Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Thực trạng hoạt động TD đối với các DNVVN tại NHNo PTNT huyện Thanh Trì Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191 KB, 41 trang )

Thực trạng hoạt động TD đối với các DNVVN tại NHNo PTNT huyện Thanh Trì Hà Nội.
2.1 Khái quát quá trình hoạt động kinh doanh tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì,
Hà Nội.
2.1.1 Thực trạng các DNVVN hiện nay ở Việt Nam.
Ở nước ta mặc dù với xuất phát điểm là một nền kinh tế yếu kém, chủ
yếu là sản xuất nhỏ nhưng sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế nước ta
đã và đang phát triển nhanh, ổn định, giảm lạm phát, tăng xuất khẩu và thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới ngày càng mở rộng và phát triển. Cũng trong Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IV, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vai trò của nền kinh tế thị
trường đa thành phần, đa sở hữu nên đã có những chủ trương, chính sách
nhằm tạo điều kiện thuận lợi để phát triển những tế bào của nền kinh tế- đó là
các loại hình doanh nghiệp trong đó có các DNVVN.
Bức tranh thực tế trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay cho thấy
DNVVN chiếm một vị trí rất quan trọng. Toàn bộ khu vực DNVVN tạo ra
khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, khoảng 24%- 25%
GDP trong toàn quốc. Nếu căn cứ vào tốc độ tăng trưởng GDP của các DNVVN
như hiện nay có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng, tiềm năng phát triển để đạt
được những mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra trong giai đoạn tới phụ thuộc rất
lớn vào sự phát triển của các DNVVN chứ không phải chỉ có phụ thuộc vào các
công trình dự án lớn.
Theo số liệu thống kê, năm 1991 cả nước có 132 doanh nghiệp, công ty
TNHH đăng ký kinh doanh, hầu hết là các DNVVN. Đến thời điểm 1/7/1995, cả
nước có 23.708 doanh nghiệp thì trong đó 87,8% thuộc vào loại hình DNVVN
tức là khoảng 20.815 doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng là
70,3%, vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng chiếm 17,5%. Nếu dựa vào tiêu chí vốn thì
DNVVN chiếm 99,6% trong tổng số doanh nghiệp tư nhân, chiếm 97,4% trong
tổng số các HTX, chiếm 94,7% trong tổng số các công ty TNHH, chiếm 42,4%
trong tổng số các công ty cổ phần và chiếm 65,9% trong tổng số các doanh
nghiệp nhà nước.
Sau năm 1995, con số điều tra chính xác về DNVVN chưa được thực hiện


nhưng nếu coi DNVVN chiếm đại đa số trong các doanh nghiệp tư nhân, thì
giai đoạn sau năm 2000, năm đầu tiên sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực
thi hành thì hoạt động sản xuất kinh doanh của hệ thống các doanh nghiệp đã
có những biến chuyển đáng kể, chính sự thông thoáng của những điều khoản
trong Luật Doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho các nguồn lực trong nền kinh tế
được phát huy tối đa, những người có vốn mạnh dạn hơn trong việc thành lập
các công ty, hình thành một số lượng lớn các DNVVN. Tính đến cuối năm 2001,
nước ta có tổng cộng 77.784 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, tuyệt đại bộ
phận là DNVVN; riêng trong hai năm 2000- 2001 thực hiện luật Doanh nghiệp
mới nên tăng vượt bậc là 35.481 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký kinh doanh
là 41.882 tỷ đồng. Năm 2002 tiếp tục có khoảng 22.215 doanh nghiệp mới
thành lập. Như vậy trong 3 năm đầu của kỷ nguyên mới đã có khoảng 55.000
doanh nghiệp được thành lập mới mà chủ yếu là các DNVVN, nhiều hơn số
doanh nghiệp thành lập trong suốt 10 năm trước. Tổng số DNVVN ở nước ta
hiện nay có khoảng 100.000 doanh nghiệp, chưa kể nhiều cơ sở kinh doanh có
những đặc trưng của DNVVN bao gồm khoảng 60.000 trang trại nông nghiệp,
khoảng 6.000 HTX kiểu mới ở nông thôn.
Thực tiễn ngắn ngủi của quá trình phát triển DNVVN ở Việt Nam cũng
như ở các nước khác cho thấy vai trò quan trọng của DNVVN trong một số lĩnh
vực như: tạo công ăn việc làm mới, phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ
đối với các ngành công nghiệp mũi nhọn như chế tạo máy, điện tử và một số
ngành khác, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nhờ tăng xuất khẩu hàng
hoá thành phẩm và thay thế hàng nhập khẩu bằng các hàng hoá sản xuất
trong nước. Mặt khác, việc xoá đói giảm nghèo; công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp- nông thôn, giảm sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị cũng
có sự đóng góp không nhỏ của các DNVVN.
Trong quá trình phát triển kinh tế, bên cạnh việc nâng cao chất lượng
hoạt động của các DNVVN ở thành thị thì các chủ doanh nghiệp đã quan tâm
mở rộng quy mô loại hình doanh nghiệp này ở các vùng nông thôn. Dù kinh tế
Việt Nam đang phát triển với tốc độ cao nhưng nước ta chủ yếu vẫn là một

