Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.2 KB, 29 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG
NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI.
1. Khái quát về NHNT Hà Nội
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh TP Hà Nội (gọi tắt là
NHNT Hà Nội) được thành lập theo quyết định số 177/QĐ/NH ngày 22 tháng
12 năm 1984 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), chính thức đi vào hoạt động từ 01/
03/1985 theo sự quản lý và phân công của NHNT Việt Nam.
NHNT Hà Nội là một tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân, thực hiện
hạch toán kế toán và kinh tế thống nhất trong hệ thống NHNT Việt Nam, hoạt
động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, đảm bảo và phát triển vốn, tự bù đắp
chi phí và tự chịu rủi ro.
NHNT Hà Nội là ngân hàng trực thuộc và là Chi nhánh cấp I trong hệ
thống NHNT Việt Nam, cùng với NHNT TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa- Vũng Tàu được
xếp loại doanh nghiệp hạng I
1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội


Cơ cấu tổ chức của NHNT hà nội được trình bày theo sơ đồ sauSơ đồ 1: Sơ
đồ tổ chức NHNT Hà Nội:
Ban Giám Đốc

Phịng Tín Dụng Tổng Hợp

Phịng Kế Tốn -Tài Chính

Phịng Thanh Tốn Quốc Tế

Phịng Ngân quỹ


Phịng Tin Học

Phịng Dịch Vụ Khách Hàng

Phịng Hành Chính Nhân Sự

Tổ Kiểm Tra Nội Bộ

Tổ Quan Hệ Khách Hàng

2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT Hà Nội.
Trong những năm vừa qua, cùng với hệ thống NHNT Việt Nam nói chung,
NHNT Hà Nội đã có nhiều thành cơng tích cực trong hoạt động kinh doanh, tiếp
tục khẳng định vị trí của mình trong quá trình phát huy các nguồn nội lực, thu
hút nguồn ngoại lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội. Đây là kết quả được duy trì trong những năm vừa qua, được
thực hiện cụ thể trên các mặt nghiệp vụ:
2.1. Về huy động vốn.
- Nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế luôn là yêu cầu bức thiết, nhất là đối
với địa bàn Hà Nội. Hiện nay, NHNT Hà Nội thực hiện huy động vốn bằng VND


và các ngoại tệ mạnh thơng qua các hình thức như: Tiết kiệm (có kỳ hạn và
khơng kỳ hạn), phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, mở tài khoản... - Về ngoại tệ,
NHNT Hà Nội thực hiện huy động và thu đổi 11 loại ngoại tệ, chủ yếu là các loại
ngoai tệ mạnh và các ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu XNK của nền kinh tế.
Trong năm 2002 vừa qua, với vị trí và uy tín được tạo dựng trong nhiều
năm, NHNT Hà Nội đã hồn thành tốt cơng tác huy động vốn theo kế hoạch,
đóng góp lớn vào thành tích huy động vốn chung của tồn hệ thống NHNT. Kết
quả như sau:

Tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh trong năm 2002 là 3996 tỷ đồng,
tăng 22% so với cùng kỳ 2001. Trong đó:
+ Huy động từ dân cư đạt 3.254 tỷ đồng, tăng 24% và chiếm 81%
tổng số vốn huy động
+ Huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 740 tỷ đồng, tăng 13% và
chiếm 18% trong tổng nguồn vốn huy động.
Nhờ vậy, tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh trong năm 2002 là
4.242 tỷ đồng. Trong đó:
+ Vốn điều lệ :

13 tỷ VND

+ Vốn và các quỹ khác: 107 tỷ VND (do tích lũy qua các năm).
+ Vốn huy động: 4.122 tỷ VND
2.2. Về công tác sử dụng vốn.
NHNT Hà Nội sử dụng vốn theo nguyên tắc: An toàn và Hiệu quả.
Ngân Hàng chủ yếu cho vay các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và một
số tỉnh lân cận. Hiện nay NHNT Hà Nội cho vay 1 khách hàng tối đa là 80 tỷ
đồng, và cho vay trung – dài hạn tối đa một dự án là 35 tỷ đồng.


Ngân hàng tập trung cho vay phục vụ XNK, đầu tư mở rộng sản xuất, xây
dựng các nhà máy lớn trên địa bàn Hà Nội, cho vay các dự án phục vụ công
nghiệp, giao thông công cộng, y tế, xây dựng cơ bản... Phương thức cho vay của
Ngân hàng là khá phong phú, tuy vậy hai phương thức cho vay chủ yếu của
NHNT Hà Nội là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng.
Với kết quả sử dụng vốn sinh lời của Chi nhánh trong năm 2002 đạt 99%
tổng nguồn vốn huy động, tăng 62% so với năm 2001. Chi nhánh đã chủ động
mở rộng hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng vốn có hiệu quả cho nền kinh tế và
tăng cường nguồn vốn cho NHNT Việt Nam, thơng qua 2 kênh sử dụng vốn chính

là đầu tư tín dụng trực tiếp và điều chuyển vốn nội bộ.
Cơng tác tín dụng của Chi nhánh trong năm 2002 đã thực sự khởi sắc:
Doanh số cho vay đạt 3. 625 tỷ đồng, tăng 64%. Doanh số thu nợ đạt 3. 255 tỷ
đồng, tăng 62%, dư nợ tín dụng đạt 985 tỷ đồng, tăng 60% so với năm 2001.
Trong đó:
- Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt 793 tỷ đồng, tăng 74%. Chi nhánh đã đáp ứng
đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho các khách hàng, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp nắm bắt được thời cơ kinh doanh. Đặc biệt, Chi nhánh đã thực hiện cho vay
USD để thu mua và làm hàng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi nhằm hỗ trợ hoạt động
xuất khẩu của thành phố với doanh số cho vay đạt 4 triệu USD.
- Dư nợ tín dụng trung và dài hạn đạt 192 tỷ đồng, tăng 107%. Chi
nhánh đã chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu
vốn đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế xã hội ở
Thủ đơ.
Hiệu quả tín dụng của Chi nhánh là rõ rệt, mặc dù mở rộng và tăng
nhanh cả về doanh số và số dư cho vay nhưng vẫn đảm bảo an tồn và có chất
lượng, dư nợ q hạn chỉ chiếm 0,6% tổng dư nợ, đặc biệt trong năm 2002
không phát sinh một khoản nợ quá hạn nào.


