Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Ths luat miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.08 KB, 108 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thanh thiếu niên là hạnh phúc của mỗi gia đình, là thế hệ tương lai
của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, có vai trò xung
kích quan trọng trong các cuộc cách mạng của dân tộc ta. Chính vì thế, vấn đề
chăm sóc, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ và đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn
người chưa thành niên (NCTN) có hành vi vi phạm pháp luật từ lâu đã được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ,
thông qua hoạt động của nhiều cấp ngành nhằm giáo dục, ngăn chặn và hạn
chế tình trạng NCTN phạm tội và luôn có sự quan tâm đặc biệt đến việc
hoạch định chính sách hình sự. Pháp luật hình sự (PLHS) nước ta thể hiện
chính sách nhân đạo đối với NCTN phạm tội. Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999
đã kế thừa và phát triển BLHS 1985, là bước phát triển mới trong việc giải
quyết vấn đề miễn trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội. Nhiều quy
phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với NCTN phạm tội
đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ
quan áp dụng pháp luật đấu tranh và phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Tuy
nhiên, một số quy định vẫn còn bất cập, công tác giải thích, hướng dẫn áp
dụng PLHS trong thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức nên một số
quy phạm pháp luật của chế định miễn TNHS còn có nhận thức không đúng,
gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn. Thời gian
qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến chế
định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội. Nhưng cho đến nay, một số nội
dung của chế định này còn có những quan điểm khác nhau và chưa thống
nhất. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập cũng với sự phát triển trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nhiều vấn đề của luật hình sự, trong đó

1



có chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội cũng luôn vận động và phát
triển đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chế định miễn TNHS đối với
NCTN phạm tội, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện
BLHS hiện hành và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng PLHS
là việc làm cần thiết, không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà
còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
hiện nay ở Việt Nam. Với những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài: "Miễn
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật
hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Miễn TNHS đối với NCTN phạm tội là một trong những vấn đề cơ
bản và cần thiết, khá phức tạp của luật hình sự nên được các nhà nghiên cứu
luật hình sự quan tâm và nghiên cứu. Ở nước ta, cho đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu về các nội dung liên quan đến chế định miễn TNHS nói
chung, miễn TNHS đối với NCTN phạm tội nói riêng. Đáng chú ý là những
công trình sau:
- Lê Cảm, Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại
Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2001.
- Lê Cảm, Về sáu dạng miễn trách nhiệm hình sự khác (ngoài Điều 25)
trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2001.
- Lê Cảm, Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự,
(Tập III), NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.

2



- Lê Cảm, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam, trong sách: "Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI",
Tập thể tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Ngọc Chí, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật
hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học (KHXH), số 4/1997.
- Thái Quế Dung, Những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự
theo Điều 48 Bộ luật Hình sự, Tạp chí Kiểm sát, Chuyên đề về BLHS, số 4/1999.
- Phạm Hồng Hải, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
Hình sự năm 1999, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/2001.
- Phạm Mạnh Hùng, Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 2/1993.
- Phạm Mạnh Hùng, Chế định trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
- Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999
(Phần chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.
- Võ Khánh Vinh, Chương XVIII - Miễn trách nhiệm hình sự, trong
sách: "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung)", Tập thể tác giả do
PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Giáo dục, 2001.
- Trịnh Tiến Việt, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách
nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2008.
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đưa ra và giải quyết nhiều
vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng PLHS đặt ra. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện
các khía cạnh, chuyên sâu ở mức độ luận văn thạc sĩ luật học về miễn TNHS
đối với NCTN phạm tội

3


3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Mục đích
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý
luận nội dung cơ bản của những quy định về miễn TNHS đối với NCTN
phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, xác định những bất cập để đề xuất
những giải pháp cụ thể, góp phần tiếp tục hoàn thiện những quy định này
trong thời gian tới. Đồng thời, luận văn cũng nhằm giải quyết một số vướng
mắc trong việc áp dụng các quy phạm của chế định miễn TNHS đối với
NCTN phạm tội góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng và tội phạm nói chung ở nước
ta hiện nay.
- Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu như đã đề cập ở trên, luận văn tập trung vào
việc giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của chế định này
trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, đồng thời so sánh chế định miễn
TNHS đối với NCTN phạm tội theo luật hình sự Việt Nam với chế định này
của một số nước trên thế giới, từ đó làm sáng tỏ bản chất pháp lý của những
quy định về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội theo luật hình sự Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu việc áp dụng các quy phạm pháp luật
của chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội trong thực tiễn áp dụng
PLHS nước ta. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những số liệu thống kê trên
thực tế, những thiếu sót, khuyết điểm và những vướng mắc của việc áp dụng
PLHS liên quan đến chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội tác giả đề
xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần tạo sự nhận thức và áp dụng pháp
luật được thống nhất.