nước nông nghiệp sản xuất hàng hoá nhỏ, đang phấn đấu xây dựng một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại hoá, trong đó có nền nông nghiệp hàng hoá
lớn, phát triển bền vững, có sức cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập kinh
tế. Quán triệt được điều đó, hiện nay DNVVN khu vực nông thôn đang ngày
càng phát triển góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế không những
trong nông nghiệp mà trong toàn bộ nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá.
Một số địa phương, DNVVN của các làng nghề ở nhiều xã đã tạo ra giá trị sản
lượng tiểu thủ công nghiệp từ 150- 250 tỷ đồng/ năm, chiếm tới trên 90% GDP
của các xã đó. Đáng chú ý là đã có nhiều làng nghề hàng năm, kim ngạch xuất
khẩu khá lớn như Bát Tràng (Hà Nội) xuất khẩu 10 triệu USD, La Phù (Hà Tây)
xuất khẩu 15 triệu USD…
Theo xu thế tất yếu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bộ
phận lao động dư thừa ở nông thôn dịch chuyển sang khu vực phi nông nghiệp,
nhưng nếu lao động trong nông nghiệp giảm dần mà không tìm kiếm được
việc làm thì quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại tạo ra đội ngũ lao động
thất nghiệp trong nông thôn, nông dân mất đât, mất việc làm, lâm vào cảnh
khó khăn. Hướng chuyển dịch khác là số lao động tách khỏi nông nghiệp tập
trung vào đô thị lớn để tìm kiếm việc làm sẽ dẫn đến việc tạo ra dân số ở đô thị
quá lớn, làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế, xã hội môi trường nhưng DNVVN
được thành lập trong nông thôn đã giải quyết được vấn đề đó.
Hàng năm nước ta có khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động vì vậy vấn
đề việc làm được coi là một vấn đề của xã hội. Hiện nay, hàng vạn doanh
nghiệp tư nhân và các cơ sở tiểu thủ công nghiệp đã thu hơn 10 triệu lao động
có việc làm, chiếm khoảng 27% lực lượng lao động đang làm trong các ngành
kinh tế, đặc biệt góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm cho khu vực
nông thôn, nâng cao thu nhập cho nông dân nông thôn với mức lương khoảng
500-700 ngàn đồng/tháng.
Đánh giá đúng đắn tiềm năng và vai trò của các DNVVN trong sự nghiệp
phát triển kinh tế nước nhà, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm
khuyến khích hoạt động và kích thích tăng trưởng các DNVVN, cụ thể như sự

ra đời của Hiệp hội các DNVVN nhằm tư vấn cho các doanh nghiệp hướng đầu
tư có hiệu quả: về sản phẩm, về số lượng, giá cả, sử dụng công nghệ…; thành
lập Quỹ bảo lãnh TD trợ giúp DNVVN khi không đủ tài sản thế chấp; nghị định
của Chính phủ số 90/2001/NĐ- CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển
DNVVN; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 12/2003/QĐ-TTg ngày
17/1/2003 về Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN…Chính sự giúp đỡ này
đã tạo cho các DNVVN tự tin hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình.
Bên cạnh sự hỗ trợ trong nước, các DNVVN ở nước ta hiện nay cũng
được sự quan tâm đặc biệt của các nước như EU, Đức, Nhật Bản, Đài Loan và
tổ chức tài chính quốc tế. Gần đây nhất là trong tháng 9/2002, dự án tài chính
cho các DNVVN của ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) hợp tác với
ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức được thực hiện. Dự án có tổng số
vốn là 35 triệu USD được giao cho 4 NHTM cho vay là NHĐT & PTVN, NHCT
Việt Nam, NHTM cổ phần Á Châu, NHTM cổ phần Đông Á. Đối tượng được vay
vốn là các DNVVN thuộc 4 địa phương Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành
phố Hồ Chí Minh với mức lãi suất 0,68%/tháng (thấp hơn lãi suất cho vay
thông thường 0,85%- 0,9%/tháng).
Tuy nhiên, hiện nay các DNVVN ở nước ta không phải không có những
khó khăn cần tháo gỡ và mấu chốt vẫn là khó khăn về vốn. Vốn tự có của các
DNVVN nhìn chung là hạn chế, nếu xét ở khu vực nông thôn thì bình quân vốn
sản xuất của một doanh nghiệp công nghiệp nông thôn khoảng 367 triệu đồng,
trong đó của doanh nghiệp sản xuất ngành nghề nông thôn chỉ có 25- 30 triệu
đồng. Vốn quá nhỏ ảnh hưởng lớn đến khả năng phát triển sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, thêm vào đó việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp
này cũng gặp nhiều khó khăn do tâm lý, do thiếu tài sản thế chấp…Khó khăn về
vốn kéo theo khó khăn về công nghệ, thiết bị. Hiện nay chỉ khoảng 20% doanh
nghiệp và 19,5% công ty tư nhân sử dụng công nghệ hiện đại; 38,5% doanh
nghiệp và 21,9% công ty tư nhân sử dụng công nghệ truyền thống, số còn lại
kết hợp cả hai trong sản xuất. Vốn cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh

tranh và chiếm lĩnh thị phần, chất lượng hàng hoá, chiến lược tiếp thị, điều
kiện cạnh tranh không bình đẳng…khiến cho việc tiếp cận thị trường trong
nước và thế giới của DNVVN gặp nhiều khó khăn.
Không chỉ có vậy, một điều cần quan tâm là các DNVVN rất thiếu thông
tin về thị trường, do đó họ tham gia vào các hoạt động thị trường không mang
tính định hướng chiến lược, hơn nữa các DNVVN phần lớn chưa chủ động tự
giác tham gia vào các tổ chức, hiệp hội để từ đó nắm bắt thêm nguồn thông tin
cần thiết cho một chiến lược kinh doanh lâu dài. Một số đại diện của các doanh
nghiệp phải thừa nhận là họ hầu như có rất ít thông tin về thị trường liên quan
đến doanh nghiệp họ. Nếu có, nguồn thông tin đó cũng khó đảm bảo độ chính
xác và kịp thời, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định kinh doanh, đặc
biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Nhân tố con người là rất quan trọng và không thể thiếu được trong kinh
doanh. Phần nhiều các chủ doanh nghiệp tự làm, tự học, ít được đào tạo bài
bản về quản lý và nghiệp vụ, trình độ tay nghề của người lao động cũng yếu
kém. Số liệu điều tra cho thấy, chỉ có 5,13% lao động trong khu vực ngoài quốc
doanh có trình độ đại học, tập trung vào các công ty TNHH và công ty cổ phần,
khoảng 42,5% chủ DNVVN mới thành lập đã từng là cán bộ, nhân viên nhà
nước, 48,4% chủ DNVVN không có bằng cấp chuyên môn, chỉ có 31,2% có trình
độ từ cao đẳng trở nên. Trình độ văn hoá người lao động chủ yếu là văn hoá
cấp II và cấp III, số người được đào tạo tay nghề chính quy chỉ 10%, một con số
quá thấp trong khi tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” vẫn đang lan tràn đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Về phía Nhà nước, vai trò của DNVVN hiện nay đã được quan tâm nhưng
còn nhiều hạn chế. Điều này xuất phát từ chỗ còn thiếu một sân chơi bình đẳng
giữa các DNVVN và các doanh nghiệp quốc doanh, khung pháp lý cho các
DNVVN chưa rõ ràng, sự ủng hộ của các cơ quan chức năng còn hạn chế…
Chính những nguyên nhân này kiến cho các DNVVN chưa phát huy hết hiệu
quả hoạt động của nó. Trong xu thế hội nhập thế giới, đặc biệt sự gia nhập vào
AFTA năm 2006 sẽ tạo ra những cơ hội và phải đối mặt với không ít những

thách thức buộc các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng ở Việt
Nam ngay từ bây giờ cần khác phục những hạn chế để có thể vững chắc trong
một thương trường mới.
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNoTT.
2.1.2.1 Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình kinh doanh.
Thời cơ và thuận lợi
NHNo & PTNT huyện Thanh Trì (sau đây gọi tắt là NHNoTT) nằm ở
huyện Thanh Trì, một huyện ngoại thành ở cửa ngõ phía Nam của thành phố
Hà Nội, có tổng diện tích đất tự nhiên là 9.828,5 ha trong đó đất nông nghiệp
là 5.190,7 ha chiếm 52,81% diện tích toàn huyện. Hiện nay toàn huyện Thanh
Trì có 24 xã và 1 thị trấn với tổng số dân là 226.800 người, huyện đã có hệ
thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển, có trục đường sắt bắc nam và hệ
thống đường bộ xuyên Việt đi qua, tạo ra các đầu mối giao thông quan trọng là
điều kiện thuận lợi thúc đẩy nền kinh tế của huyện phát triển.
Trong những năm qua, với tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh của
đất nước nói chung và của thủ đô Hà Nội nói riêng, kinh tế của huyện Thanh
Trì ngày càng có những thay đổi và chuyển biến tích cực, từ năm 2000 trở lại
đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm là 11%- 12% và tăng đều ở
tất cả các lĩnh vực.
Mặc dù là một huyện nông nghiệp thuần tuý nhưng với chủ trương của
Đảng và Chính phủ về vấn đề đô thị hoá nên Thanh Trì đã từng bước chuyển
dịch cơ cấu sản xuất, không chỉ có các hộ nông dân đơn thuần mà hiện nay
hoạt động thương mại, công nghiệp, vật tư… đã rất phát triển, cụ thể là sự ra
đời của rất nhiều doanh nghiệp, mà phổ biến nhất là các DNVVN.
Biểu 2.1 Tình hình kinh tế của huyện Thanh Trì
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm 2000 2001 2002
Chỉ tiêu Số tiền Số tiền +/- năm +/- % Số tiền +/- năm +/-%
Tổng GTSX
1. Nông nghiệp

2. Công nghiệp
3. Thương mại
388652
204839
128846
54967
435697
211222
159475
65000
47045
6383
30629
10033
10,21
2,13
18,4
18,7
501100
221904
201724
78481
65403
10682
42249
13481
15,01
5,05
26,4
20,74

