Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Phương thức lãnh đạo của đảng đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa Tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.42 KB, 104 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã tiến hành được 25
năm và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực từ
kinh tế đến chính trị, từ văn hóa đến xã hội và an ninh quốc phòng. Trong quá trình
đổi mới đất nước, bước đột phá lớn nhất có tính chất quyết định là sự đổi mới tư duy
mà trước hết là tư duy kinh tế của Đảng ta: Bước đầu là chuyển từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và
đến nay là tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn phát triển đổi mới 25 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của
sự nghiệp đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng.
Tiếp tục đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, đẩy mạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần đây, Đảng
ta chủ trương xây dựng và phát triển các loại hình doanh nghiệp trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân; trong đó có một chủ trương mới mẻ và táo bạo là đẩy mạnh cổ
phần hoá các DNNN.
Cổ phần hóa DNNN và thành lập các DNCP là một chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước ta nhằm thu hút các nguồn vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực,
thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp cổ
phần hóa đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và giữ một vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Để làm tốt chủ trương đó, Đảng ta khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng và của các tổ chức cơ sở đảng trong DNCP là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước tại doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vì DNCPH có những đặc điểm khác với doanh nghiệp 100% vốn
của Nhà nước, nên không thể áp dụng phương thức lãnh đạo của Đảng trong các
DNNN vào các DNCPH.
Nhiều người cho rằng, trong các doanh nghiệp nói chung, các DNCPH nói
riêng, không có TCCSĐ thì thiếu, mà có TCCSĐ thì thừa. Điều đó nói lên “khoảng
trống” sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực hoạt động này trong xã hội. DNNN nói
1




chung, DNCPH nói riêng là lực lượng quan trọng của phát triển xã hội. Không có sự
lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực này thì làm sao Đảng thực hiện được sự nghiệp
xây dựng CNXH? Vì vậy, việc tổ chức thực hiện và phát huy vai trò của TCCSĐ
trong loại hình doanh nghiệp này đang là nhu cầu bức bách hiện nay ở nước ta. Đi
đôi với việc tổ chức và phát huy vai trò TCCSĐ trong các lĩnh vực này là việc hoàn
thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trong các DNCPH.
Có thể nói, TCCSĐ trong DNCP là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ
thống TCCSĐ của Đảng, các TCCSĐ này vững mạnh, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo
sẽ góp phần phát triển toàn diện, đồng bộ toàn bộ các TCCSĐ và ngược lại, nếu một
bộ phận TCCSĐ trong DNCP yếu sẽ gây hậu quả không nhỏ đến TCCSĐ trong cả
nước. Song, trong thực tế, hoạt động của TCCSĐ trong DNCP còn gặp rất nhiều khó
khăn, do những thay đổi cơ bản bên trong doanh nghiệp. Đó là, từ doanh nghiệp một
sở hữu đã chuyển sang đa sở hữu; từ đồng vốn chỉ độc tôn vốn nhà nước, nay vốn
nhà nước không còn độc tôn nữa mà chỉ chiếm một phần, còn vốn của các thành
phần kinh tế khác chiếm phần lớn, thậm chí có nhiều doanh nghiệp đã không còn
vốn nhà nước; từ chỗ quyền lực tập trung vào Ban giám đốc do Nhà nước bổ nhiệm,
nay quyền lực chia sẻ cho các đại diện của những cổ đông có vốn góp lớn trong
doanh nghiệp.
Quảng Ninh đã tiến hành quá trình cổ phần hóa và bước đầu thu được những
kết quả quan trọng, nhưng cũng ở đây bộc lộ nhiều vấn đề cần giải quyết. Vấn đề
mấu chốt ở đây cũng chính là tổ chức và hoạt động của các TCCSĐ, phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với các DNCP, làm thế nào để vừa củng cố vai trò lãnh đạo
của Đảng, vừa đảm bảo cho doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và khẳng định được trên
thị trường.
Bản thân sự hoạt động của TCCSĐ ở hầu hết các DNCP trong cả nước nói
chung và Quảng Ninh nói riêng còn lúng túng và có xu thế buông lỏng; vai trò lãnh
đạo của Đảng còn hạn chế; phương thức lãnh đạo còn nhiều bất cập, không hợp lý,
chậm đổi mới, chưa thích ứng với cơ chế quản lý trong các DNCP, nên hiệu lực lãnh