4


- Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội
theo luật hình sự Việt Nam. Cụ thể nghiên cứu các vấn đề như: Khái niệm
NCTN phạm tội; khái niệm, đặc điểm miễn TNHS đối với NCTN phạm tội.
Luận văn cũng đi vào đánh giá, nhận xét số liệu từ thực tiễn việc áp dụng
PLHS về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội. Từ đó đưa ra các giải pháp
hoàn thiện PLHS và nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định PLHS về
miễn TNHS đối với NCTN phạm tội.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội
theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ của luật hình sự và nghiên cứu thực
tiễn áp dụng các quy định của PLHS về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội
trên địa bàn cả nước trong thời gian từ 2004 - 2010.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về Nhà nước và pháp
luật. Luận văn được trình bày trên cơ sở nghiên cứu các văn bản PLHS, tố
tụng hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, các văn bản pháp lý khác, những luận điểm khoa học trong
các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp hệ
thống, lịch sử, lôgic, phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp để chọn lọc kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học.

5


5. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là luận văn thạc sỹ luật học đầu tiên trong khoa học luật hình sự
đề cập đến việc nghiên cứu một cách có hệ thống chế định miễn TNHS đối

với NCTN phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, luận văn đã có một số đóng
góp sau:
- Phân tích một cách có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản
của chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội như: Khái niệm NCTN
phạm tội, khái niệm miễn trách nhiệm đối với NCTN phạm tội theo luật hình
sự Việt Nam, những quy định của PLHS một số nước trên thế giới về miễn
TNHS đối với NCTN phạm tội.Với việc phân tích lý giải, luận văn góp phần
xác định cơ sở khoa học cho việc nhận thức chế định này được thống nhất.
- Luận văn nghiên cứu khái quát việc áp dụng các quy định PLHS về
miễn TNHS đối với NCTN phạm tội trong hoạt động thực tiễn ở nước ta, phân
tích một số điểm chưa phù hợp của BLHS và một số vướng mắc trong quá
trình áp dụng PLHS liên quan đến việc giải quyết vấn đề miễn TNHS đối với
NCTN phạm tội. Từ đó, luận văn cũng đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm góp
phần giải thích, hướng dẫn áp dụng PLHS được thống nhất, nhằm đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về miễn trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Chương 2: Các trường hợp về miễn trách nhiệm hình đối với người
chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực
tiễn áp dụng các quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội trong cả nước giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2010.

6


Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình

sự đối với người chưa thành niên phạm tội.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ VÀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chế định trách nhiệm hình sự
a. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Nghiên cứu các sách báo pháp lý hình sự cho thấy, hiện nay xung
quanh vấn đề khái niệm TNHS giữa các nhà hình sự học vẫn còn nhiều ý kiến
khác nhau dưới đây.
- Trong khoa học luật hình sự của Liên Xô trước đây và Liên bang
Nga hiện nay có các quan điểm chính về TNHS như sau:
+ "Trách nhiệm hình sự là một giai đoạn nhất định của việc thực hiện
các quyền và các nghĩa vụ bởi các chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự khi
mà người phạm tội bị cưỡng chế đối với việc phải những sự tước bỏ nhất
định" [Dẫn theo 8, tr. 605].
+ "TNHS là nghĩa vụ của người phạm tội phải chịu hình phạt và được
thể hiện trong việc tước bỏ có tính chất cá nhân hoặc tính chất tài sản đối với
người đó vì tội phạm đã thực hiện" [Dẫn theo 8, tr. 606].

7


+ "TNHS là nghĩa vụ của người phạm tội phải chịu các biện pháp
cưỡng chế Nhà nước" [Dẫn theo 8, tr. 606].
+ "TNHS là chịu đựng mang tính chất bắt buộc của người có tội

những hậu quả tiêu cực của tội phạm dưới hình thức kết án (sự khiển trách
của Nhà nước) và sự cưỡng chế phải chịu những hậu quả đó bởi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đối với kẻ phạm tội" [Dẫn theo 8, tr. 607].
+ "TNHS là tác động có tính chất cưỡng chế - Nhà nước do quy phạm
PLHS quy định và được áp dụng đối với người phạm tội bằng bản án kết tội
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án" [Dẫn theo 8, tr. 607].
+ "TNHS là phản ứng của Nhà nước đối với việc thực hiện tội phạm
gắn liền với việc tước bỏ mang tính cưỡng chế đối với người có tội các quyền
nhất định hoặc sự hạn chế các quyền ấy và được thực hiện trong các phạm vi
của quan hệ PLHS" [Dẫn theo 8, tr. 607].
+ "TNHS là hậu quả bất lợi do luật quy định đối với người phạm tội
được tuyên bằng bản án của Tòa án đối với người phạm tội, được thể hiện
chính trong việc kết án hoặc kết án có kèm theo hình phạt và án tích" [Dẫn
theo 8, tr. 607]
- Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay có bốn quan
điểm chủ yếu về TNHS như sau:
+ GS.TSKH Đào Trí Úc: "Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của
việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình trước nhà nước" [35, tr. 41].
+ GS. TS Đỗ Ngọc Quang: "Trách nhiệm hình sự là một dạng trách
nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong PLHS bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp
dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó
đã thực hiện" [28, tr. 14].

