển như các
nông trường chăn nuôi bò sữa, cùng một số loại khác.
1.6. KHÁI QUÁT VỀ KINH TỂ - XÃ HỘI
So với trung tâm thủ đô Hà Nội thì huyện Ba Vì là một khu vực chưa
được mở rộng về kinh tế. Tuy nhiên, những năm gần đây mạng lưới giao
thong đã được mờ rộng khá đủ để phát triển kinh tế địa phương. Có thể kể
•đến một số trục giao thông lớn như sau:
- Đường nhựa Việt Nam - Cu Ba (Sơn Tây, Đá Chông, Sơn Tây - Hoà
Lạc, Sơn Tây - Đá Chông - Chẹ) với tổng chiều dà khoảng 200km đây là hệ
thống đường do CuBa giúp ta xây dựng có tầm cỡ chiến lược chất lượng tốt
phục vụ cho các mục đích kinh tế cũng như quốc phòng ngoại ô thủ đô Hà
Nội.
- Hệ thống các đường phối cấp: Sơn Tây - Bát Bạt, đường 316 chạy
qua các nông trường Ba Vì là đường dây giao thông quan trọng giữa các
nông trường với nhau và giữa các nông trường với thị xã Sơn Tây cũng như
Thủ đô Hà Nội. Các đường Đá Chông đi Trung Hà, Đá Chông - Ba Trại, Mỹ
Lộc đi Hồ Xuân Khanh, Sơn Tây - Kim Đái nối liền giữa các xã, ấp với n
hau. Đặc biệt con đường Sơn Tây - Đỉnh Côte 600 và 400 Ba Vì là một con
đường giao thông quan trọng nối liền giữa khu vực đồng bằng với đỉnh núi.
Ngoài ra còn một mạng lưới đày đặc các đường đất, đường xe thô sơ
nối liền các làng xóm đông đúc trong vùng nghiên cứu. Ba Vì nơi tập trung
nhiều tụ điểm dân cư đông đúc bao gồm các nông trường Ba Vì, nông
trường Việt Nam - Mông c ổ , Việt Nam - Cu Ba, đây là các nông trường
quốc doanh đo các nước Mông c ổ , Cu Ba giúp ta xây dựng, ngoài ra là các

làng xóm, hợp tác xã với số dân đông vui, nhộn nhịp mật độ từ 100 - 200
người/km2 ở vùng đổng bằng đồi. Nhân dân trong khu vực nghiên cứu hầu
hết là dân tộc Kinh, một ít dân tộc Mường và dân tộc Dao sống ở vùng núi

9


héo lánh và trên núi Ba Vì nghề nghiệp chủ yếu là trổng trọt và chăn nuôi,
nhìn chung đời sống ngày một phát triển đi lên.
Tất cả các điều kiện địa lí tự nhiên, địa hình, kinh tế nhân văn vùng
nghiên cứu có thể tạo điều kiện cho Ba Vì trong trường hợp mở cửa ra các
điểm khai thác mỏ phục vụ cho nền kinh tế.

1.7. LỊCH SỬNGHIÊN c ú u ĐỊA CHẤT, ĐỊA MẠO
Ba Vì đã được nghiên cứu từ lâu, có thể là những nghiên cứu chuyên
đề hay nghiên cứu tổng hợp. Có những nghiên cứu riêng khu vực Ba Vì và
những nghiên cứu trẽn một điộn rộng hơn trong đó có Ba Vì. Xét về tính
chất uy mô, mức độ nghiên cứu chi tiết có thể chia lịch sử nghiên cứu địa
chất, địa mạo khu vực này thành hai giai đoạn (trước 1954 và từ 1954 đến
nay).
1.7.1. Giai đoạn trước 1954
Việc nghiên cứu điều kiện tự nhiên khu vực Ba Vì dưới góc độ địa lý
và địa chất đã được các nhà nghiên cứu người Pháp bắt đầu từ đầu thế kỷ
này trong khuôn khổ nghiên cứu toàn Việt Nam và vùng Bắc Bộ, Tây Bắc.
Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu của Deprát J. vào những
năm 1913 - 1915 ông đã nghiên cứu địa chấn lưu vực sông Đà và thành lập
bản đồ địa chất tỉ lệ 1; 250.000 vùng trung và hạ lưu sông Đà, tất cả các tài
liệu trên được Fromaget J. tổng hợp trên bản đổ địa chất Hà Nội tỷ lệ
1:500.000 đây là một nghiên cứu địa chất khu vực và chuyên về địa chất,
các tác giả chưa nói đến các đặc điểm địa mạo vùng này.