2.3. Về cơng tác thanh tốn xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ.
Phát huy thế mạnh và uy tín đã tạo dựng được trên trường quốc tế của
toàn hệ thống, NHNT Hà Nội đã thực sự trở thành địa chỉ tin cậy cho các doanh
nghiệp hoạt động XNK trên địa bàn. Cơng tác thanh tốn quốc tế năm 2002 có
chất lượng tốt với tổng doanh số thanh tốn XNK cả năm đạt 374 triệu USD, tăng
18% so với năm 2001 (Chủ yếu là thông qua L/C, D/P, D/A, TTR). Trong đó doanh
số thanh tốn nhập khẩu tăng 30%, riêng doanh số thanh toán xuất khẩu bằng
78% so với doanh số thanh tốn xuất năm 2001 do khó khăn hoạt động xuất khẩu
chung của cả nước.
Bảng 1: Doanh số thanh tốn XNK qua các năm

(Đơn vị: Nghìn USD)

Chỉ tiêu

2000

2001

2002

Nhập khẩu

210. 144

239. 589

292. 196

Xuất khẩu

83. 434

87. 721

68. 863

(Nguồn: Báo cáo tín dụng của NHNT Hà Nội qua các năm)

Đi đôi với hoạt động thanh tốn XNK, cơng tác kinh doanh ngoại tệ cung
được chú trọng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu về ngoại tệ trong thanh toán

XNK. Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2002 tăng mạnh, đạt 131 triệu USD, tăng
13% so với năm 2001. Chi nhánh đã tự chủ động cân đối các nguồn ngoại tệ để
cung ứng cho nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu
ding của các doanh nghiệp và khách hàng có quan hệ.
2. 4. Về cơng tác Kế toán, Thanh toán Ngân hàng
Hiện nay NHNT Hà Nội đã tích cực chủ động tham gia cùng với NHNT
Việt Nam và Ngân Hàng Nhà nước ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại vào
cơng tác thanh tốn của ngân hàng đảm bảo thanh tốn nhanh, chính xác và
tăng nhanh vịng quay sử dụng vốn của các doanh nghiệp qua Ngân hàng.


Có thể nói, hiên nay NHNT Việt Nam nói chung và NHNT Hà Nội nói riêng
có cơng nghệ thanh tốn hiện đại nhất trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
NHNT Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong toàn hệ thống ứng dụng chương trình
“Tầm nhìn 2010 – Hệ thống VCB Vision 2010”, đây là dự án của Ngân Hàng Thế
Giới do Vietcombank triển khai dựa trên nền tảng công nghệ hiên đại nhất của
Mỹ. Các ứng dụng nổi bật của chương trình này là:
- Là hệ thống xử lý trực tuyến và các dịch vụ hỗ trợ.
- Có hệ thống định hướng khách hàng.
- Giao dịch một cửa
- Gửi một nơi, rút nhiều nơi (điều này các Ngân hàng khác chưa làm được).
- Thanh tốn tự động.
Nhờ đó, năm 2002 lượng khách hàng đến mở tài khoản tăng 46% so với
năm 2001, số lượng khách hàng có tài khoản đến 31/12/2002 là 31.982, trong
đó có 570 đơn vị và 4106 cá nhân mở tài khoản giao dịch tại Chi nhánh.
Bảng 2: Số lượng tài khoản giao dịch qua các năm:
(Đơn vị: tỷ đồng)

Năm


2002

2001

2000

Số lượng

16. 248

21. 215

31. 982

( nguồn: báo cáo của NHNT Hà nội)

Doanh số thanh toán trong hệ thống Ngân Hàng Ngoại Thương đạt 34.509
tỷ đồng, tăng 45%; Thanh toán bù trừ đạt 5.045 tỷ đồng, tăng 16%; Thanh
toán qua NHNN đạt 2.294 tỷ đồng, tăng 47% so với năm 2001; Thanh toán liên
Ngân hàng áp dụng từ tháng 5 - 2002 đạt 656 tỷ đồng.
2.5. Về dịch vụ kiều hối, thẻ và bảo lãnh Ngân Hàng


Với chính sách đa dạng hố và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng, công tác dịch vụ Ngân hàng của Chi nhánh trong năm 2002 tăng
mạnh.
Chất lượng thanh tốn và trình độ phục vụ ngày càng được nâng cao,
cơng tác thanh tốn chi trả kiều hối của Chi nhánh trong năm 2002 đạt doanh
số 15,546 triệu USD. Tuy còn nhỏ so với hơn 2 tỷ USD kiều hối được chuyển về
trong năm qua nhưng cũng đã tăng tới 94% so với năm 2001.

NHNT Hà Nội đã mở rộng và phát triển các sản phẩm và dịch vụ ngân
hàng hiện đại vào cuộc sống. Ngoài các chương trình dịch vụ mới như VCBOnline, Home-banking, E-banking, Ci-tad... Ngân hàng đã chú trọng tạo điều
kiện cho khách hàng giao dịch, tiếp cận với các dịch vụ thanh toán mới nhất
của ngân hàng. Công tác phát hành thẻ lần đầu tiên được Chi nhánh triển khai
đã có hiệu quả tốt:
- Thẻ rút tiền mặt tự động ATM số lượng phát hành đạt 3.086 thẻ, doanh
số thanh toán là 35 tỷ đồng,
- Thẻ Visa, Master số lượng thẻ mới phát hành đã đạt 162 thẻ, doanh số
thanh tốn thẻ tín dụng là 128 ngàn USD, tăng 44% so với năm 2001. Hiện nay
ngồi Visa và Master, NHNT Hà Nội cịn phát hành và thanh tốn các loại thẻ
tín dụng khác như Amex, Diner Club, và thẻ ghi nợ VCB-ATM.
Năm 2002 cũng là năm mà dịch vụ bảo lãnh ngân hàng tăng mạnh về cả
số lượng và loại hình bảo lãnh. Nhiều hình thức bảo lãnh được thực hiện với
các mức ký quỹ phù hợp, tạo điều kiện cho khách hàng có thể sử dụng dịch vụ
bảo lãnh ngân hàng mà không bị ứ đọng vốn (các loại hình bảo lãnh hiện nay
ngân hàng đang áp dụng bao gồm: Bảo lãnh Thanh toán, bảo lãnh Dự thầu, và
bảo lãnh Thực hiện hợp đồng). Tổng doanh thu bảo lãnh cả năm đạt 72.135
triệu đồng, tăng 366% so với năm 2001. Năm vừa qua khơng có khoản bảo
lãnh nào bị q hạn.