8


+ GS. TSKH Lê Cảm: "Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của
việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người

phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự
quy định"1.
+ GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS. TS Lê Thị Sơn: "Trách nhiệm
hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự
tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện
pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và
chịu mang án tích"2.
Như vậy, từ các quan điểm khác nhau, trên cơ sở phân tích khoa học
khái niệm TNHS, chúng tôi đưa ra khái niệm TNHS như sau: TNHS là hậu
quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự
quy định là tội phạm và hậu quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc Tòa án
nhân danh Nhà nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm đó, còn người bị kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp lý hình sự
theo một trình tự tố tụng riêng
b. Các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự
Từ việc nghiên cứu các quan điểm khác nhau trên đây về khái niệm
TNHS, trên cơ sở phân tích khoa học khái niệm TNHS, đồng thời căn cứ vào
các phạm PLHS Việt Nam liên quan đến việc giải quyết vấn đề TNHS và thực
tiễn áp dụng các quy phạm ấy, chúng ta cần phải chỉ ra được các đặc điểm cơ
bản dưới đây của trách nhiệm hình:

1

Xem: Lê Cảm. Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự. Chuyên khảo thứ hai. Trong sách: Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự (Tập III). NXB Công an nhân
dân. Hà Nội, 2000, tr.122.
2
Xem: Nguyễn Ngọc Hòa & Lê Thị Sơn. Thuật ngữ luật hình sự. - Trong sách: Từ điển giải thích
thuật ngữ luật học (của Trường Đại học Luật Hà Nội). NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 1999,
tr.126.


9


- Đặc điểm thứ nhất, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội
phạm, TNHS chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội. Nội dung của đặc điểm
này là:
+ Trong thực tế khách quan nếu như không có việc thực hiện tội phạm
- hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, thì cũng không xuất hiện
vấn đề TNHS và do đó;
+ TNHS chính là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với
bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác vì các dạng trách nhiệm pháp lý
khác không đưa đến hậu quả bất lợi và nghiêm trọng đối với chủ thể của hành
vi vi phạm đến mức như TNHS - hạn chế hoặc tước bỏ quyền và tự do hay
thậm chí tước bỏ cả tính mạng của chủ thể (nếu bị áp dụng hình phạt tử hình).
- Đặc điểm thứ hai, TNHS luôn luôn được thực hiện trong phạm vi
của quan hệ PLHS giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và
nghĩa vụ nhất định - một bên là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội. Nội
dung của đặc điểm này là:
+ Nhà nước (mà đại diện cho nó là cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền) có quyền xử lý người phạm tội, nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được xử lý
dựa trên các căn cứ và trong các giới hạn do pháp luật quy định;
+ Người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, tự do nhất định, nhưng đồng thời cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ từ
phía nhà nước tất cả các quyền và lợi ích của con người và của công dân theo
mà pháp luật đã quy định.
- Đặc điểm thứ ba, TNHS được xác định bằng một trình tự đặc biệt
bởi cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền mà trình tự đó phải do pháp luật
tố tụng hình sự quy định. Nội dung của đặc điểm này là:

10



+ Không thể bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng được phép quy TNHS
cho một công dân, mà chỉ có cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) mới có thẩm quyền này.
+ Tuy nhiên, thẩm quyền trên không phải là sự tùy tiện mà phải theo
một trình tự đặc biệt do pháp luật tố tụng hình sự quy định - giai đoạn tố tụng
hình sự cụ thể tương ứng với cơ quan nào, thì cơ quan ấy mới có thể có thẩm
quyền khẳng định vấn đề TNHS của công dân đó bị coi là có lỗi trong việc
thực hiện tội phạm.
- Đặc điểm thứ tư, TNHS chỉ được thực hiện trong bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một
hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định. Nội
dung của đặc điểm này là:
+ Các văn bản của các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan Điều tra và
Viện kiểm sát) trong quá trình truy cứu TNHS công dân (như quyết định khởi
tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, quyết định tạm
giam, cáo trạng, v.v...) hoặc bản án kết tội của Tòa án chưa có hiệu lực pháp
luật mà bị kháng cáo hoặc kháng nghị được ban hành trước khi công dân đó
chính thức bị coi là người có tội - chưa phải là các văn bản áp dụng TNHS;
+ Căn cứ vào nguyên tắc hiến định đã được ghi nhận trong Hiến pháp
năm 1992 (đoạn 1 Điều 72) và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 9)
của nước ta, thì TNHS chỉ được chính thức thực hiện khi bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
+ Trách nhiệm hình sự được thực hiện bằng việc áp dụng đối với
người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do BLHS
quy định.
- Đặc điểm thứ năm, TNHS chỉ được áp dụng đối với riêng bản thân
người phạm tội. Trong giai đoạn hiện nay TNHS ở nước ta chưa được quy