Trong các năm từ 1939 - 1950 Saurin E. có những nghiên cứu chuyên
đề về vùng trũng Hà Nội trong đó có khu vực Ba Vì. Ngoài ra phải kể đến
công trình của Gourou năm 1936 với tác phẩm "Những người nông dân châu
thổ Bắc Bộ". Trong tác phẩm này Gourou đã dành một phần đáng kể để
nghiên cứu điều kiện tự nhiên của đổng bằng châu thổ Bắc Bộ trong đó có
khu vực nghiên cứu.
Nhìn chung đây ỉà những công trình nghiên cứu rộng lớn khảo sát đo
vẽ ở tỉ lệ nhỏ chưa chuyên sâu đặc biệt là chưa có những nghiên cứu chuyên
sâu về địa mạo do vậy chưa chi tiết và chưa chỉ ra được khả năng tìm kiếm
khoáng sản.
1.7.2. Giai đoạn 1954 trở lại đáy
Sau khi hoà bình lập lại, việc tiến hành nghiên cứu địa chất, địa mạo ở
khu vực Ba Vì nói riêng và trên đất nước ta nói chung đã được tiến hành
đồng bộ và đã đi vào chiều sâu của vấn đề, các kết quả nghiên cứu được
cồng bố đã có những giá trị trong việc tìm kiếm tài nguyên khoáng sản.

1. Về địa mạo
10


Đầu những nãm 1960 đã có nhiều tác giả quan tâm đến nguồn gốc và
sự phát triển của đổng bằng Hà Nội trong đó có khu vực Ba Vì. Một số tác
giả cho rằng đồng bằng Hà Nội là đồng bằng aluvi của sông Hộng (Nguyễn
Đức Chính, Huỳnh Ngọc Hưng, 1967, Kleiner 1967).
Trên đồng bàng Hà Nội, Cục đo đạc bản đồ địa chất đã tiến hành đo
vẽ bản đổ địa mạo tỉ lệ 1 : 200.000 trên các tờ trong đó có tờ Hà Nội và khu
vực Ba Vì.
Trên bản đồ địa mạo tờ Hà Nội, các tác giả Phạm Hùng, Đinh Ngọc
Lưu (1976) đã thể hiện địa hình theo nguyên tắc kiến trúc hình thái - cham
chổ hình thái. Các tác giả vể cơ bản đã nêu được những đặc điểm hình thái

và nguồn gốc đổng bằng. Công trình này đã được thực hiện với sự nghiên
cứu tương đối toàn diện các trầm tích kỷ thứ tư. Tuy nhiên trong việc xác
định nguồn gốc địa hình các tác giả mới chỉ dựa vào chủ yếu các đặc điểm
'thạch học.
Hoàng Ngọc Kỷ, Nguyễn Đức Tân (1974, 1976, 1977) cho rằng địa
hình cổ nhất trong đồng bằng là thềm sông tuổi Pleixtôxen sớm - giữa phân
bố ở các độ cao 40 - 50m trong khu vực nghiên cứu là các đổng bằng ven
chân núi Ba Vì.
Các nhà địa mạo thuộc Liên đoàn Bản đồ địa chất (Lê Đức An và
những người khác 1982) trong cồng trình bản đổ địa mạo Việt Nam tỉ lệ 1 :
1000.000 đã chia đổng bằng thành hai kiểu kiến trúc - hình thái bậc II, đó là
đồng bằng máng nông với các thềm từ 10 -15m (dải đồng bằng đồi trong đó
có khu vực nghiên cứu) và các đồng bằng móng sâu vối các thềm thấp và
phần châu thổ.
Vũ Đình Chỉnh (1977) trong luận án phó tiến sĩ của mình về "Đặc
điểm cấu trúc các trầm tích tân sinh của vùng trũng Hà Nội" đã đề cập đến
các mực địa hình trên đồng bằng Hà Nội. Trên cơ sở nghiên cứu tác giả cho
rằng ở đồng bằng Hà Nội có các mực 55 - 70m; 25 - 38m; 10 - 16m và 2 *
Nguyễn Thanh (1976) khi nghiên cứu điều kiện địa chất công trình
đổng bằng Hà Nội đã giành sự chú ý đáng k ể đến địa mạo, địa chất kỷ thứ
tư. Tác giả đã phân chia ra một số mực địa hình trong đó có mực cao nhất từ
20 -25m đến 30 - 35m ứng với địa hình đổi thấp xâm thực bóc mòn có tuổi
Pleixtoxen sớm - giữa.
Đặc biệt công trình nghiên cứu đo vẽ đại mạo của vùng Ba Vì một
cách chi tiết và sâu sắc hơn cả là cổng trình của tập thể các thầy giáo và
sinh viên bộ môn Địa mạo, khoa Địa lý - địa chất, trưòng đại học Tổng hợp
Hà Nội vào những năm 1970 - 1971. Kếte quả thành lập bản đồ địa mạo tỉ lộ
1 : 250.000 vùng I Ba Vì chủ yếu phục vụ cho việc phân vùng tự nhiên làm
11