(Nguồn: Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì)
Như vậy, xu hướng phát triển kinh tế của huyện Thanh Trì chủ yếu
tăng mạnh ở các ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ, năm 2001 GTSX
ngành công nghiệp tăng 18,4% so với năm 2000, sang năm 2002 tốc độ tăng
ở mức cao hơn với con số 26,4% so với cùng kỳ năm trước, ngành thương
mại, dịch vụ cũng tăng tương tự, năm 2001 tăng 18,7% so với năm 2000 và
tiếp tục tăng trong năm 2002 ở mức 20,74% so với năm 2001 trong khi đó
GTSX ngành nông nghiệp tăng nhưng ở tốc độ yếu chỉ từ 2%- 5%, do nguyên
nhân chính là việc thu hẹp đất sản xuất. Điều kiện thuận lợi này sẽ giúp hoạt
động kinh doanh của NHTT nâng cao khả năng mở rộng TD sang các lĩnh
vực kinh tế khác.
Để kinh tế của thủ đô Hà Nội phát triển một cách toàn diện, bên cạnh
việc nâng cao chất lượng hoạt động kinh tế trong nội thành, uỷ ban nhân dân
thành phố Hà Nội đưa ra các chủ trương mở rộng phát triển các vùng ngoại
thành. Ở Thanh Trì, nhiều dự án của Trung ương và thành phố đã được phê
duyệt mục đích là xây dựng các khu đô thị, khu chung cư hay các khu công
nghiệp, các dự án này sẽ được triển khai xây dựng và hoàn tất trong giai đoạn
2001- 2005 như khu du lịch Linh Đàm với diện tích 190 ha, dự án hồ điều hoà
Yên Sở với diện tích hơn 200 ha, khu nhà ở Định Công diện tích 35 ha, khu công
nghiệp Vĩnh Tuy rộng 10 ha… nên các doanh nghiệp ngày càng có cơ hội tham
gia vào sản xuất, đẩy mạnh cạnh tranh trong môi trường mới.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó thì hoạt động sản xuất kinh doanh
của NHTT còn được sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp của NHNo & PTNT Việt
Nam, sự ủng hộ của uỷ ban nhân dân và hội đồng nhân dân huyện Thanh Trì
cũng như ban lãnh đạo các xã nên mọi hoạt động của NHTT đều được tạo điều
kiện để hoàn thành một cách tốt nhất.
Cuối cùng, các chính sách phát triển kinh tế của đất nước ngày càng
hoàn chỉnh và phù hợp với thực tế, phù hợp với cơ chế thị trường. Cụ thể như
luật HTX, luật doanh nghiệp mới được bổ sung ban hành, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp phát triển.

Khó khăn và thách thức
Mặc dù có rất nhiều điều kiện thuận lợi nhưng thực tế cho thấy, hoạt
động kinh doanh nói chung và hoạt động cấp TD cho các DNVVN nói riêng của
NHNoTT còn gặp rất nhiều khó khăn và thách thức đòi hỏi tất cả thành viên
của NHNoTT phải không ngừng nỗ lực, phấn đấu vượt qua những trở ngại để
hoàn thành nhiệm vụ.
Kinh tế đất nước đã dần đi vào ổn định và tăng trưởng tuy nhiên với tốc
độ cạnh tranh như hiện nay, sản phẩm sản xuất ra nhiều trong khi tiêu dùng
thì tăng chậm dẫn đến sản phẩm ứ đọng nhiều điều đó ảnh hưởng đến quy mô
mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chi phối quá trình phát
triển của nền kinh tế.
Tuy rằng huyện Thanh Trì nằm sát với nội thành Hà Nội nhưng vẫn
mang tính chất một vùng nông thôn nên dù có phát triển nhưng phát triển
cũng rất hạn chế, cái gì cũng mới manh nha nên kinh tế của huyện không thể
một sớm, một chiều mà vững mạnh và ổn định được.
Vị trí ngoại thành cũng có nhiều bất lợi như không được nhiều người
biết đến nên các giao dịch hầu như cũng bó hẹp trong huyện; cơ hội tiếp cận
nhanh, chính xác các thông tin của thị trường vẫn bị hạn chế; không có điều
kiện tiếp xúc thường xuyên với các khu công nghiệp, thương mại lớn của đất
nước nên cơ hội tìm kiếm khách hàng có nhu cầu lớn cũng rất ít…
Do từ trước đến nay phần lớn đất để dùng làm nông nghiệp nên diện
tích dành cho công nghiệp và thương mại, dịch vụ rất hạn chế, quá trình đô thị
hoá nhanh cũng không thay đổi ngay được “lề, lối” ở nông thôn, trong nông
nghiệp mà điều đó cần thời gian, thêm vào đó là trình độ dân trí của người dân
nông thôn chủ yếu là trình độ văn hoá thấp vì vậy việc tiếp thị các dịch vụ của
ngân hàng còn khó khăn do họ chưa hiểu hết tác dụng của các dịch vụ đó.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của các ngành công
nghiệp, thương mại, dịch vụ có tăng hơn nhưng tỷ trọng GTSX của các ngành
này trong tổng GTSX toàn huyện lại không ở mức cao nhất.
Đồ thị 2.2 Tỷ trọng các ngành kinh tế ở huyện Thanh Trì