11


định cho pháp nhân (cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị nào đó đã có lỗi để cho
người đại diện phạm tội vì lợi ích tương ứng của tập thể).
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định miễn TNHS
a. Khái niệm của miễn TNHS
Theo quy định của PLHS, một người chỉ có thể phải chịu TNHS khi
có đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS đối với tội phạm được thực
hiện trên những cơ sở chung. Cơ sở của TNHS - tức là khi nào buộc một
người phải chịu TNHS. Do đó, cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm (cơ sở khách
quan) và do người có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó gây nên (cơ sở chủ
quan). Giải quyết đúng đắn và nhận thức chính xác cơ sở của TNHS sẽ triển
khai tốt được chính sách hình sự và các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam.
Điều kiện của TNHS là căn cứ cần và đủ, có tính chất bắt buộc và do luật hình
sự quy định mà chỉ khi nào có tổng hợp tất cả chúng thì một người mới phải
chịu TNHS. Điều kiện của TNHS bao gồm: Người chịu TNHS phải là người
có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS và thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội, hành vi được thực hiện phải bị PLHS quy định là tội phạm, đồng thời
người đó phải có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó.
Nếu TNHS chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội và nó chỉ được thực
hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS đã nêu, thì trong trường hợp người
phạm tội được miễn TNHS thì TNHS đối với họ cũng không đặt ra. Đây
chính là khả năng miễn áp dụng TNHS khi có những điều kiện do luật cho
phép. Sự phân hóa giữa yêu cầu cần thiết của việc truy cứu hay không truy
cứu TNHS đối với người phạm tội đòi hỏi phải rõ ràng, chính xác và có đầy
đủ các điều kiện do luật định.
BLHS 1985 và BLHS năm 1999, đều không ghi nhận khái niệm miễn
TNHS. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, cho thấy có một số quan điểm

khác nhau về miễn TNHS, cụ thể là:

12


- Miễn trách nhiệm hình sự là việc hủy bỏ sự đánh giá tiêu
cực đối với người đó dưới hình thức bản án.
- Miễn trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc của luật hình
sự dựa trên cơ sở xung đột về lợi ích, dùng để chỉ ra rằng không có
tội phạm được thực hiện mặc dù trên thực tế hành vi của một người
nào đó đã thỏa mãn cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan đối với
một loại tội phạm. Nguyên tắc này được nhắc đến như là miễn trách
nhiệm hình sự và không phải là miễn hình phạt bởi vì bị cáo không
chỉ tránh khỏi hình phạt mà hơn thế nữa hành vi đó không được coi là
tội phạm trong những điều kiện miễn trừ [Dẫn theo 19, tr. 209].
+ Miễn TNHS là "một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và
được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong
việc thực hiện hành vi đó" [2, tr. 7];
+ Miễn TNHS là "không truy cứu trách nhiệm hình sự một người về
việc đã thực hiện một tội phạm được quy định trong luật hình sự, thể hiện
trong một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền" [31, tr. 238];
+ Miễn TNHS là "miễn những hậu quả pháp lý đối với một tội phạm
do pháp luật quy định" [35, tr. 269]
+ Miễn TNHS là "không buộc tội một người chịu trách nhiệm hình sự
về tội mà họ đã thực hiện" [34, tr. 321];
+ Miễn TNHS là "miễn kết tội cũng như áp dụng hình phạt đối với
người thực hiện tội phạm và do vậy họ không bị coi là có tội" [5, tr. 14];
+ Miễn TNHS là:
Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và đương nhiên kéo theo

cả miễn phải chịu các hậu quả tiếp theo do việc thực hiện trách
nhiệm hình sự từ phía Nhà nước đem lại như: miễn bị kết tội, miễn

13


phải chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị
mang án tích. Trên thực tế có thể có trường hợp người phạm tội
được Tòa án miễn trách nhiệm hình sự trong giai đoạn xét xử.
Trong trường hợp này, miễn trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm miễn
chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn mang án
tích [30, tr. 19].
Như vậy, về cơ bản tất cả các quan điểm trong nước đều tương đối
thống nhất trong việc khẳng định rõ nội dung và bản chất pháp lý của khái
niệm này. Tuy nhiên, khái niệm miễn TNHS dưới góc độ khoa học luật hình
sự phải thể hiện những nội dung về bản chất pháp lý, điều kiện áp dụng, đối
tượng bị áp dụng, hậu quả pháp lý hình sự và chủ thể có thẩm quyền áp dụng.
Riêng nội dung về hình thức pháp lý đã được thể hiện trong luật tố tụng hình
sự nên dưới góc độ khoa học luật hình sự không cần thiết phải ghi nhận nội
dung này. Do đó, theo quan điểm của chúng tôi, miễn TNHS được hiểu là việc
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình
sự tương ứng không buộc một người đáp ứng những điều kiện nhất định phải
gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do phạm tội, nếu xét thấy việc truy cứu
TNHS người đó là không cần thiết mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng
và chống tội phạm, cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội.
b. Các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự
Xuất phát từ khái niệm này và qua nghiên cứu những quy định của
PLHS Việt Nam hiện hành về miễn TNHS, có thể rút ra một số đặc điểm cơ
bản sau đây.
Một là, cùng với TNHS, miễn TNHS là một trong những chế định

phản ánh sự lên án của Nhà nước và xã hội đối với người có hành vi phạm tội,
song với người được miễn TNHS, việc truy cứu TNHS người đó lúc này lại
không cần thiết mà vẫn đáp ứng các yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội
phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội, thì khi có những