cơ sở cho việc quy hoạch kinh tế. Khi đo vẽ địa mạo các tác giả đã cho thấy
rằng sông Hồng tạo nên ba bậc thềm: thềm III tương ứng với độ cao 80 100m; thềm II cao 40 - 60m và thềm I cao 15 - 25m.
Từ năm 1984 đến nay Đoàn địa chất Hà Nội thuộc Liên đoìan bản đồ
địa chất đã tiến hành khảo sát, đo vẽ địa chất và tìm kiếm khoáng sản ở tỉ lệ
1 : 500.000, đây là một công trình nghiên cứu của tập thể tác giả về tất cả
các mặt địa chất, địa mạo. Khoáng sản phục vụ cho công tác phát triển và
quy hoạch của thành phố Hà Nội. Các kết quả và các tài liệu của đoàn đang
ở thời kỳ vãn phòng tổng kết, chưa công bố. Như vậy vấn đề tồn tại cản bản
trong nghiên cứu địa mạo vùng Ba Vì là nguồn gốc của các bậc địa hình
thấp như đã nói ở trên.
2. Về địa chất và khoáng sản
Trong những năm 1973 Hoàng Ngọc Kỷ và đồng nghiệp đã nghiên
cứu và thành lập bản đồ địa chất khoáng sản tờ Hà Nội tỉ lệ 1 : 200.000, đây
là công trình nghiên cứu tổng hợp về địa chất, địa chất thủy vãn, khoáng
sản. Cồng trình đã có một số kết luận về khoáng sản tờ Hà Nội, song vì tỷ lệ
đo vẽ nhỏ nên việc nghiên cứu chưa đi vào chi tiết.
Nãm 1971 - 1972 các công trình nghiên cứu chuyên đề về sa khoáng
của Ngô Vãn Bắc, Trần Hải Kế dựa vào các kết quả đãi mẫuu trọng sa đã
đưa ra kết luận về vùng Ba Vì - Sơn Tây có hai vành phân tán bậc II vàng sa
khoáng tập trung ở các xã Vân Hoà, Yên Bài với hàm ỉượng 5 - 1 0
hạt/10dm2 đây là công trình nghiên cứu có những giá trị đáng kể nhằm cung
cấp thêm những tài liệu cho các bước nghiên cứu tiếp theo.
Năm 1984, báo cáo địa chất và đánh giá triển vọng sa khoáng vàng
vùng Hà Nội - Hà Sơn Bình của Lê Phùng Lễ - đoàn địa chất 308 - Liên
đoàn địa chất III đã xác nhận khả năng chứa vàng sa khoáng với hàm lượng
đáng chú ý ở các khu vực kéo dài thành dải từ chợ Bến Xuân Mai và Ba Vì,
Từ những năm 1984 đến nay Đoàn Địa chất Hà Nội thuộc Liên đoàn
bản đồ địa chất đã tiến hành khảo sát, đo vẽ địa chất và tìm kiếm khoáng
sản ở tỉ lệ 1 : 500000. Đây là một công trình địa chất, địa mạo, khoáng sản

phục vụ cho công tác điều tra cơ bản nhằm phát triển kinh tế và quy hoạch
của thủ đô Hà Nội. Các kết quả và các tài liệu của đoàn đang ở thời kỳ văn
phòng tổng kết, chưa công bố.