(Đơn vị:%)
Đồ thị 01 cho thấy tỷ trọng GTSX của ngành công nghiệp trung bình chỉ
hơn 30% tổng GTSX toàn huyện. Năm 2000 ngành công nghiệp chiếm 33,15%,
ngành thương mại chiếm 14,15%, cộng cả hai ngành không bằng GTSX do
ngành nông nghiệp tạo ra, năm 2001 tương đương ở con số trước, công
nghiệp chiếm 36,6%, thương nghiệp chiếm 14,93% nhưng GTSX hai ngành
cộng lại đã lớn hơn ngành nông nghiệp và năm gần đây nhất, năm 2002 ngành
công nghiệp đã tăng GTSX, chiếm tỷ trọng 40,25%, ngành thương nghiệp
chiếm 15,47% tổng GTSX toàn huyện. Tuy nhiên, với tốc độ đô thị hoá nhanh
thì tỷ trọng này vẫn chưa phù hợp, con số của cả hai ngành cần ở mức trên
60% thì kinh tế huyện Thanh Trì mới có thể đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá được.
Đánh giá được những thuận lợi cũng như khó khăn mà NHNoTT có thể
gặp phải, lãnh đạo cùng cán bộ nhân viên NHNoTT cùng vạch ra phương
hướng và kế hoạch kinh doanh của mình sao cho hoàn thành và hoàn thành
vượt mức các chỉ tiêu kinh tế, góp phần đóng góp vào sự thành công chung của
hệ thống ngân hàng nói chung và NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng.
2.1.2.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNoTT.
Cuộc khủng hoảng trầm trọng ở Châu Á cuối những năm 90 đã ảnh
hưởng đến hầu hết các nước trong khu vực và Việt Nam cũng vậy, do đó trong
thời gian qua hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung
và các ngân hàng nói riêng gặp không ít khó khăn. Trước thực tế này, Chính
phủ đã có những chủ trương, chính sách nhằm kích cầu và thúc đẩy nền kinh
tế, năm 2002 chúng ta đã đạt được mức tăng trưởng 7,7%, nền kinh tế bước
đầu đã đi vào ổn định, hoạt động ngân hàng từng bước lại phát triển trong đó
có sự lớn mạnh của NHNo & PTNT Việt Nam.
Là một chi nhánh kinh doanh thuộc khu vực ngoại thành của NHNo &
PTNT Việt Nam, NHNo & PTNT huyện Thanh Trì cũng không ngừng nỗ lực
vươn lên nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ổn định nguồn vốn, mở
rộng và đảm bảo chất lượng TD, hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra. Hiện nay

NHNoTT đóng trên địa bàn thị trấn Văn Điển với một ngân hàng trung tâm và
4 ngân hàng chi nhánh là chi nhánh ngân hàng Lĩnh Nam, chi nhánh ngân
hàng Linh Đàm, chi nhánh ngân hàng Ngũ Hiệp và chi nhánh ngân hàng Cầu
Biêu, hoạt động chủ yếu ở một số nghiệp vụ là huy động vốn, nghiệp vụ TD,
nghiệp vụ bảo lãnh, ngoại tệ, thanh toán trong đó chủ yếu là huy động vốn và
TD. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNoTT qua một số năm:
Biểu 2.3 Kết quả kinh doanh của NHNoTT.
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002
Tổng thu 22602 21189
Tổng chi 18047 13577
Lãi 4555 7612
(Nguồn: Phòng kinh doanh)
Như vậy, hai năm qua hoạt động kinh doanh của NHNoTT đã cơ bản có
lãi, có nguồn để thực hiện mở rộng quy mô sản xuất, tháng 2/2001 đưa vào
hoạt động một chi nhánh nữa của ngân hàng là chi nhánh Linh Đàm, năm
2002 mở thêm 2 phòng giao dịch Vĩnh Tuy và Khương Đình để gần dân hơn, dễ
dàng tiếp cận với khu công nghiệp và 2 phường nội thành Hạ Đình, Khương
Đình, bên cạnh đó NHNoTT không ngừng nâng cao cơ sở hạ tầng bằng việc xây
lại trụ sở chi nhánh ngân hàng cấp 4 là ngân hàng Cầu Biêu vào cuối năm
2000 và cuối năm 2002 là ngân hàng Lĩnh Nam, thông qua hoạt động đó ngân
hàng đã tạo hình ảnh tốt cho khách hàng của mình. Cũng từ quỹ thu nhập này,
đời sống của cán bộ nhân viên từng bước được cải thiện, tạo ra sự phấn khởi
trong lao động nên hiệu quả công việc cũng được nâng lên.
Năm 2001 tổng thu của NHNoTT đạt 22.602 trđ trong khi chi ra khoảng
18.047 trđ nên chênh lệch giữa thu chi là 4.555 trđ, nhưng bước sang năm
2002 cả tổng thu và tổng chi đều giảm, thu giảm 1.413 trđ, tương đương với
6,25%, tổng chi giảm 4.470 trđ tương đương 24,76%, nhưng do tốc độ giảm
của tổng chi nhanh hơn tốc độ giảm của tổng thu, nên kết quả lãi cuối cùng thu
được là 7.612 trđ, tăng 3.057 trđ so với cùng kỳ năm 2001, tương đương với

