Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.98 KB, 17 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH
TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Khái quát hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm
Từ lâu, hệ thống ngân hàng đã đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế,
ngày nay cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường vai trò
của Ngân hàng với nền kinh tế là không thể thiếu. Có nhiều cách để định nghĩa
“ngân hàng thương mại” theo từng cách tiếp cận khác nhau.
Một số khái niệm dựa trên các hoạt động chủ yếu của ngân hàng như Luật
các tổ chức tín dụng nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.”
Tuy nhiên, trong các cách tiếp cận thì theo em việc xem xét các loại hình
dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp có lẽ là cách tiếp cận thận trọng nhất. Peter
S.Rose đã sử dụng cách tiếp cận này để đưa ra định nghĩa : “ Ngân hàng là các
tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất
đặc biệt là tín dụng ,tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”
Như vậy, đúc rút lại ta có thể rút ra khái niệm chung : “Ngân hàng là một
trung gian tài chính, là một tổ chức kinh tế, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với
nghiệp vụ chính là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
1.1.2. Vai trò NHTM Trong nền kinh tế thị trường.
Đối với nền kinh tế của nước ta hiện nay, khi mà hệ thống tài chính còn kém
phát triển, chủng loại các tổ chức tín dụng còn nghèo nàn, quy mô của từng tổ
chức tài chính còn nhỏ bé, hoạt động chưa được phong phú thì vai trò của các
ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế là đặc biệt quan trọng.
• Ngân hàng là trung gian tài chính:
Trong nền kinh tế, luôn có những lượng vốn tồn đọng và tạm thời chưa cần
đến, mặt khác lại có những người cần vốn để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh. Bằng việc nhận giữ, bảo quản những đồng tiền nhàn rỗi và cho những


người cần vốn vay lại, ngân hàng đã là cầu nối hiệu quả giữa những người có
vốn và những người cần vốn. Như vậy, ngân hàng đã góp phần tăng cung về
vốn, tăng hiệu quả cho hoạt động của cả hệ thống kinh tế.
● Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp:
Khi ngân hàng triển khai cho các doanh nghiệp vay vốn, thông thường các
Ngân hàng đều có các biện pháp tư vấn nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong
việc sử dụng vốn nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, các dịch vụ mà
Ngân hàng cung cấp như Bảo lãnh, chiết khấu, tư vấn đầu tư,…mang lại tiện ích
rất lớn cho các doanh nghiệp. Tất cả những hoạt động của ngân hàng sẽ là là cơ
sở giúp cho việc tăng cường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói riêng và
của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
● Góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc
gia: Với công cụ mà Ngân hàng trung ương dùng để thực thi chính sách tiền tệ
như: Chính sách chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng trung ương đối
với ngân hàng thương mại: lãi suất tín dụng hoặc bằng các nghiệp vụ thị trường
tự do, thì các ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc thi hành chính
sách tiền tệ quốc gia. Các mục tiêu chủ yếu là kiềm chế lạm phát, ổn định lãi
suất, ổn định thị trường tài chíng, thị trường ngoại hối, tạo công ăn việc làm,
tăng trưởng kinh tế.
● Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền kinh tế các nước và thế giới:
Trong xu hướng toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới hiện nay, nền kinh tế của
mỗi quốc gia ngày càng hoà mình chung vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động
của các ngân hàng thương mại cũng ngày càng mở rộng ra toàn cầu, ngày càng
đóng vai trò to lớn trong việc phần bổ nguồn vốn giữa các quốc gia và các nền
kinh tế. Một trong những xu hướng gần đây dễ nhận thấy là một luồng vốn rất
lớn từ các nền kinh tế phát triển đổ vào các nền kinh tế mới nổi ở châu Á.
Với hoạt động rộng khắp của mình, các ngân hàng có khả năng huy động
được nguồn vốn từ các cá nhân và các tổ chức nước ngoài góp phần bảo đảm
được nguồn vốn cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp trong nước có thể mở rộng hoạt động của họ ra nước ngoài một cách dễ

dàng hơn, hiệu quả hơn nhờ hoạt động thanh toán quốc tế, bảo lãnh.
Chính nhờ sự mở rộng các quan hệ quốc tế mà nền kinh tế trong nước có sự
thâm nhập vào thị trường quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh với các
nước khác trên thế giới.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.3.1. Huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM, giữ vai trò quan
trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của toàn bộ ngân hàng.
● Tiền gửi
Tiền gửi chính là những nguồn vốn mà các các nhân hay tôt chức hiện tại
chưa có nhu cầu sử dụng và muốn giao cho ngân hàng bảo quản hộ đồng thời
thu lãi. Tiền gửi bao gồm các loại: Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch),
tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, tiền gửi tiết kiệm
của dân cư, tiền gửi của ngân hàng khác.
● Tiền vay
Mặc dù tiền gửi là nguồn đóng vai trò quan trọng trong tổng nguồn vốn
của các ngân hàng. Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu thanh toán trong ngắn
hạn cũng như dài hạn thì ngân hàng cũng thường xuyên sử dụng nguồn từ đi
vay: Vay Ngân hàng trung ương, Vay các tổ chức tín dụng khác, Vay trên thị
trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, trái phiếu) .
● Vốn chủ sở hữu
Đây là nguồn vốn ban đầu của Chủ sở hữu khi thành lập ngân hàng, nó
bao gồm : tài sản cố định ( trụ sở, trang thiết bị máy móc,…) và tài sản lưu
động ( như nguồn vốn ban đầu)
● Nguồn khác
Loại này bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán, nguồn khác.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
● Nghiệp vụ chiết khấu
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện việc mua lại các giấy tờ có
giá với mục đích hưởng một mức lợi tức – thường gọi là lợi tức chiết khấu –