Hiện nay Chi nhánh đang áp dụng việc tín chấp, giảm mức ký quỹ xuống
nhằm thu hút nhiều khách hàng hơn nữa.

3. Thực trạng hoạt động tín dung xuất nhập khẩu tại NHNT Hà nội.
Trong toàn bộ chuyên đề này tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD được sử
dụng thống nhất như sau:
Tỷ giá USSD/VNĐ = 14501 (năm 2000)
= 15054 (năm 2001)
= 15349 (năm 2002)

3.1. Về công tác huy động vốn
Huy động vốn là một khâu quan trọng trong hoạt động ngân hàng nhằm
tạo nguồn cho hoạt động tài trợ của ngân hàng. Xét về mặt này NHNT Hà Nội
đã thực hiện khá tốt.
Bảng3: Cơ cấu nguồn vốn huy động

(Đơn vị: triệu đơng, nghìn USD)

2000
Chỉ tiêu

2001

2002

Số tiền

Số tiền

% so với
2000

Số tiền

% so với
2001

403. 336

558221


138, 4

739537

132, 48

- Đồng Việt Nam

330338

415000

125, 63

540000

106, 93

- Ngoại tệ

72. 998
(5034)

143221
(9500)

195, 91

199537

(13000)

132, 67

2/Tiền gửi dân cư

2277654

2651221

116, 84

3237004

122, 09

- Đồng Việt Nam

180592

230000

127, 36

620000

278, 03

2097062
(144615)


2431221
(161500)

115, 93

2617004
(170500)

110, 00

1/Tiền gửi TCKT

- Ngoại tệ


3/Các nguồn khác

34082

49701

145, 82

19817

39, 87

- Đồng Việt Nam


9140

23

-

17

74, 91

24942
-

49678
(3300)

199, 17

19800
(1290)

62, 50

2756735

3268935

118, 58

3996342


121, 53

- Ngoại tệ
Tổng

(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh hàng năm của NHNT Hà nội)

Biểu 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động
Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNT Hà Nội tiền gửi dân cư
chiếm bộ phận chủ yếu trong tổng nguồn vốn huy động. Mặc dù gặp phải
những khó khăn vào cuối năm 2002 do tình hình chính trị trên thế giới có biến
động và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, nhưng nhìn chung nguồn
vốn của ngân hàng tăng nhanh qua các năm. Để đạt được kết quả huy động
vốn như trên, Chi nhánh đã áp dụng nhiều biện pháp, hình thức huy động khác
nhau như phát hành kỳ phiếu, cung cấp dịch vụ ATM, ngân hàng trực tuyến,
nâng cao chất lượng phục vụ, điều này đã tạo ra thuận lợi cho khách hàng, tạo
uy tín cho ngân hàng.
Trong năm 2002, tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh đạt 3396342
triệu đồng tăng 21,53% so với năm 2001
+ Nguồn vốn VND huy động năm 2002 đạt 11600 triệu đồng chiếm
29% tổng nguồn vốn, tăng 59,34% so với năm 2001. Nguyên nhân chủ yếu là lãi
suất huy động tăng và đạt mức cao kỷ lục trong vài năm gần đây.
+ Huy động vốn ngoại tệ đạt 184790 nghìn USD tăng 10,78% so
với năm 2001.
+ Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì huy động vốn ngoại tệ
chiếm tỷ trọng lớn hơn so với huy động băng VND, đạt doanh số 2836342 triệu


đồng (Quy VND theo tỷ giá 15349VND/USD), chiếm tỷ trọng 71% tổng nguồn

vốn huy động
3.2. Về hoạt động sử dụng vốn tài trợ các hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động tín dụng XNK tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội ngày càng
diễn ra sôi nổi và đa dạng. Để đáp ứng nhu cầu vốn trong hoạt động XNK của
các doanh nghiệp, Ngân hàng đã tiến hành đa dạng hoá các hình thức tài trợ,
áp dụng nhiều hình thức tài trợ mới, đồng thời khơng ngừng cải tiến các hình
thức tài trợ mới.
Hiện nay, tại NHNT Hà Nội có áp dụng nhiều hình thức tín dụng tài trợ
XNK, bao gồm:
• Cho vay phục vụ nhập khẩu, gồm có:
- Cho vay Ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, hàng hố, khuyến
khích cho vay đối với những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được.
-Cho vay bằng Đồng Việt Nam để mua Ngoại tệ phục vụ nhập khẩu.
-Mở L/C thanh tốn hàng nhập khẩu, cho vay ký quỹ L/C.
-Bảo lãnh.
• Cho vay phục vụ xuất khẩu, gồm có:
- Cho vay vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu
theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết.
- Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu.
Hiện nay tại NHNT Hà Nội chưa áp dụng các hình thức như tín dụng
th mua, tín dụng chấp nhận hối phiếu, tín dụng bao thanh tốn.
Hoạt động tài trợ xuất nhập là hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của
NHNT Hà Nội. Thực hiện phương châm mở rộng hoạt động tín dụng đồng thời
bảo đảm an tồn vốn, lợi nhuận hợp lý, Chi nhánh đã nổ lực vươn lên đáp ứng
yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn Thủ đô.


Dựa trên sự phân loại tín dụng tài trợ XNK theo các tiêu chí khác nhau ta đi
sâu phân tích tình hình hoạt động tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội:


* Theo thời hạn khoản tài trợ

Bảng 4: Doanh số cho vay tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội
(Đơn vị: 1 triệu đồng, 1000USD)
Chỉ tiêu

Năm 2000

Năm 2001

879426

895037

1459253

380476

497327

739247

34408

26419

46909

47273


40221

43340

a-Đồng Việt Nam

3233

19040

26272

b-Ngoại tệ

3037

1407

1112

926699

935260

1502593

1/Tín dụng Ngắn hạn
a-Đồng Việt Nam
b-Ngoại tệ

2/Tín dụng trung dài hạn

Tổng số

Năm 2002

(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà Nội)