14


điều kiện nhất định, cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng miễn
TNHS. Mặc dù được miễn TNHS nhưng người này vẫn có thể chịu một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự thuộc các ngành luật khác.
Hai là, miễn TNHS là một trong những biện pháp hữu hiệu của Nhà
nước để thực hiện chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội và thể
hiện phương châm trong đường lối đấu tranh phòng và chống tội phạm "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết
phục, cải tạo" trong luật hình sự Việt Nam. Phân hóa trong luật hình sự được
thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau như: phân loại tội phạm, TNHS
trong các giai đoạn phạm tội, đồng phạm, phân hóa TNHS qua việc áp dụng
(truy cứu TNHS) đương nhiên được miễn TNHS hay có thể được miễn
TNHS, các căn cứ quyết định hình phạt, phân hóa - mở rộng hay thu hẹp
phạm vi tội danh trong Phần các tội phạm BLHS; v.v...
Ba là, miễn TNHS cũng là một trong những chế định phản ánh rõ nét
nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam. Trước đây và hiện nay nhân
đạo luôn được xem là một giá trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội nói chung và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng. Nó là nhân
tố quan trọng góp phần làm sáng tỏ bản chất ưu việt của xã hội - xã hội chủ
nghĩa. Là một giá trị pháp lý tiến bộ, tư tưởng nhân đạo đã được cụ thể hóa
trong các quy định của pháp luật (trong đó có PLHS) thông qua đó bảo vệ lợi
ích của công dân khi bị tội phạm xâm phạm, có thể là lợi ích hợp pháp của cá
nhân người phạm tội nếu xứng đáng được hưởng lượng khoan hồng của Nhà
nước và đáp ứng các điều kiện nhất định. Nghiên cứu chế định miễn TNHS

cho thấy - nó không chỉ thể hiện nguyên tắc nhân đạo đối với người phạm tội,
tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà
nước với các biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo người
phạm tội, không buộc phải cách ly người phạm tội ra khỏi cộng đồng, lấy đó
làm nơi cải tạo, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, đồng thời

15


giảm nhẹ cường độ áp dụng TNHS và hình phạt (hay chế tài pháp lý hình sự)
khi có những điều kiện mà pháp luật cho phép.
Bốn là, miễn TNHS gắn liền và quan hệ chặt chẽ với TNHS. Khái
niệm miễn TNHS cũng xuất phát từ khái niệm TNHS. Cụ thể, TNHS thể hiện
sự trừng trị - lên án của Nhà nước đối với người đã thực hiện hành vi phạm
tội mà PLHS quy định là tội phạm.Việc quy định chế định TNHS để bảo vệ
pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, của xã hội và của công dân khi bị tội phạm xâm phạm đến, còn chế
định miễn TNHS lại thể hiện chính sách phân hóa "nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo" và nguyên tắc nhân đạo
sâu sắc trong luật hình sự. Bên cạnh đó, nếu như TNHS là hậu quả pháp lý bất
lợi mà người phạm tội phải chịu do đã thực hiện hành vi phạm tội và được thể
hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của
Nhà nước do luật hình sự quy định, thì miễn TNHS có nghĩa không buộc
người đó phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi đó mà lẽ ra, nếu không có những
điều kiện do luật định, thì họ phải chịu TNHS trên những cơ sở chung. Cơ sở
của TNHS là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự
quy định là tội phạm do người có lỗi thực hiện, thì cơ sở của miễn TNHS là
việc có những điều kiện do PLHS quy định để không buộc một người phải
chịu TNHS, mặc dù hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm. Nói một cách khác, đúng như PGS.TS. Lê Thị Sơn đã viết:

"Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với người phạm tội
thì miễn trách nhiệm hình sự, miễn hậu quả pháp lý của việc phạm tội cũng
chỉ có thể đặt ra đối với người phạm tội. Không thể áp dụng miễn trách
nhiệm hình sự đối với người không có hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của
một cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự" [30, tr. 19].
Ngoài ra, đối tượng bị áp dụng TNHS và được áp dụng miễn TNHS
đều là người phạm tội, tức là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

16


hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Trong trường hợp người phạm tội là
người phải chịu TNHS, thì có nghĩa người này phải gánh chịu hậu quả pháp
lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và người phạm tội phải chịu mang án
tích (nếu bị áp dụng hình phạt). Trong khi đó, người được miễn TNHS đương
nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội
do mình thực hiện như: Không bị truy cứu TNHS, không phải chịu hình phạt
hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác và không bị coi là có án tích. Tuy
nhiên, người này vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về
mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác như: dân sự, hành chính, lao
động hoặc biện pháp kỷ luật; v.v... và được ghi nhận tại Nghị quyết số
02/HĐTP ngày 05/01/1986 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao với nội dung: "Khi
đã miễn trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được quyết định bất kỳ loại
hình phạt nào, nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho người bị hại
và giải quyết tang vật". Ngoài ra, tùy trường hợp cụ thể người được miễn
trách nhiệm hình sự có thể bị xử lý hành chính.
Năm là, miễn TNHS chỉ áp dụng đối với người mà hành vi của họ đã
thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng họ lại có
những điều kiện nhất định để được miễn TNHS. Chẳng hạn, khi tiến hành

điều tra, truy tố, xét xử, do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội
hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì người phạm tội
được miễn TNHS (khoản 2 Điều 25) hay khi có quyết định đại xá (khoản 3
Điều 25 BLHS). Ngoài ra, vì người được miễn TNHS bị coi là người đã thực
hiện hành vi phạm tội, cho nên họ không được bồi thường thiệt hại theo quy
định của Luật bồi thường nhà nước ngày 18/6/2009 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (khoản 1 Điều 27).