mức tăng 67,13%. Điều này cho thấy, mặc dù thu có giảm nhưng chi của ngân
hàng đã rất tiết kiệm chỉ chi cho những việc cần thiết, đó là cố gắng lớn trong
công tác quản lý tài chính của NHNoTT nên quỹ thu nhập cuối cùng của ngân
hàng ngày càng mạnh, tạo đà cho các hoạt động tiếp theo của NHNoTT được
phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Hoạt động huy động vốn
Với tư cách là một trung gian tài chính chủ yếu thực hiện nghiệp vụ đi
vay để cho vay truyền thống nên ở mỗi ngân hàng hoạt động huy động vốn, tạo
nguồn ổn định cho ngân hàng có ý nghĩa quyết định hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng thường xuyên quan tâm bổ sung nguồn vốn của
mình thông qua rất nhiều hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền
gửi tiết kiệm, qua phát hành chứng chỉ tiền gửi, đi vay, phát hành trái phiếu…
hoặc tạo vốn thông qua các đối tượng như các tổ chức kinh tế, cá nhân…Khi
nguồn vốn huy động có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động vốn thấp sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Công tác huy động vốn của trong
những năm vừa qua có những diễn biến phức tạp. Do trên địa bàn huyện
Thanh Trì không chỉ có NHNoTT mà còn có NHĐTTT và nhiều NHCT, HTXTD
hoạt động nên công tác huy động vốn cũng phải cạnh tranh mạnh mẽ. Tuy
nhiên với kinh nghiệm và uy tín của mình nên NHNoTT đã đưa ra các biện
pháp huy động vốn và cân đối nguồn vốn, chủ động khai thác mọi nguồn vốn
trong nền kinh tế bằng nhiều hình thức phong phú như: các loại tiền gửi tiết
kiệm bằng nội tệ và ngoại tệ, các loại kỳ phiếu với nhiều kỳ hạn, trả lãi trước,
trả lãi sau…Việc huy động vốn được thực hiện tại tất cả các chi nhánh, đảm
bảo nhanh, chính xác và an toàn tiền gửi, đặc biệt phong cách phục vụ của
nhân viên ngân hàng đã thực sự đổi mới, chính vì vậy ngày càng tạo lòng tin ở
người dân nên hoạt động huy động vốn cũng thuận tiện hơn.
Biểu 2.4 Tình hình huy động vốn ở NHNoTT

Qua số liệu ba năm gần đây nhất cho thấy công tác huy động vốn của
NHNoTT đạt chất lượng tốt, nguồn vốn tăng trưởng khá vững chắc, đảm bảo

có vốn chủ động trong kinh doanh tiền tệ và thanh toán cho nền kinh tế. Do có
tín nhiệm với nhân dân, tổ chức thu tiền mặt thuận lợi và mở rộng màng lưới
giao dịch tại các ngân hàng cấp 4, phòng giao dịch nên hoạt động huy động
vốn đã đạt hiệu quả cao tạo nguồn vốn thường xuyên ổn định cho NHNoTT.
Năm 2001 do được quan tâm đúng mức nên NHNoTT đã có cơ chế linh
hoạt, uyển chuyển trong công tác huy động vốn nên nguồn vốn của NHNoTT
không những đủ nhu cầu mà còn nộp vốn thừa để thực hiện điều hoà vốn trong
toàn hệ thống. Trong năm, chi nhánh Linh Đàm đã thực hiện huy động nguồn
vốn có lãi suất bằng hoặc thậm chí cao hơn NHĐT ở gần đó đồng thời đã nắm
bắt kịp thời các dự án có đền bù, cụ thể là nguồn đền bù tại thị trấn Văn Điển
để trực tiếp huy động vốn. Được gia hạn thêm 3 tháng (70 tỷ) nguồn vay NHCT
TW và vay 100 tỷ/ 6

tháng của quỹ Bảo hiểm Việt Nam. Hai nguồn vốn này đã
mang lại thu nhập là 1.420 trđ (chiếm 31% chênh lệch thu- chi của năm 2001).
Bên cạnh đó NHNoTT còn linh hoạt xử lý lãi tiền gửi để thu hút nguồn tiền gửi
của công ty phân lân Văn Điển, số tiền thường xuyên gửi tại NHNoTT là 6tỷ
(trước đây gửi tại NHĐT).
Bước sang năm 2002, theo kế hoạch phải huy động được 300 tỷ đồng
vậy nên ngay từ đầu năm, tất cả cán bộ nhân viên NHNoTT đều nhận định rõ
trách nhiệm của mỗi người. Tiếp tục bám sát các dự án có tiền đền bù, trong
đó hai chi nhánh ngân hàng Lĩnh Nam và ngân hàng Linh Đàm là có nguồn vốn
tăng trưởng rất mạnh do vị thế của 2 ngân hàng này gần nội thành hơn nên
giá đất bán cao, tuy nhiên vẫn không quên khai thác nguồn vốn ở ngân hàng
Cầu Biêu và Ngũ Hiệp, nơi có dự án khu du lịch sinh thái tại xã Đông Mỹ, Khu
công nghiệp Liên Ninh. Trong tương lai gần nguồn vốn của NHNoTT sẽ tăng
trưởng mạnh từ: Dự án cầu Thanh Trì, vành đai 3 đường 70, khu đô thị mới
Pháp Vân- Tứ Hiệp.
Tính đến cuối năm 2002, tổng nguồn vốn huy động là 317.074 triệu đồng,
đạt 105,69% so kế hoạch cấp trên giao, tăng 96.481 triệu đồng so với cùng kỳ