Cuối năm 2001, do sự biến động về tình hình chính trị thế giới, nguy cơ
khủng bố tăng cao, đặc biệt là sự kiện ngày 11/9, đã làm ảnh hưởng đến hoạt
động XNK của Việt Nam, do đó cũng làm ảnh hưởng đến doanh số cho vay của
ngân hàng, năm 2001 doanh số cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ chỉ có 26419
nghìn USD giảm 23, 2% so với năm 2000.
Đầu năm 2002, ban giám đốc đã đặc biệt chú trọng đến cơng tác tín
dung của Chi nhánh, đề ra nhiều biện pháp thiết thực, kết quả là doanh số cho
vay đã tăng mạnh, tổng dư nợ đạt 1502593 triệu đồng, tăng 60,7% so với năm
2001. Đặc biệt tín dụng ngắn hạn đạt 1459253 triệu đồng, tăng 63% so với


năm 2001, doanh số cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ tăng mạnh, đạt 46909
nghìn USD, tăng 77,6% so với năm 2001.
Tín dụng trung dài hạn cũng có sự tiến bộ đáng kể đạt 43340 triệu đồng,
tăng 3119 triệu so với năm 2001.
Về cơ cấu cho vay qua biểu 1 ta thấy là tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng doanh số cho vay phục xuất nhập khâu. Năm 2002 cho vay ngắn
hạn có sự tăng đột biến so với năm 2001 về doanh số cũng như cả 2 loại tiền
VND, Ngoại tệ.
Biểu 2: Cơ cấu tín dụng theo theo thời hạn từ 2000 - 2002

* Xét hoạt động tài trợ XNK theo mặt hàng xuất khẩu hay nhập khẩu

Một nhiệm vụ quan trọng của Chi nhánh NHNT Hà Nội là phục vụ các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hố XNK. Do đó, Ngân hàng rất chú
trọng đến hình thức cho vay theo mặt hàng. Các mặt hàng chủ yếu mà ngân
hàng tài trợ là:
- Về xuất khẩu: Chi nhánh chú trọng cho vay đối với các ngành có thế
mạnh của nền kinh tế như hàng dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ, giầy dép các
loại, nông sản...
-Về nhập khẩu: Chi nhánh quan tâm chú ý đến hoạt động cho vay nhập khẩu
máy móc, điện tử và linh kiện, thuốc chữa bệnh, hoá chất các loại...


Bảng 5: Cho vay tài trợ XNK theo mặt hàng tại NHNT Hà Nội
(Đơn vị: 1 triệu đồng, 1000USD)
Dư nợ VND

Mặt hàng

Dư nợ ngoại tệ

2000

2001

2002

2000

2001

2002


75502

65645

102194

28332

2471
0

37729

1. Máy móc

4552

5627

3066

5763

3016

9627

2. Sắt thép


20125

17501

25549

3250

2125

3521

3. Xe máy và linh kiện

7624

6984

5110

2115

6240

5615

4. Điện tử và linh kiện

23221


20153

34746

6410

8115

7428

5. Thuốc chữa bệnh

3294

2626

4088

584

518

921

6. Bơng, sợi, vải

6427

10129


20439

1121

1237

2325

7. Hố chất các loại

3721

1876

3066

610

2310

1015

8. Hàng khác

6538

749

6132


8479

1149

7277

258009

310578

520778

18515

21156

78117

2. Hàng lâm sản

125645

64520

130195

3. Hàng dệt may

84210


105273

155168

24620

42520

104156

5019

77109

53142

III/Cho vay khác

185340

187052

300519

Tổng số

518851

563275


923491

28332

2471
0

37729

I/Hàng nhập khẩu

II/Hàng xuất khẩu
1. Cà phê

4. Hàng thủ công mỹ
nghệ
5. Hàng khác

(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội)

NHNT Hà Nội khơng có sự phân biệt rõ ràng nào về nghành hàng được
XNK. Tuy nhiên, do nước ta đang trong giai đoạn cơng nghiệp hố - hiện đại
hố nên các nhu cầu về máy móc thiết bị, cơng nghệ tiên tiến, hàng hố vật tư
là nhu cầu thiết thực. Vì vậy, theo khuyến cáo của Chính phủ, NHNT Hà Nội hạn
chế tài trợ nhập các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc các mặt hàng mà các nhà


sản xuất trong nước có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Điều này góp
phần bảo vệ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
Chi nhánh cho vay VNĐ đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất

khẩu, mặt hàng dệt may và thủ cơng mỹ nghệ có tổng dư nợ cho vay nhiều
nhất. Điều này rất phù hợp với cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vì đây là hai
trong số 16 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước ta.
Dư nợ cho vay xuất khẩu trong năm 2002 tại NHNT Hà Nội đạt 520778
triệu đồng, tăng 66,7%. So với năm 2001, về nhập khẩu, do sự hồi phục của
nền kinh tế nên nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị điện tử linh kiện của nền
kinh tế tăng mạnh nên dư nợ cho vay bằng VND đạt 102194 triệu đồng, tăng
55,7% so với năm 2001, dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 37729 nghìn USD tăng
52,7% so với năm 2001.
Trong đó, máy móc các loại là mặt hàng có dư nợ cho vay nhiều nhất,
năm 2002 cho vay ngoại tệ cho vay ngoại tệ để nhập khẩu máy móc đạt 9627
nghìn USD, tăng hơn 2 lần so với năm 2001. Đặc biệt có sự chuyển biến rõ về
hình thức nhập khẩu, trong cơ cấu cho vay, cho vay phục vụ nhập khẩu máy
móc chiếm vị trí hàng đầu, trong khi đó cho vay phục vụ nhập khẩu hàng tiêu
dùng điện tử giảm, chỉ chiếm vị trí thứ 2.
* Về cơ cấu cho vay xuất khẩu so với nhập khẩu tại NHNT Hà Nội
Bảng 6: Cơ cấu cho vay Xuất khẩu-Nhập khẩu tại NHNT Hà Nội
(Đơn vị: Triệu đồng)
Chỉ tiêu

2000
Doanh số

2001

Tỷ trọng

2002

Doanh số Tỷ trọng


Doanh số

Tỷ trọng

1-Cho vay NK

486344

46,79

437629

52,48

681296

45,34

2-Cho vay XK

258009

31,2

310578

28,84

520778


34,66

3-Cho vay khác

185340

22

187052

19

300519

20

Tổng

92669
9

93526
150259
0
3
(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội)