tương xứng với chi phí vốn và rủi ro mà ngân hàng phải đảm nhận khi sở hữu
các giấy tờ có giá đó. Các giấy tờ thường được ngân hàng chiết khấu là thương
phiếu, các giấy nợ như trái khoán hay hối phiếu chấp nhận thanh toán. Sau khi
chiết khấu, ngân hàng có thể giữ tài sản này tới lúc mãn hạn hoặc tiến hành tái
chiết khấu hay bán lại trên thị trường tiền tệ.
● Nghiệp vụ đầu tư
Nghiệp vụ đầu tư chính là hoạt động mua bán chứng khoán nhằm sinh lợi
của các ngân hàng. Hoạt động đầu tư của các ngân hàng nhằm 2 mục đích : mục
đích thanh khoản và mục đích lợi nhuận.
Với mục đích thanh khoản thì ngân hàng thường nắm giữ các loại chứng
khoán ngắn hạn, và có tính thanh khoản cao như : tín phiếu kho bạc, kì phiếu
của các ngân hàng khác,… Các loại chứng khoán này được xem như là khoản
dự trữ cấp hai của các ngân hàng. Ngược lại, để phục vụ cho mục đích sinh lời
thì những loại chứng khoán có mức sinh lời cao chẳng hạn như trái phiếu dài
hạn của Nhà nước luôn là ưu tiên nắm giữ số một của các ngân hàng.
● Nghiệp vụ cho vay
Nghiệp vụ cho vay luôn chiếm vị trí chủ chốt trong các hoạt động của các
ngân hàng thương mại, mang về 70 – 80% trên tổng thu nhập của ngân hàng.
Đó chính là hoạt động chuyển giao quyền sử dụng vốn của ngân hàng cho các
dối tượng có nhu cầu trong một thời gian nhất định nhằm thu lãi.Nghiệp vụ cho
vay được phân chia theo nhiều tiêu thức kỳ hạn gồm 3 nhóm là cho vay ngắn
hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn; hoặc phân chia theo lĩnh vực cho
vay thành cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng,... Các
ngân hàng hiện nay đang rất chú trọng phát triển các dịch vụ cho vay tiêu dùng.
1.1.3.3 Các hoạt động khác
● Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Bằng việc mở cho khách hàng các tài khoản tiền gửi thanh toán, ngân
hàng thực hiện nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng. Việc thực hiện thanh toán
qua các tài khoản giao dịch mang lại nhữn lợi ích lớn như: nhanh gọn, chính
xác, tiết kiệm,…Với hệ thống mạng lưới ngày càng mở rộng thì việc thanh toán

ngày càng mang lại nhiều tiện ích cho ngân hàng. Hiện nay, vói sự phát triển
của công nghệ thông tin ngân hàng đã phát triển các hình thức thanh toán mới
bằng điện thoại, thẻ ATM... bên cạnh các hình thức thanh toán truyền thống như
ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, L/C, séc....
● Quản lý ngân quỹ
Với lợi thế chuyên nghiệp trong quản lý ngân quỹ, ngân hàng sẵn sàng đáp
ứng nhu cầu quản lý thu, chi cũng như các dòng tiền vào ra cho khách hàng.
Đồng thời ngân hàng sẽ tư vẫn cho khách hàng các phương án đầu tư nhằm sinh
lợi trong trường hợp có số dư tiền trong ngân quỹ , nhằm thu lợi cho khách
hàng.
● Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Để được phép thành lập các ngân hàng phải đáp ứng một số điều kiện
của chính phủ như phải mua trái phiếu của chính phủ theo một tỷ lệ nhất định
trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động. Do nhu cầu chi tiêu thường
rất lớn và cấp bách của mình mà chính phủ tìm đến các ngân hàng.
● Bảo lãnh
Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và
phát triển mạnh. Các loại hình bảo lãnh ngày càng phong phú, đơn cử như: bảo
lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu,….Do vậy,
nghiệp vụ này ngày càng trở nên phổ biến với các doanh nghiệp.
● Cho thuê các thiết bị trung và dài hạn
Nhu cầu thuê các tài sản chủ yếu là máy móc thiết bị đang tăng nhanh.
Ngân hàng cung cấp dịch vụ cho thuê các thiết bị máy móc (thường có giá trị
lớn) thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị cho khách
hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trử tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của
tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như
cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
● Dịch vụ ủy thác và tư vấn
Do đặc thù về hoạt động của mình, các nhà ngân hàng luôn được xem
là các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu

tư, quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
● Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Đây là dịch vụ nhằm cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Hiện nay, có rất nhiều Ngân hàng
ở nước ta đã thành lập các công ty Chứng khoán riêng của mình và có hoạt
động độc lập với lĩnh vực ngân hàng truyền thống.
● Dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng gặp rủi ro như
chết, tàn phế, mất khả năng thanh toán.
● Dịch vụ đại lý

×