17


Sáu là, người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý
hình sự bất lợi của việc phạm tội như: họ không bị truy cứu TNHS, không bị
kết tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác
và không bị coi là có án tích. Mặc dù BLHS hiện hành các nhà làm luật nước
ta chưa quy định nhưng căn cứ vào Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986
về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999
của Tòa án nhân dân tối cao "Về việc giải đáp bổ sung một số vấn đề về áp
dụng pháp luật" và thực tiễn xét xử cho thấy, người phạm tội được miễn
TNHS vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý
thuộc các ngành luật khác như: tố tụng hình sự; dân sự; hành chính; kỷ luật...
Bảy là, phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể,
miễn TNHS chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền và quyết định phải được thể hiện bằng văn bản quy định trong Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003. Cụ thể, các cơ quan này bao gồm: Cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án (các điều 164, 169, 181, 249 và 314) khi có một
trong các căn cứ để miễn TNHS theo quy định tương ứng của BLHS. Ngoài
ra, trường hợp trong một vụ án hình sự có đồng phạm thì việc miễn TNHS chỉ

đặt ra đối với người nào nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện do luật định,
còn đối với những người đồng phạm khác phải chịu TNHS trên những cơ sở
chung. Chẳng hạn, trước đây trong Nghị quyết số 01-89/HĐTP ngày
19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một
số quy định của BLHS đã nêu rõ: Đối với người xúi giục, người giúp sức để
được miễn TNHS, thì họ phải có hành động thuyết phục, khuyên bảo, đe dọa
để người thực hành không thực hiện tội phạm hoặc phải báo cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, báo cho người sẽ là nạn nhân biết về tội phạm đang
được chuẩn bị thực hiện để cơ quan nhà nước hoặc người sẽ là nạn nhân kịp
thời có biện pháp ngăn chặn hay đề phòng.

18


c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu chế định miễn trách nhiệm hình sự
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu chế định miễn TNHS của PLHS nước ta
có ý nghĩa quan trọng thể hiện trên các phương diện sau:
- Chế định miễn TNHS là chế định nhân đạo nhất của luật hình sự
trong đường lối xử lý tội phạm. Vì việc giải quyết vấn đề miễn TNHS hoàn
toàn không cần thiết và không được phải bàn đến khi trong hành vi của công
dân không có các dấu hiệu của cấu thành tội phạm;
- Từ thực tiễn áp dụng các quy phạm PLHS về miễn TNHS cần phải lý
giải, luận chứng và đưa ra mô hình lý luận dưới góc độ nhận thức - khoa học
nhằm góp phần điều chỉnh trong PLHS thực định các trường hợp miễn TNHS
khác cũng chính là một trong những hướng nghiên cứu quan trọng và cần
thiết của khoa học luật hình sự nước ta hiện nay;
- Chế định miễn TNHS thể hiện chính sách phân hóa và thể hiện
phương châm trong đường lối xử lý Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng
trị kết hợp với giáo dục thuyết phục, cải tạo. Qua đó, nhằm bảo vệ quyền con

người trong tư pháp hình sự;
- Việc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và sâu sắc chế định miễn TNHS
sẽ hỗ trợ cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án áp dụng chính xác các
quy phạm của chế định này, đồng thời góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và
chứng minh rằng, bằng việc phân tích khái niệm miễn TNHS, các đặc điểm cơ
bản và các căn cứ pháp lý của những trường hợp miễn TNHS; v.v... vẫn đảm
bảo yêu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm.
1.2 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội và chính sách hình
sự của nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội
1.2.1 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội

19


Người chưa thành niên phạm tội là thuật ngữ được sử dụng trong
ngành luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên lại không có khái niệm
pháp lý chính thức nào giải thích thuật ngữ này dù BLHS, TTHS có quy định
chương riêng về NCTN phạm tội. Trong PLHS, thuật ngữ NCTN được sử
dụng dưới hai góc độ vừa là chủ thể tội phạm, vừa là đối tượng tác động của
tội phạm. Dưới góc độ là chủ thể của tội phạm thì tuổi của NCTN phạm tội
được giới hạn hẹp hơn so với tuổi của NCTN trong các ngành luật khác, đó là
từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo Điều 68 BLHS 1999 quy định: "Người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu TNHS theo quy định của
chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của chương này". Như vậy một câu hỏi được
đặt ra ở đây là tại sao PLHS lại quy định độ tuổi chịu TNHS của NCTN là 14
tuổi? Ở mỗi Quốc gia trên thế giới có quy định độ tuổi chịu TNHS của NCTN
rất khác nhau. Chẳng hạn: Tuổi chịu TNHS của Singapo là từ đủ 7 tuổi đến 12
tuổi trở lên, của Anh là từ đủ 10 tuổi đến dưới 14 tuổi, của Đức, Nga, Nhật
Bản là từ đủ 14 tuổi trở lên, của Canada là từ đủ 12 tuổi trở lên, của Thụy