12


Chương 2

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT KHU vực
2.1. ĐỊA TẦNG
Các phân vị địa tầng được sử đụng ở đây trên cơ sở kẽ thừa và tổng hợp từ
các nguồn tài liệu đo vẽ địa chất tỷ lệ 1: 500.000 của A.E. Dovjikov, bản đồ
địa chất 1/200.000 của Nguyễn Xuân Bao (1969) Đinh Minh Mộng (1974) và
Hoàng Ngọc Kỷ (1979); bản đổ địa chất tỷ lệ 1: 1.000.000 do Phan Cự Tiến
chủ biên, bản đổ địa chất tỷ lệ 1: 50.000 đo Ngô Quang Toàn chủ biên.
2.1.1. Giới Proterozoi (PR)
Phân vị địa tầng cổ nhất có ở trong vùng là các đá biến chất tuổi
Proterozoi thuộc phức hộ Sông Hồng lộ ra ở phía đông bắc, kéo dài theo
phương tây bấc - đông nam từ phía bắc cầu Trung Hà tới khu vực thị xã Sơn
Tây. Về phía đông, thành tạo này bị trầm tích Đệ tứ phủ lên.
Thành phần thạch học của phức hệ chủ yếu gồm gneis giàu plagiocla,
biotit, silimanit màu xám đen, những lớp mỏng amfibolit màu đen lục, chuyển
dần lên là đá phiến biotit - silimanit xen với gneis biotit, đôi nơi xen thấu kính
nhỏ đá hoa. Tất cả các thành tạo trên đều bị mâcmtit hoá, pecmatit cũng có
mật ở nhiều nơi. Đá bị uốn nếp mạnh, chiều dày trên 2000m.
Thành phần khoáng vật của đá phiến biotit - silimanit - ânmndin gồm
thạch anh, biotit, silimanit, rất it ânmndin, Thành phần khoáng vật của
amfibolit gồm horblen, plagiocla, thạch anh và một số khoáng vật phụ khác.
Việc định tuổi của phức hệ Sông Hồng đến nay vẫn chưa đủ cơ sở vững

chắc. J. Fromaget (1937), A.E. Đovjikov,...(1965) đều xếp vào Arkei, Bùi Phú
Mỹ (1972) xếp giả thiết vào Protezoroi và cho tới nay hầu hết mọi người đều
để tuổi của phức hệ là Protezoroi.
2.1.2. Giới Paleozoi (PZ)
Hệ Cam bri-O cdovic, hệ tầng Bến K ế ( e 2 - OjM):
Trên các tờ bản đổ tỷ lệ 1: 500.000 và 1: 200.000, trong phạm vi vùng Ba
Vì không có các thành tạo biến chất hệ tầng Bến Kế. Trên bản đổ địa chất Việt
Nam - Lào - Campuchia do Phan Cự Tiến chủ biên, các thành tạo biến chất
thuộc hệ tầng Thạch Khoán ở khu vực Thanh Thuỷ, diện phân bố của các đá hệ
tầng Tân Lạc ở rìa đông bắc và tây nam đỉnh Ba Vì được xếp vào hộ tầng Bến
Khế tuổi Cambri - Ordovic.
Mặt cắt của hệ tầng gồm 4 tập, từ dưới lên gồm:
- Tập 1: Chủ yếu gồm đá phiến 2 mica và các tập vảy mica xếp đặc xít.
Giữa các tập vảy có tinh thể thạch anh hoặc grànt, disten, storonit.
- Tập 2: Gồm đá phiến thạch anh hai mica xen với các lớp quaczit có độ
dày thay đổi, đôi lớp có chứa tinh thể manhetit kích thước nhỏ.

13


%

BẢN ĐỒ ĐỊA CHẤT
KHU Vực BA VỈ VÀ PHỤ CẬN

CHÚ GIẲI

Thống Hòlôxen, phẩn trtn. Hệ tầng Thái Binh: tr
dầm lầy; Git, sét ảlu; tribn tích đềm ỉiy~hồ: c&d


Qrv*QmV

Thing PltitôAcn, phin trtn. Hệ tầng Vĩnh Phác:I
J ồng-biến: Sét TÌH& sét bột phang hcể litsd t mằi

Qmn*n

Thống Ptóitủxcn, pbỂD giửM rta. Hệ tầng H ầ NộJ
Hẩm tích íôog, lữ: Cuội, lài, cầu i ư t a tích: tin g d

N

Hệ Néogen: Tảng kết, cuộỉ két, lạn kết, cắt kết h
m ỉu x im đ tn , bột k â xẩm dea pbtA dải, đ ắ ié t, c

Tyi-nt>

Cắc bệc Nori-Rct. Điệp Suối Bing, Pbụ diệp ư tn
Đ i phiến sét xen bộí ktì, CÍI kết, thtn đầ.