Trong cơ cấu cho vay tại NHNT Hà Nội, doanh số cho vay nhập khẩu

chiếm tỷ trọng lớn nhất (Trung bình trên 45%). Tuy nhiên, trong 3 năm qua tỷ
lệ này có xu hướng giảm dần, từ 52,48% vào năm 2000 còn 45,34% vào năm
2002.
Trong năm 2001, doanh số cho vay xuất khẩu đã tăng 120,37% so với
năm 2000, còn cho vay nhập khẩu giảm 10,12%, thể hiện xu hướng nhập khẩu
mạnh của các đơn vị kinh doanh.
Trong năm 2002, doanh số cho vay XNK tăng mạnh, trung bình là 160%
so với năm 2001. Có được kết quả trên là do chính sách huy động vốn tích cực
của Chi nhánh nhằm thu hút được một lượng vốn đáng kể để phục vụ cho hoạt
động cho vay đối với nền kinh tế, chính sách khách hàng linh hoạt và đặc biệt
là việc thực thi một chính sách lãi suất hấp dẫn so với các Ngân hàng khác.
Biểu 3: Cơ cấu cho vay xuất khẩu so với nhập khẩu

3.3. Đánh giá hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu nhập khẩu tại
Ngân hàng ngoại thương Hà Nội
3. 3. 1 Những mặt tích cực đạt được
Trong bối cánh hoạt động tiền tệ của Ngân hàng nói chung và NHNT Hà
Nội nói riêng đã gặp nhiều khó khăn, rủi ro vẫn cịn tiềm ẩn, tất cả các cán bộ
làm cơng tác tín dụng phải chấn chỉnh hoạt động, đi vào kỷ cương tuân thủ
chặt chẽ theo quy định cho vay. Với phương châm cho vay an toàn, hiệu qủa và
hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro phát sinh nhằm từng bước nâng cao chất
lượng tín dụng, việc thẩm định, phê duyệt cho vay đã từng bước được cải tiến
đáp ứng nhu cầu của khách hàng, trách nhiệm của cán bộ tín dụng dần dần
được nâng cao. Do vậy hoạt động tín dụng của Chi nhánh NHNT Hà Nội đã đạt
được một số kết quả nhất định góp phần vào kết quả hoạt động kinh doanh
của Chi nhánh, thể hiện ở một số mặt sau:


- Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt về cả lãi suất cũng như giành giật
khách hàng của các Ngân hàng hoạt động trên địa bàn Thủ đô, Chi nhánh luôn

quan tâm đặc biệt tới công tác khách hàng, bên cạnh việc duy trì ưu đãi với
khách hàng truyền thống và khách hàng vay có giá trị lớn, Chi nhánh đã quan
tâm phát triển sản phẩm mới như ngân hàng trực tuyến, ATM…mở rộng thêm
khách hàng mới với mục đích an tồn, hiệu quả. Do vậy, tín dụng tăng trưởng
mạnh. Đến ngày 31/12/2002 doanh số cho vay phục vụ XNK đạt 1502593
triệu đồng, chiếm 44.57% tổng dư nợ cho vay và tăng 61% so với năm 2001.
- Các phương thức tài trợ truyền thống như: Cho vay ngắn, trung- dài
hạn có bảo đảm, thanh tốn L/C, chiết khấu thương phiếu... ngày càng được
Chi nhánh hoàn thiện và phát triển. Bên cạnh đó, Chi nhánh khơng ngừng phát
triển thêm các phương thức tài trợ mới để đảm bảo đáp ứng tốt nhất nhu cầu
vốn cho khách hàng như: Cho vay ứng trước từ hàng xuất khẩu, mở tín dụng
trả chậm, tín dụng thuê mua...
- Nguồn thông tin thu thập được trong quá trình cho vay ngày càng
phong phú đa dạng. Nếu như trước đây các thông tin về khách hàng dùng để
phân tích thường được cung cấp bởi chính khách hàng, thì hiện nay ngồi
nguồn thơng tin từ khách hàng vay vốn, Chi nhánh cịn tiến hành thu thập
thơng tin từ các tài liệu phân tích thị trường, tài liệu lưu trữ liên ngân hàng,
các văn bản luật, thông tin từ Trung tâm phịng ngừa rủi ro, thơng tin từ hệ
thống thông tin của Ngân hàng Nhà nước, thông tin từ các cơ quan kiểm
tốn... Ngồi ra, trong điều kiện hiện nay, các cán của Chi nhánh còn được
trang bị và hỗ trợ khá tốt với những phương tiện cần thiết như máy tính nối
mạng, điện thoại, máy fax... Điều này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các
cán bộ Chi nhánh nhanh chóng có được những thơng tin cần thiết, thu giảm
thời gian thẩm định, mặt khác giúp cho các cán bộ dễ dàng hơn trong qúa
trình thu nợ, quản lý tài khoản tiền gửi của khách hàng
- Chi nhánh đã bám sát yêu cầu thực tế của các doanh nghiệp để đầu tư
kịp thời vào các ngnàh kinh tế then chốt cuả Thủ đô. Trong năm 2002 đã cho


vay được 24 dự án, các dự án đều phát huy hết hiệu quả trả nợ gốc và lãi đúng

hạn. Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn ngoại tệ tăng 7.75% so với năm 2001
- Với phương châm luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt với
trang thiết bị hiện đại, giờ đây Chi nhánh đã có khả năng đáp ứng cho khách
hàng các loại sản phẩm với chất lượng cao nhất, các dịch vụ của Chi nhánh
ngày càng phong phú. Đặc biệt Chi nhánh đã áp dụng dịch vụ trọn gói (từ mở
tài khoản, cho vay, mua bán ngoại tệ đến thanh toán XNK...) cho khách hàng
lớn của mình, điều này đã được đơng đảo khách hàng trong và ngoài nước
hoan nghênh.
- Các biện pháp đảm bảo tiền vay được cán bộ chi nhánh thẩm định
tương đối cẩn thận, hạn chế được tình trạng một tài sản thế chấp được khách
hàng thế chấp để vay vốn ở hai nơi. Các phương thức chiết khấu thương phiếu
được sử dụng, tính tốn một cách linh hoạt đảm bảo thận lợi cho khách hàng
trong việc vay vốn.
- Chi nhánh rất chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại đội
ngũ cán bộ. Hiên nay Chi nhánh có một đội ngũ cán bộ trẻ, năng động với trình
độ nghiệp vụ vững vàng, đây là cơ sở để phát triển và hồn thiện các phương
thức tín dụng tài trợ XNK hiện Chi nhánh đang áp dụng, có khả năng đáp ứng
được các yêu cầu đối với các phương thức tài trợ phức tạp, đồng thời phát
triển thêm các hình thức mới nhằm đa dạng hố các hình thức tài trợ tại chi
nhánh.
- Hệ thống trang thiết bị thông tin ngày càng hiện đại với số lượng ngày
càng nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho Cán bộ trong việc cập nhật thơng tin,
phân tích thơng tin, soạn thảo các văn bản cũng như tiếp cận với các phương
thức mới, các điều luật mới trong hoạt động thanh toán quốc tế...
3.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
3.3.2.1. Những tồn tại