Điển là đủ 15 tuổi, Cuba là 16 tuổi, trong khi đó Chilê, Tâybanha lại không
quy định độ tuổi tối thiếu chịu TNHS. Sở dĩ, PLHS mỗi Quốc gia có quy định
khác nhau như vậy là vì phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội,
cũng như sự phát triển của từng nước. Ở nước ta, PLHS có quy định 14 tuổi
trở lên phải chịu TNHS là phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Trong độ tuổi này, NCTN đã phát triển nhanh về tâm sinh lý, họ đã ý thức
được hành vi của mình, tự ý thức được đâu là đúng, là sai cũng như ý thức
được phần nào việc gì là đúng pháp luật, việc gì là sai trái, bị pháp luật cấm.
Do đó họ có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về chính hành vi sai trái do mình
thực hiện.
Theo Điều 12 BLHS 1999 có sự phân hóa TNHS trong lứa tuổi NCTN
phạm tội, quy định: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội

20


phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng"
Để xác định TNHS của NCTN thì phải xác định được họ đã thực hiện
hành vi được mô tả trong BLHS, Điều 8 BLHS quy định tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý. Do đó, để xác định một người nào đó phải chịu TNHS thì phải xác
định các yếu tố sau: sự việc xảy ra có đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm
được quy định trong BLHS, người thực hiện hành vi phạm tội phải có năng
lực TNHS và đạt độ tuổi luật định, người đó thực hiện hành vi với lỗi cố ý
hoặc vô ý, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ. Tóm lại, trên cơ sở lập luận trên có thể đưa ra
định nghĩa khoa học về NCTN phạm tội như sau: NCTN phạm tội là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có lỗi cố ý hoặc vô ý trong việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm.

1.2.2. Chính sách hình sự của nhà nước ta đối với người chưa
thành niên phạm tội
Chính sách hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền là
một phần của chính sách xã hội nói chung, đồng thời là chính sách pháp luật
trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng và bao gồm tổng thế bốn chính sách:
Chính sách phòng ngừa tội phạm, chính sách PLHS, chính sách pháp luật
TTHS và chính sách THAHS; với tư cách là những phương hướng có tính
chất chỉ đạo, chiến lược của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm nhằm đảm bảo thực hiện tốt đường lối xử lý về hình sự, góp phần
đưa các nguyên tắc của NNPQ vào đời sống thực tế, giáo dục công dân ý thức
tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tiến tới xây dựng
thành công NNPQ ở Việt Nam. Như vậy, "chính sách hình sự trong giai đoạn
xây dựng NNPQ là những phương hướng có tính chất chỉ đạo, chiến lược của
Nhà nước trong lĩnh vực tội phạm và hình phạt nhằm xây dựng, hoàn thiện

21


PLHS, pháp luật TTHS và pháp luật THAHS, cũng như thực tiễn áp dụng
chúng, đồng thời soạn thảo và triển khai các biện pháp đấu tranh phòng và
chống tội phạm" [20, tr. 35]
Chính sách PLHS của nhà nước đối với NCTN phạm tội là những
phương hướng cơ bản có tính chất chỉ đạo của Nhà nước trong hoạt động lập
pháp và áp dụng PLHS đối với NCTN phạm tội, đảm bảo sự ổn định của hệ
thống PLHS, tăng cường việc bảo vệ các quyền và tự do của NCTN, cũng
như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước bằng PLHS, đồng thời
góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm do
NCTN thực hiện.
Trong BLHS Việt Nam hiện hành, có một chương riêng quy định về
NCTN phạm tội, trong đó có quy định nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm

tội với mức độ giảm nhẹ đặc biệt đáng kể so với nguyên tắc về người phạm
tội nói chung. Trên thực tế, NCTN chịu sự tác động rất lớn và chủ yếu của
môi trường sống xung quanh. Sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như
các đặc điểm nhân thân khác của NCTN chịu sự chi phối và sự giáo dục rất
lớn từ gia đình,bạn bè, nhà trường và xã hội. Nếu như họ sống trong môi
trường không lành mạnh, tiếp xúc với nhiều tệ nạn xã hội thì họ sẽ dễ dàng
tiếp thu những thói hư tật xấu, dễ bị tha hóa về nhân cách, cũng như dễ bị
kích động, lôi kéo vào những hành vi vi phạm pháp luật. Và ngược lại nếu
trong môi trường lành mạnh thì NCTN sẽ có những điều kiện phát triển toàn
diện về thể chất cũng như tinh thần, sống lành mạnh và trở thành người có ích
cho xã hội. Vì thế trường hợp NCTN phạm tội, ngoài trách nhiệm của cá nhân
họ thì gia đình, nhà trường và xã hội cũng phải chịu một phần trách nhiệm rất
lớn. Vì việc chăm sóc,giáo dục, quản lý lứa tuổi này còn nhiều thiếu sót,
không quan tâm đúng mức, do đó chưa ngăn chặn, phòng ngừa được những
tác động và ảnh hưởng xấu của các tệ nạn xã hội và những hành vi tiêu cực từ
NCTN phạm tội gây ra. Việc xử lý những đối tượng này chủ yếu nhằm mục