Tyi-raẾ!

Gấc bệc Nori-Rct. Điệp Suối Bằng, Phụ diệp duứi
Cuội két da khoắng, cầt kít, đ ỉ phiío lét

TJmí

Bậc Ladin. Hẹ táng Mường Trai:
Cất kít, d i phiến sét, thấu kinh d i vồi.

Điệp Đóng Giao, Phụ dif p d ư đ l:
Đá vối m ìú xẩm phản lỏp, đẩ sét v&i

~
Pi-T|V*

T M ag dưội
: Bột kít, cát ktì, d i phiến két chi
c it kết bột két, tup m ỉu tim đò, đá lét t h u , phán
H í Peani, thống Lrln - Hệ Tri it, thốog dưới. Hệ t
cất kết, đẩ vốif b t u a poíLrit và tup rioiit
Thống dưửi. Điệp Suối T n : d í phlẾn lét, bột két,
Hộ Siliẵt, tháng titQ - Hệ Đẽvữũ, thống dưđi. Đỉệ
EM phiến sét, dẩ sét vôi, dầ vâỉ
Hệ Ồđôvíc, thông titn - hệ Siiui. Điệp Sinh Vinh

Hệ c*mbri, thống giửa - Ồdổvíc gi ỉ dịuh, thỏng c
: Đá phiến xerixit-clont Jteo cắt kết, quaczit, dá vi
Hf tàng Thệch Khcẩn: Đẩ phiến mica cổ grtntỊ,
Phức hộ Súng Hổng: ĐỂ phiến hlatít có gran*!* xi
goal mìcm atii, nnílbalit, gc ii biatỉt
P cannU t, ip lit gnuiit

Pha 1. Các th in nhỏ SÌỄU b*z: Dunit bị xỄcptntin
vcclit có biotit lien qu»n vđỉ phtio txào b u
Phức hệ Bin Xang: Apoperidotit, ipodunit bị xec
Đứt giy

0


4

Bkm

Tỷ lệ 1:300 000


- Tập 3: Đá phiến thạch anh mica - granat xen các thấu kính nhỏ đá hoa.
- Tập 4: Chủ yếu là quaczit màu trắng sạch.
Tổng chiéu dày của hệ tầng đạt 1000 - 1400m.
Các kết quả kiểm tra cùa đề tài tại khu vực chân núi phía đông bắc đỉnh
Ba Vì cho thấy các đá phiến hai mica của hộ tầng bị vò nhàu, uốn nếp và
phong hoá mạnh, v ỏ phong hoá ferosialit màu nâu đỏ khá giàu sắt, khác về cơ
bản so với các đá trầm tích tuổi Mesozoi.
Hệ Ocdovic - Silua, hệ tầng Sinh Vinh ( 0 3 - s sv):
phân bố ở phía tây Sông Đà. ở phía tây chúng phủ không chinh hợp lên
tầng sông Mã, còn ở phía bắc không chỉnh hợp lên tầng Bến Kế. Dựa vào
thành phần Chạch học có thẻ chia thành 2 tập:
- Tập dưới bắt đầu bằng ỉớp cuội kết cơ sở phủ lên bể mặt bào mòn trên
đá quaczit hệ tầng Bến Kế. Thành phần cuội chủ yếu là quaczit mài tròn tốt,
đặc xít, xi mãng là cát kết bị ép. Chuyển lên là cát kết, bột kết chứa vôi xen
cuội kết, trên nữa là đá phiến sét, bột kết, cát kết chứa vôi màu phớt lục. Chiều
dày tập gần 100m.
- Tập trên chủ yếu là đá vôi chứa cát màu phớt lục và đá vôi màu đen
phân lớp mỏng, chuyển lên là đá vôi phân lớp dày màu xám đen bị đolomit
hoá. Chiều đày tập khoảng 250 - 300m.
Hệ Silua, thống trên - Hệ Đevón, thống dưới, hệ tầng Bó Hiềng (S2 Dybh)
Hệ tầng Bó Hiềng có quan hệ chuyển tiếp liên tục với các đá của hệ tầng
Sinh Vinh và hệ tầng Suối Tra. Diện phân bố của chúng cũng gắn liền với hai
hệ tầng này, chủ yếu thuộc phạm vi nếp lồi Suối Tra ở phía tây Sông Đà. Mặt