năm ngoái tức là tăng 43,74%. Cơ cấu nguồn vốn đến 31/12/2002 như sau:
Tiền gửi không kỳ hạn: 45.636 trđ chiếm tỷ trọng 14,4%
Tiền gửi có kỳ hạn <12
th
:201.687 trđ chiếm tỷ trọng 63,6%
Tiền gửi kỳ phiếu: 65.751trđ chiếm tỷ trọng 20,7%
Tiền gửi ngoại tệ: 4.000 trđ chiếm tỷ trọng 1,3%
Nếu xét theo loại tiền gửi, bao gồm tiền gửi VNĐ và tiền gửi bằng ngoại
tệ, thì năm sau luôn cao hơn năm trước, tuy nhiên tiền gửi VNĐ vẫn chiếm đại
đa số, khoảng 98% trở nên, năm 2002 đạt 313.074 trđ tăng so với năm 2001 là
95.427trđ tương đương 43,84%, tiền gửi ngoại tệ những năm 2000 trở về
trước không được huy động đến năm 2001 hình thức huy động này mới xuất
hiện với số lượng (quy đổi VNĐ) là 2.946trđ và năm 2002 là 4.000trđ, tăng
1.054 trđ tương ứng 35,77% so với năm 2001 chiếm tỷ trọng 1,3% trong tổng
nguồn vốn huy động. Việc huy động tiền gửi bằng ngoại tệ đạt con số ít như
vậy là do lượng ngoại tệ trên địa bàn rất ít vì chủ yếu là dân nông nghiệp, ít
liên quan đến các giao dịch quốc tế, thêm vào đó là số lượng các công ty xuất
nhập khẩu ở đây cũng rất hạn chế nên ngoại tệ ít được lưu thông trên địa bàn.
Trước đây do thu từ công tác huy động vốn bằng ngoại tệ không bù đắp được
chi phí bỏ ra nhưng đến nay nhu cầu gửi bằng ngoại tệ tăng lên hơn nữa để
cạnh tranh với các ngân hàng bạn gần đó nhằm khai thác tối đa nguồn vốn
nên NHNoTT đã mở rộng hoạt động huy động vốn bằng ngoại tệ, đến nay, các
loại hình huy động vốn của ngân hàng phong phú hơn, đa dạng hơn và nguồn
vốn cũng trở nên ổn định hơn.
Xét theo kỳ hạn thì công tác huy động vốn của NHNoTT chủ yếu thông
qua ba hình thức là loại tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng
trở xuống và hình thức phát hành kỳ phiếu trả lãi trước hoặc trả lãi sau, trong
đó loại dưới 12 tháng vẫn chiếm tỷ trọng cao hơn cả. Năm 2000 loại này chiếm
65,49%, 2001 giảm xuống còn 53,33% và cuối năm 2002 lại ở mức 64,9%. Tính
đến 31/12/2002 tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 205.687 trđ,

tăng 88.036 trđ tương ứng 77,38% so với năm 2001. Năm 2001 tỷ trọng loại
dưới 12 tháng giảm nhiều hơn so với các năm khác là do tỷ trọng huy động
thông qua phát hành kỳ phiếu tăng lên một cách rõ ràng so với các năm đạt
35,4% trong khi các năm khác chỉ hơn 10%. Có hiện tượng này là do thời kỳ đó
NHNoTT phải cạnh tranh gay gắt với các đơn vị trên địa bàn và phải xử lý tài
chính cho năm sau nên NHNoTT đã huy động kỳ phiếu trả lãi trước vào hai
đợt, đợt I: tháng 8/2001 và đợt II: tháng 12/2001.
Nếu phân loại công tác huy động vốn theo đối tượng thì có tiền gửi của
các TCKT và tiền gửi của dân cư trong đó chiếm ưu thế là tiền gửi của dân cư
khoảng trên 80% tổng số. Năm 2002 tiền gửi của dân cư đạt 271.438trđ,
chiếm 65,61% tổng nguồn vốn huy động, tăng hơn năm trước 84.445 trđ tức là
45,16%. Trong khi đó do biến động của nền kinh tế năm 2001, hoạt động của
các TCKT bị ảnh hưởng làm cho tiền gửi vào ngân hàng của họ giảm nhẹ, chỉ
đạt 33.600trđ, giảm so với năm 2000 là 2.007trđ, tương đương với 5,6%. Tuy
nhiên đến năm 2002 con số này lại đi vào ổn định, tiền gửi của các TCKT tăng
35,82% so với năm trước. Tại NHNoTT, tiền gửi của các TCKT đạt ở con số
khiêm tốn như vậy là do địa bàn huyện ít các doanh nghiệp, công ty, HTX…mặc
dù vậy họ đã tin vào uy tín và chất lượng phục vụ của NHTT nên tiền gửi của
họ chủ yếu theo hình thức không kỳ hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán
nhanh, kịp thời và an toàn.
Tình hình sử dụng vốn
Song song với nghiệp vụ huy động vốn thì nghiệp vụ sử dụng vốn có một
vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nếu huy động
tốt nhưng không cho vay được sẽ gây ứ đọng vốn, lãng phí vốn và như vậy
nguồn vốn không được sử dụng một cách hiệu quả. Vì vậy, đối với hoạt động
này, không riêng ngân hàng nào mà tất cả các tổ chức TD tham gia vào kinh
doanh tiền tệ đều coi là mục tiêu số một.
Tuy nhiên, do đặc thù của huyện Thanh Trì là chuyên sản xuất nông
nghiệp với diện tích canh tác rất lớn, trong khi đó số lượng các doanh nghiệp
trên địa bàn lại không nhiều cộng với tình hình kinh tế trong nước gặp khó