Bên cạnh những thành cơng đã đạt được thì cơng tác tín dụng tài trợ
XNK của NHNT Hà Nội vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục:

* Tồn tại lớn nhất, khó khăn và lâu dài nhất cho hoạt động tín dụng của
Chi nhánh đó là nợ tồn đọng (bao gồm nợ khoanh, nợ chờ xử lý) rất lớn mà
chưa có biện pháp giải quyết hữu hiệu. Phần lớn các khoản nợ khoanh đều bị
giảm, xố, khơng có nguồn hỗ trợ bù đắp, ngoài việc bán tài sản thế chấp. Q
trình hồn thiện thủ tục đưa tài sản thế chấp ra bán đấu giá tại trung tâm bán
đấu giá thuộc sở tư pháp Hà Nội vẫn còn nhiều vướng mắc như hồ sơ thế chấp
không đầy đủ hoặc giả mạo; con nợ chây ỳ cản trở Ngân hàng bán tài sản, thời
hạn khởi kiện đã hết, các tranh chấp dân sự phát sinh cản trở việc phát mại tài
sản để thu nợ; thủ tục bán đấu giá còn gây phiền hà cho khách hàng như mức
lệ phí đấu giá, tiền đặt cọc, tình trạng bn ép giá kiếm lời làm ảnh hưởng đến
tâm lý khách hàng không muốn đưa tài sản thế chấp ra bán tại các trung tâm.
Bên cạnh đó, phần lớn các DNNN chưa được cấp giấy chứng từ nhận chủ
truyền tài sản thuộc quản lý của doanh nghiệp. Mặt khác, việc đảm bảo bằng
tài sản của các DNNN chỉ mang tính hình thức, nên khi doanh nghiệp khơng có
khả năng hồn trả được nợ thì việc xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng sẽ rất
khó khăn, khơng để giải quyết nhanh chóng và thời gian kéo dài, dẫn đến ứ
đọng vốn trong kinh doanh của Ngân hàng.

Bảng 7: Tình hình nợ quá hạn (Quy VND) trong hoạt động tài trợ XNK tại NHNT
Hà Nội
Chỉ tiêu

2000

2001

(Đơn vị: Triệu đồng)
2002



Số tiền

Tỷ
trọng(%
)

Số tiền

Tỷ
trọng(%)

485. 652

Số tiền

Tỷ
trọng(%
)

Tổng dư nợ

357. 652

502. 736

Nợ quá hạn

16. 702

4, 67


15. 061

3, 1

17. 356

3, 45

Nợ khoanh

28. 752

-

29. 201

-

23. 562

-

(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội)

Nhìn vào bảng (Bảng 5) chúng ta thấy rằng: tỷ lệ nợ quá hạn tại NHNT
Hà Nội là thấp, có xu hướng giảm trong 2 năm gần đây so với mức 4,67% vào
năm 2000. Hầu hết các khoản nợ quá hạn trên đây đều là nợ ngắn hạn và tập
trung vào một số doanh nghiệp nhà nước, và các khoản nợ này là từ những
năm trước còn tồn đọng lại, khiến cho tình hình tài chính của Chi nhánh khơng

được lành mạnh.
Qua các con số trên cho ta thấy rủi ro trong hoạt động của Chi nhánh là
có thể xảy ra, do đó địi hỏi Chi nhánh cần phải có biện pháp phù hợp kịp thời
nhằm phòng tránh các rủi ro có thể xảy ra, đồng thời phải giải quyết triệt để số
lượng nợ quá hạn còn tồn đọng, tránh dẩn đến nợ khó địi, gây tổn thất cho Chi
nhánh.
Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn 3,45% vào năm 2002 là không lớn, song con số
hơn 17 tỷ đồng nợ q hạn thì khơng nhỏ, và nếu để chúng biến thành nợ khó
địi dẩn đến tổn thất nguồn vốn thì sẽ gây ra thiệt hại lớn cho Chi nhánh.
* Doanh số cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn nhỏ, có thể
thấy trong doanh số cho vay cả ngắn hạn, trung và dài hạn thì doanh nghiệp
quốc doanh chiếm tỷ lệ lớn (trung bình trên 90% tổng doanh số cho vay). Đành
rằng rủi ro cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất cao, việc
định hướng chiến lược cho vay XNK đối với DNNN là khá hợp lý vì nó đảm bảo
mục tiêu an tồn và lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, trong thời gian gần
đây, số lượng DNNN có nợ quá hạn tại Ngân hàng cũng khá lớn. Bên cạnh đó,


số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh rất đông đảo và
không phải doanh nghiệp nào cũng có tình hình tài chính khơng lành mạnh.
Một số doanh nghiệp làm ăn rất có hiệu quả như các doanh nghiệp liên doanh,
100% vốn nước ngồi là nhóm khách hàng mà Ngân hàng chưa có đủ tin
tưởng để lơi cuốn và chiếm lĩnh được. Chính vì vậy, tiềm năng của loại khách
hàng này khá lớn, Ngân hàng cần phải tìm ra nhiều giải pháp để khai thác triệt
để các doanh nghiệp kinh tế ngồi quốc doanh.
* Các hình thức cho vay tài trợ XNK còn quá đơn điệu chủ yếu là tổ chức cổ
điển, chưa áp dụng hình thức cho vay mới như bao thanh tốn, cho th tài chính...
làm giảm tính hấp dẫn đối với khách hàng. Hơn nữa, trong khi cho vay lại quá tập
trung vào khâu lưu thơng vì vậy rủi ro rất lớn.
* Chi nhánh vẫn chưa có cơ sở bảo quản hàng hố, chưa nắm được các

lô hàng thế chấp một cách chắc chắn. Do vậy, khi khách hàng cố tình khơng
hồn trả nợ thì Chi nhánh đành chịu.
* Công tác đào tạo cán bộ còn chưa kịp với yêu cầu và nhiệm vụ mới, các
cán bộ xử lý nghiệp vụ còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm như cho vay vượt quá
quyền hạn giải quyết, cho vay khơng thẩm định kỹ (khơng có tài sản thế chấp
hoặc nếu có lại khơng tự quản lý mà để khách hàng quản lý, thậm chí mở L/C
khơng đưa hết các điều kiện hợp đồng... ), nắm bắt thông tin chưa nhanh nhạy
theo kịp biến động của thị trường dẫn đến tình trạng Chi nhánh ln phải đối
phó với sự lừa đảo khi thực hiện hợp đồng tín dụng tài trợ XNK. Đây là một
trng những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, những vụ việc đổ vỡ gây
ảnh hưởng đến uy tín của Chi nhánh.
* Bên cạnh đó, phương thức quản lý các món vay XNK ở Ngân hàng
chưa hợp lý. Quyết định và quản lý các món vay ở NHNT Hà Nội là phân công
đều cho các cán bộ tín dụng. Điều này có lợi là mở rộng tầm hiểu biết cho các
cán bộ tín dụng sang lĩnh vực XNK. Nhưng như thế sẽ gây cản trở lớn cho các
món vay được thực hiện có hiệu quả vì để thực hiện một khoản vay tín dụng