cắt của hệ tầnd gồm 3 tập:
- Tập 1: Chủ yếu là đá phiến sét màu lục, đá phiến sét vôi màu xám xanh
xen ít lớp bột kết và thấu kính đá vôi mỏng.
- Tập 2: Cghủ yếu là đá phiến sét màu xám đen phân lớp mỏng, có nơi
màu phớt lục bị serisit hoá yếu, xen thấu kính đá vôi, sét vôi màu xám lục,

xám xanh.
- Tập 3: Chủ yếu là đá phiến sét màu đen xen ít lớp đá phiến sét vôi màu
xám lục, bột kết màu xám.
Hệ Đevôn, hệ tầng Suối Tra (DjSi):
Phân bố ở phía Bắc khu vực, cũng tạo thành những dải hẹp hình vòng
cung thuộc cánh nếp lồi Suối Tra. Đá của điệp này phủ chỉnh hợp trên các
thành tạo cùa điệp Sinh Vinh. Thành phần thạch học cấu thành của điệp từ
dưới lèn trên như sau:
- Tập 1 gồm đá phiến sét màu đen, phân phiến mỏng, xen bột kết màu
xám lục, cát kết màu vàng dày 500m
14


- Tập 2 là các đá phiến sét vôi màu đen, phân lớp móng, xen nhiều lớp đá
vôi màu xanh đen dày 200m
- Tập 3 có đá phiến màu đen, phân lớp mỏng, phần trên xen bột kết
Tổng bề dày của điệp gần 900m.
Hệ tầng Bản Nguồn (D2e bn )
Phân bố ở phía phía đông của nếp lồi Suối Tra, kế liền hệ tầng Suối Tra.
Về mặt cắt thạch học gồm 3 tập:
- Tập dưới gồm cát kết phân lóp dày, chuyển dần lên bột kết, đá phiến sét
màu đen, xen một vài lớp đá vổi chứa silic. Đá ít bị vò nhàu với bề dày 300 400m.
- Tập giữa chủ yếu là cát bột kết xen với đá phiến sét, đá vôi màu xám
đen, dày 120 - 200m

- Tập trên gồm đá phiến màu đen, xen vói đá phiến silic, có nơi chủ yếu
là đá vôi chứa silic.
Tổng bề dày hệ tầng khoảng 700 - 850m.
Hệ tầng Mó Tôm (D2 m t )
Hệ tầng được cấu tạo từ đá vôi màu xám, xám sẫm, phân lớp dày xen đá
vôi silic, tạo thành dải vòng cung của sông Đà với tổng bề dày đạt từ 220 250m.
Hệ tầng Viên Nam (P2 - TjVrt)
Hộ tầng mang tên núi Viên Nam, một khối núi có đỉnh cao 1029m, nằm
liền kề phía đông nam khối núi Ba Vì. Khối lượng địa tầng, vị trí tuổi và tên
gọi của hệ tầng đã có sự thay đổi nhiều lần.
Hệ tầng được Phan Cự Tiến xác lập năm 1977, sau đó được Bùi Phú Mỹ
và nnk. 1978; Đinh Minh Mộng và nnk. 1978; Nguyễn Văn Hoành và nnk.
1978; Nguyễn Xuân Bao và nnk. 1978; Phan Sơn và nnk. 1978 dùng với vị trí
địa tầng là Permi thượng - Triat hạ. Nguyễn Đức Thắng, 1994; Vũ Khúc,
Đặng Trần Huyên, 1995; Trẩn Trọng Hoà, 2001 dùng với vị trí địa tầng là
Triat hạ.Trên bản đồ địa chất tỷ lệ 1: 500.000 do A.E. Dovjikov chủ biên, các
thành tạo này lại được xếp vào hệ Jura không phân chia. Trên bản đồ địa chất
tỷ lệ 1: 1.000.000, Phan Cự Tiến lại xếp các thành tạo này vào hệ tầng cẩm
Thuỷ tuổi Permi thượng.
Hộ tầng Viên Nam tuổi Permi thượng - Triat hạ được mô tả trong Địa
chất tờ Hà Nội gồm 3 phần:
- Phần dưới là đá phiến sét màu đen có xen ít lớp đá phiến sét than,
chuyển lên cát kết, đá vôi cát màu xám đen phân lớp vừa chứa spinferida.
- Phần giữa là đá vôi màu xám phán lớp mỏng chuyển lên đá vồi màu
xám phân lớp dày chứa sét có Foraminifera.