khăn, môi trường đầu tư không thuận lợi nên hàng hoá, nông sản nhiều khi
không tiêu thụ được dẫn đến nhiều cơ sở sản xuất không dám mở rộng hoạt
động kinh doanh. Thêm vào đó là tình hình tiêu dùng trong nước tuy có tăng
nhưng chỉ số tiêu dùng vẫn thấp do ảnh hưởng của chu kỳ suy thoái kinh tế thế
giới cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị trên cùng địa bàn đã gây
cho NHNoTT gặp không ít khó khăn trong quá trình mở rộng và nâng cao chất
lượng TD. Đứng trước những khó khăn này, NHNoTT đã không ngừng phấn
đấu hoàn thành các mục tiêu đặt ra trong phương hướng đầu năm ở tất cả các
mặt trong đó trọng tâm là hoạt động cấp TD, cụ thể là cho vay nhằm đáp ứng
nhu cầu vay vốn của mọi thành phần kinh tế với chất lượng cao nhất. Tổng
doanh số cho vay cũng như dư nợ cho vay của NHNoTT tăng trưởng và ổn định
qua các năm, dư nợ trong hạn được mở rộng, NQH ngày càng giảm, vòng quay
vốn TD tăng nhanh là cơ sở cho hoạt động mở rộng và nâng cao chất lượng TD
của ngân hàng.
Biểu 2.5 Tình hình cho vay vốn của NHNoTT qua các năm:

Biểu 04 cho thấy tình hình dư nợ ở NHNoTT qua các năm 2000, năm
2001 và năm 2002 tương đối ổn định và tăng trưởng đều. Năm 2001 tăng so
với năm 2000 là 30.761 trđ tương ứng 27,77%, năm 2002 tăng trưởng có xu
hướng chững lại chỉ tăng 11,24% tương ứng với 15.904 trđ. Có được kết quả
như trên là cả một quá trình nỗ lực của toàn bộ cán bộ nhân viên của NHNoTT
trong đó đặc biệt là các cán bộ TD ngân hàng.
Tổng dư nợ đến 31/12/2002 là 157.414 trđ đạt 87,45% so với kế hoạch
và tăng 15.904 trđ so đầu năm, trong đó: Ngắn hạn là 140.301 trđ chiếm
89,13%/ tổng dư nợ, trung hạn là 17.113 trđ chiếm 10,87%/ tổng dư nợ
Trong tổng dư nợ của NHNoTT, chủ yếu cho vay ngắn hạn, trung bình
chiếm khoảng 90%/ tổng dư nợ, phần còn lại là cho vay trung hạn và hầu như
không có cho vay dài hạn. Đó là do khách hàng vay vốn của NHNoTT chủ yếu là
các hộ sản xuất nhỏ, họ vay nhằm mục đích trồng trọt hoặc chăn nuôi là chính.
Thêm vào đó, các thành phần kinh tế trên địa bàn, cả trong và ngoài quốc

doanh trong thời gian này đều chỉ cần vốn để bổ sung vốn lưu động nên nhu
cầu về vốn ngắn hạn cũng tăng lên và dư nợ TD ngắn hạn luôn chiếm ưu thế.
Nhìn chung, dư nợ ngắn hạn của NHNoTT là ổn định, năm sau cao hơn năm
trước, năm 2001 tăng 29.378 trđ tương đương 28,7% so với năm 2000, năm
2002 mặc dù tỷ trọng dư nợ ngắn hạn trên tổng dư nợ thấp hơn các năm
trước (đều trên 90%), chỉ đạt 89.13% nhưng cả số tuyệt đối và số tương đối
đều tăng, đạt ở mức 140.301 trđ, tăng 8.559 trđ tương ứng 6,5%.
Cho vay trung hạn chủ yếu tập trung vào cho vay tiêu dùng và cho các
doanh nghiệp, công ty…vay để mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất
kinh doanh. Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ nhưng con số này vẫn

×