XNK địi hỏi cán bộ tín dụng phải có hiểu biết sâu về thị trường, luật pháp quốc
tế của các nước về hoạt động XNK. Ngoài ra, Chi nhánh vẫn chưa hạch tốn
độc lập kết quả tín dụng XNK với hoạt động tín dụng khác mặc dù hoạt động
tín dụng tài trợ XNK là nhiệm vụ chính của Ngân hàng. Điều này cũng ảnh
hưởng phần nào đến việc đánh giá kết quả kinh doanh và vạch ra phương
hướng của hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại Ngân hàng trong thời gian tới.
3.3.2.2. Nguyên nhân
* Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất: Năng lực cho vay của Ngân hàng
Do NHNT Hà Nội là Chi nhánh trực thuộc NHNT Việt Nam nên phần lớn
những dự án cho vay tài trợ XNK của Ngân hàng đều phải thông qua NHNT
Việt Nam xem xét và quyết định. Đồng thời theo quy định, NHNT Hà Nội chỉ

được cho vay đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Thủ đô. Nhưng phần lớn
những doanh nghiệp này lại là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cũng rất hạn chế
quy mô cho vay của Ngân hàng.
- Thứ hai: Trình độ bất cập của cán bộ Ngân hàng
Nhận thức về bản chất tín dụng khơng đầy đủ dẫn đến đơn giản, sơ sài
trong chấp hành quy định. Cán bộ tín dụng thiếu trình độ hiểu biết về pháp
luật, thể lệ tập bán thương mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ
khơng đáp ứng được nhu cầu nghiệp vụ. Một cán bộ quản lý tín dụng XNK nếu
tính theo dư nợ thì bằng hàng chục cán bộ quản lý cho vay hộ sản xuất (năm
2000, dư nợ cho vay XNK tại Chi nhánh chiếm 71% tổng dư nợ), điều đó thể
hiện hiệu quả đầu tư XNK nhưng trái lại cũng thể hiện khả năng rủi ro lớn nếu
như cán bộ tín dụng đó khơng được trang bị đầy đủ kiến thức tổng hợp và kinh
nghiệm đạo đức kinh doanh. Ngân hàng chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi về
lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nên lúng túng trong việc thẩm định
các dự án lớn, nhất là các dự án năng suất có vốn đầu tư và nhập khẩu thiết bị
nước ngoài. Thực trạng đội ngũ cán bộ tín dụng NHNT Hà Nội hiện nay là vấn


đề đáng được lưu tâm, số cán bộ có thâm niên trên 10 năm thì chưa được đào
tạo lại để có đủ kiến thức kinh doanh theo cơ chế thị trường, số cán bộ mới vào
thì cịn thiếu kinh nghiệm và tri thức thực tế trong thị trường chằng chịt
những mối quan hệ phức tạp.
- Thứ ba: Chấp hành thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ
Những trường hợp rủi ro trong tín dụng có ngun nhân quan trọng là
việc chấp hành khơng nghiêm chỉnh thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ của
cán bộ Ngân hàng. Thể hiện trong việc thẩm định và lập hồ sơ vay vốn. Có
trường hợp cán bộ lập hồ sơ giải khai tăng tài sản thế chấp để rút vốn Ngân
hàng và vay ké, là kết quả của hai nguyên nhân sâu xa sau đây:
+ Việc xác định giá trị tài sản thế chấp do cán bộ Ngân hàng t hực
hiện mang tính chủ quan.

+ Việc lập hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách
độc lập với chức năng tín dụng.
Quản lý nợ vay cịn thể hiện và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách
độc lập với chức năng tín dụng. Quản ý nợ vay còn thể hiện thiếu trách nhiệm,
gia h ạn nợ, chuyển nợ q hạn khơng đúng quy trình nghiệp vụ, đảo nợ nội tệ
với ngoại tệ (vay đồng tiền này để trả nợ đồng tiền khác), dẫn đến tình trạng
nợ xấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn Ngân hàng ngày càng lớn.
- Thứ tư: Cơ sở vật chất và giờ làm việc
Chi nhánh NHNT Hà Nội xây dựng trụ sở năm 1992. Sang năm 2001, trụ
sở đã trở nên chật chội. Điều này trước tiên sẽ ảnh hưởng đến tâm lý khách
hàng. Khách hàngđến với Ngân hàng sẽ tin cậy hơn nếu Ngân hàng có cơ sở
vật chất tốt. Song ở đây phịng tín dụng khơng đủ diện tích để kê bàn tiếp
khách. Hơn nữa, cơ sở vật chất như vậy sẽ ảnh hưởng đến điều kiện làm việc
của Ngân hàng.


Bên cạnh đó, giờ làm việc của Chi nhánh sẽ khơng cạnh tranh được với
Ngân hàng nước ngồi. Vì vậy Ngân hàng đóng cửa vào lúc 16 giờ trong khi
giờ đóng cửa của hàng nước ngồi là 18 giờ.
* Ngun nhân khách quan
Hệ thống NHNT ra đời tư cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, cơ
chế thị trường đang hình thành với nhiều thử thách và phức tạp. Hậu quả của
khủng hoảng kinh tế xã hội, sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng năm 1989 đã để
lại trong xã hội một tư tưởng nặng nề về tâm lý. Lưu thơng hàng hố tiền tệ
chậm, một loạt doanh nghiệp phá sản. Các chính sách Nhà nước thiếu đồng bộ,
môi trường pháp lý không đảm bảo an toàn kinh doanh. Từ sau đổi mới, bên
cạnh các nhân tố tích cực, hàng loạt các yếu tố tiêu cực xuất hiện cùng với sự
bung ra của sản xuất xã hội, nhiều cơng ty, xí nghiệp hữu danh vơ thực ra đời
tìm mọi thủ đoạn chiếm đoạt tài sản Ngân hàng.
- Thứ nhất: Môi trường pháp lý.

+ Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ nên đã gây ra
những khó khăn vướng mắc cho Chi nhánh trong quá trình hoạt động kinh
doanh. Các NHNT hiện nay hoạt động dưới sự điều chỉnh của luật Ngân hàng
và các tổ chức tín dụng, hệ thống luật và dưới luật của chính phủ. Một số quy
định trong luật cịn xa rời với thực tiễn như:
+ Thể lệ tín dụng của các Ngân hàng cịn nhiều vướng mắc. Thứ
nhất, khơng cho phép doanh nghiệp có nợ quá hạn vay. Đối với các doanh
nghiệp khi gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì vốn là vấn đề giải quyết
mọi ách tắc lại không được đáp ứng. Ngân hàng cho vay để cứu doanh nghiệp
nếu thành cơng thì có thành tích, cịn nếu rủi ro thì bị truy tội cố ý làm trái
hoặc ít nhất cũng là thiếu tinh thần trách nhiệm. Thứ hai, theo quy định, nếu
NHNT nào thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C mà phát sinh nợ quá hạn thì
sẽ khơng được thực hiện nghiệp vụ này cho đến khi giải quyết song số nợ quá


hạn đó. Chính vì vậy, trong năm 1991, NHNT Hà Nội có nợ quá hạn phát sinh
từ nghiệp vụ này nên đến nay Ngân hàng vẫn chưa được thực hiện các nghiệp
vụ bảo lãnh mở L/C trả chậm do chưa thu hồi được nợ.
+ Quy chế chính sách của Nhà nước trong việc xử lý tài sản thế chấp
còn nhiều bất cập như Ngân hàng không thể tự đứng ra bán tài sản thế chấp để
thu nợ mà phải được sự đồng ý và có giấy uỷ quyền của tài sản. Trên thực tế, khi
gặp con nợ chây ỳ không hợp tác thì Ngân hàng chỉ cịn cách khởi kiện tại tồ
án. Việc xử lý sẽ kéo dài thậm chí đi đến chỗ bế tắc nếu con nợ liên quan đến vụ
án hình sự hoặc bỏ trốn. Theo quy định thì Ngân hàng chỉ được giải chấp tài sản
nếu người vay trả hết nợ hoặc có tài sản thế chấp bổ sung cho khoản nợ còn
thiếu. Tuy nhiên, đại đa số khách hàng yêu cầu Ngân hàng giải chấp để họ tự
bán tài sản trả nự Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản trả nợ Ngân hàng,
trong khi trị giá bán tài sản thế chấp thấp hơn nhiều so với nợ vay và nguồn vay
khơng có tài sản nào khác để thế chấp cho Ngân hàng, hoặc họ đã ngừng sản
xuất kinh doanh chuẩn bị phá sản.

+ Quy chế lập quỹ dự phịng rủi ro khơng phù hợp. Quỹ dự phịng
rủi ro được hình thành từ lợi nhuận rịng, tổ chức tín dụng trong khi lợi nhuận
của Ngân hàng còn thấp chưa kể một số Ngân hàng bị thua lỗ. Tỷ lệ này là 10%
thì q tháp khơng hể đủ bù đắp rủi ro tín dụng và sự mất mát của các tài sản
có của Ngân hàng. Mặt khác, theo quy định, quỹ rủi ro chỉ được bù đắp cho các
nguyên nhân khách quan, trong khicác kết hợp khoản rủi ro do nguyên nhân
khách quan thì phần lớn không thu hồi đủ vốn sau khi truy cứu trách nhiệm bồi
thường dẫn đến mất vốn của Ngân hàng mà thực chất là tiền gửi khách hàng
và khả năng thanh tốn của Ngân hàng.
+ Hoạt động tín dụng tài trợ XNK liên quan đến nhiều ban ngành
trong nước như Bộ Thương mại, Tổng cục hải quan, Bộ công nghiệp Việt
Nam... Vì vậy, nó chịu sự điều chỉnh của nhiều luật mà các luật ở nước ta còn


có sự đan chéo, gây nhiều khó khăn cho các quyết định của trọng tài quốc tế
trong nước và vụ kiện.
+ Chính sách ngoại thương của Nhà nước chưa thực sự nhất quán.
Nhiều hình thức cấp bách ban hành chưa lâu đã thay đổi, lúc thì khuyến khích
nhập khẩu mặt hàng này, lúc thì cấp hạn ngạch thuế cao để hạn chế nó. Điều
này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó dẫn đến
những rủi ro cho hoạt động Ngân hàng như ứ đọng vốn, không thu hồi được
vốn về.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang có xu hướng chuyển dịch các nghiệp
vụ tài trợ XNK sang các Ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng liên doanh,
Ngân hàng cổ phần thương mại. Do vậy, Chi nhánh phải chịu sự cạnh tranh
khốc liệt. Nhiều dự án có hiệu quả trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê, hải sản... đã
rơi vào Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. Điều dó đã ảnh hưởng rất nhiều đến
hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội.
- Thứ hai: Chính sách lãi suất và tỷ giá
Lãi suất cho vay vẫn là vấn đề bức xúc khiến hệ thống Ngân hàng ta phải

tập trung giải quyết. Mặc dù đã tổ chức được nhiều cuộc thảo luận xoay quanh
vấn đề này song cho đến nay lãi suất cho vay của hệ thóng Ngân hàng nước ta
vẫn cịn cao so với chi phí lạm phát và lãi suất trên thị trường khu vực. Trong
điều kiện tỷ giá ổn định nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận nợ quá hạn ngoại tệ
để sử dụng ngoại tệ ngồi sự kiểm sốt của Ngân hàng. Doanh nghiệp lợi dụng
điều này để kinh doanh trên lưng Ngân hàng với hình thức tinh vi như cho
doanh nghiệp khác vay thậm chí là cho chính Ngân hàng vay lại một nội tệ với
lãi suất cao để hưởng chênh lệch. Tất cả điều này đều tạo ra rủi ro tiền mặt cho
nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng, kết quả là ảnh hưởng đến hoạt động tín
dụng.
- Thứ ba: Mơi trường kinh doanh


×