22


đích giáo dục họ có ý thực tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống
trong xã hội, giúp họ có điều kiện sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và
trở thành một công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Chính vì vậy, trong
các nguyên tắc cơ bản xử lý NCTN phạm tội được quy định tại Điều 69
BLHS năm 1999, đã hạn chế tối đa việc truy cứu TNHS đối với NCTN phạm
tội và hình phạt đối với họ; hạn chế áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp khi áp dụng luôn theo hướng giảm nhẹ đáng
kể và thấp hơn so với người đã thành niên phạm tội trong trường hợp tương
tự. Hơn nữa, trong nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội, luật còn quy
định có thể áp dụng biện pháp miễn TNHS, điều này được quy định tại khoản

2 Điều 69 BLHS: "Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn TNHS,
nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không
lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan tổ chức nhận
giám sát, giáo dục".
Người chưa thành niên vừa là đối tượng tác động của tội phạm cần
được PLHS bảo vệ đặc biệt, cũng vừa là chủ thể của tội phạm. Với vai trò là
chủ thể của tội phạm, NCTN phạm tội là một dạng đặc thù của người phạm
tội nói chung. Việc quy định một người ở trong độ tuổi như vậy mới được coi
là NCTN phạm tội được nhà làm luật dựa trên cơ sở kết quả của các công
trình nghiên cứu khoa học, cũng như sự khảo sát về tâm lý - xã hội và lứa
tuổi, đồng thời tổng kết kinh nghiệm của thực tiễn đấu tranh phòng và chống
tội phạm và căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với NCTN
phạm tội. Do đó, việc xử lý những đối tượng này với mục đích giáo dục và
giúp đỡ họ có điều kiện sửa chữa sai lầm, làm lại cuộc đời và trở thành công
dân có ích cho gia đình và xã hội.

23


1.3. Khái niệm, đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội
1.3.1 Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội
Từ khái niệm miễn TNHS nói chung trong luật hình sự, chúng ta có
thể hiểu khái niệm miễn TNHS đối với NCTN phạm tội trong luật hình sự
như sau: Miễn TNHS đối với NCTN phạm tội là một chế định nhân đạo của
luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng văn bản với nội dung hủy bỏ hậu
quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội đối với NCTN phạm tội bị
coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, do các cơ quan tư pháp hình sự
có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn TTHS tương ứng áp dụng khi có đầy

đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện luật định.
1.3.2 Đặc điểm của miễn TNHS đối với người chưa thành niên
phạm tội
Ngoài những đặc điểm nói chung của miễn TNHS trong luật hình sự,
thì miễn TNHS đối với NCTN còn có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đây là trường hợp miễn TNHS đặc biệt dành riêng cho
NCTN phạm tội, là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc
nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS Việt Nam nói riêng,
cũng như sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với NCTN phạm tội.
Thứ hai, miễn TNHS chỉ có thể đặt ra đối với NCTN phạm tội khi mà
hành vi của họ thỏa mãn những dấu hiệu của CTTP cụ thể nhưng đối với họ
lại có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định. Đây là trường hợp
miễn TNHS mang tính chất tùy nghi. Bởi lẽ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có thể quyết định áp dụng hoặc không áp dụng miễn TNHS đối với NCTN
phạm tội khi họ có đầy đủ căn cứ pháp lý và điều kiện do luật định.

24


Thứ ba, theo giai đoạn TTHS tương ứng cụ thể, miễn TNHS được
thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền và quyết định được thể hiện
bằng văn bản. Cụ thể, theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án (các Điều 164, 169, 181 và 249 Bộ luật TTHS năm 2003).
Thứ tư, NCTN phạm tội được miễn TNHS đương nhiên không phải
chịu các hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện như
không bị truy cứu TNHS, không phải chịu hình phạt, không bị coi là có án
tích và không bị coi là có tội. Tại đoạn 2 điểm 3 phần VIII Nghị quyết số
02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về việc hướng
dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1986 đã chỉ rõ: "Khi miễn

TNHS thì Tòa án không được quyết định bất cứ loại hình phạt nào nhưng vẫn
có thể quyết định việc bồi thường cho người bị hại và giải quyết tang vật".
Như vậy NCTN phạm tội vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác
động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác như: buộc phải
phục hồi lại tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt hại.
Thứ năm, PLHS Việt Nam quy định chế định miễn TNHS đối với
NCTN phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong áp dụng pháp luật cũng như giáo
dục cải tạo NCTN phạm tội, không những động viên, khuyến khích người
phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng
hòa nhập cộng đồng mà còn tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp
cưỡng chế hình sự của nhà nước với các biện pháp tác động xã hội trong việc
giáo dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ trở thành người có ích trong xã hội.
Qua đó góp phần thể hiện rõ nét quan điểm của Nhà nước là không để lọt tội
phạm và người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội, phần nào làm
giảm nhẹ cường độ việc áp dụng TNHS đối với NCTN phạm tội khi có đầy
đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện theo luật định.

25


×