15


- Phần trên chủ yếu là pofirii bazan, spilit xen tuf cua chúng.

Tổng chiều dày cứa hệ tầng trên 1000m.
Trong hệ tầng Viên Nam (Tống Duy Thanh và nnk, 2004) hoặc hệ tầng
Cẩm Thuỷ (Phan Cự Tiến và nnk., 1988), mặt cắt chỉ gồm phần trên của hệ
tầng Viên Nam được mô tả ở trên, tức là trong thành phần chỉ còn lại các thành
lạo phun trào. Thành phần của hệ tầng được xác định bởi các tác giả này đều
dựa trên mô tả mạt cắt chuẩn được lấy tại chính khối núi Viên Nam, theo
dường từ núi Viên Nam đến Làng c ổ Đông do Hồ Trọng Tý mô tả năm 1990.
Mật cắt gồm 4 tập:
- Tập 1: Bazan, bazan porphyr màu xám lục sẫm và tù của chúng; dày
150m. Bazan thường có cấu tạo hạnh nhân lấp đầy bởi chlorit, calcit và thạch
anh.
- Tập 2: Bazan porphyr và tuf aglomerat màu xám lục nhạt, dày 170 200m. Mảnh tuf trong aglomerat có kích thước khác nhau, gắn kết lại bằng tuf
hạt mịn.
- Tập 3: Bazan olivin, bazan porphyr xen với tuf màu lục có cấu tạo hạnh
nhân khống đều, dày 150m.
- Tập 4: Bazan porphyr xám lục sẫm xen cát kết chứa tuf phân kớp dày,
màu xám sáng, dày 200m. Tập này có các dấu hiệu chuyển tiếp lên các lớp
chứa hoá thạch Olênk của hệ tầng Cò Nòi.
Bề dày chung của hệ tầng đạt 770 - 800m.
Về mặt thạch học, các đá cấu tạo chính của khối núi Ba Vì khong có
những thay đổi lớn, chúng đều được mô tả là các thành tạo phun trào,. Tuy
nhiên vế vị trí địa tầng có sự khác nhau đáng kể giữa các tác giả, từ Jura Kreta (Bản đồ địa chất tỷ lệ 1: 500.000, A.E. Dovjikov, 1965) đến P2-T|
(Bản đồ địa chất tỷ lệ 1: 200.000), P2 (Bản đồ địa chất tỷ lệ 1: 1.000.000,
Phan Cự Tiến chủ biên, 1988) và T| (Bản đồ địa chất tỷ lệ 1: 50.000). Các
nghiên cứu địa chất - địa mạo chi tiết nhất là công tác đo vẽ địa chất và điểu

tra khoáng sản tỷ lộ 1: 50.000 của Liên đoàn Bản đồ Địa chất dưới sự chủ
biên của Ngô Quang Toàn.
Theo tài liệu đo vẽ địa chất tỷ lệ 1: 50.000 của Liên đoàn Bản đồ, hệ tầng
Viên Nam được xác định tuổi Triat hạ do tại khu vực Minh Sơn, Ngô Quang

Toàn và đồng nghiệp đã tìm được hoá đá trong phụ hệ tầng dưới của hệ tầng
Viên Nam gồm Tirolites datvini Mo JS, Paranaini tes Sp,....
Theo các tác giả Bản đồ địa chất tỷ lệ 1: 50.000, hệ tầng Viên Nam có
thành phần chủ yếu ỉà cacs sản phẩm của hoạt động núi lửa mà trung tâm
được xác định là ở khu vực Ba Vì. Dựa vào thành phần thạch học, hệ tầng
được chia thành 3 phụ hệ tầng:
a.Phụ hệ tầng dưới (T[VA7])

16


×