đạo yếu, uy tín của TCCSĐ ở đó giảm sút; vai trò hạt nhân chính trị quá mờ nhạt.
Trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo, tư duy về kinh tế thị trường của cấp ủy,
2


đảng viên còn hạn chế, bất cập nên việc tham gia đóng góp và lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở doanh nghiệp chưa ngang tầm đòi hỏi đặt ra. Nguyên tắc tập
trung dân chủ, tính chiến đấu tự phê bình và phê bình trong tổ chức và chất lượng
sinh hoạt đảng không được thực hiện nghiêm túc. Nhiều quyết định, nghị quyết của
cấp ủy không có tính khả thi. Không ít tổ chức đảng đang chủ yếu làm chức năng
xây dựng nội bộ đảng thuần túy dẫn đến hoạt động còn hình thức, đối phó, thụ động,
gượng ép, hiệu lực, hiệu quả thấp.
Đó chính là những lý do cơ bản để tác giả chọn vấn đề: “Phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa (Qua khảo sát tại tỉnh
Quảng Ninh)” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính trị
học.
2. Tình hình nghiên cứu:
Thực tiễn cho thấy, chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp, kể cả
DNNN là hoàn toàn đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
tăng trưởng và phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta hiện nay. Việc hoàn thiện phương thức lãnh đạo của đảng đối với DNCPH là một
vấn đề rất quan trọng. Song, việc nghiên cứu để hoàn thiện phương thức lãnh đạo
của đảng đối với DNCPH chưa nhiều. Cho đến nay, việc nghiên cứu trực tiếp vấn đề
này còn ít; có thể nói, mới chỉ có một số đề tài nghiên cứu đề cập đến một số khía
cạnh của vấn đề trên. Có thể đề cập tới một số công trình nghiên cứu sau đây:
- Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng,
Công đoàn, Đoàn thanh niên trong Công ty cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà nước,
Ban tổ chức Thành ủy Hà Nội năm (2003).
- Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng, đoàn thể trong doanh
nghiệp cổ phần có vốn nhà nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, Đề tài khoa học cấp tỉnh của Tỉnh ủy Quảng Ninh, Nguyễn Minh Tuấn
(chủ nhiệm).
Cả hai đề tài nêu trên đã bước đầu phân tích vai trò của TCCSĐ trong DNCP,
từng bước luận giải, khảo sát làm nổi bật thực trạng hoạt động của TCCSĐ trong

3


DNCP và từ đó đưa ra một số giải pháp có tính chất định hướng về sự lãnh đạo của
TCCSĐ trong DNCP ở địa phương (Hà Nội, Quảng Ninh).
Một số sách và tài liệu đã công bố:
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, của Lê Hồng Hạnh.
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - thực trạng và giải pháp, Tài liệu báo
cáo tại Hội nghị cổ phần hóa do Website Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức tại Hà
Nội tháng 9-2004, của Phạm Văn Hưng.
- Lý luận và thực tiễn về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Tài
liệu báo cáo tại Hội nghị cổ phần hóa do Website Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức
tại Hà Nội tháng 9-2004, của Lê Hữu Nghĩa.
- Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, Báo cáo đề dẫn và Tổng thuật Hội thảo khoa học - thực tiễn, tổ
chức tại Hà Nội tháng 3-2006, của Lê Hữu Nghĩa.
- Giải pháp khắc phục những vấn đề đặt ra từ thực trạng cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước hiện nay, Tài liệu báo cáo tại Hội nghị cổ phần hóa do Website
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng 9-2004, của Tào Phùng.
Cùng với những nghiên cứu nêu trên, đề tài mà luận văn sẽ thực hiện cũng đã
được một số tác giả nghiên cứu trong các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài
báo như:
- Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và vận dụng vào Việt Nam, Luận án
tiến sĩ kinh tế năm 1999, của Đặng Thị Cẩm Thúy. Trong luận án này tác giả đã làm

rõ khái niệm cổ phần hóa và chỉ ra tính tất yếu của cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam.
Đồng thời, tác giả cũng nêu lên các quan điểm của Đảng ta về cổ phần hóa và thực
trạng quá trình cổ phần hóa các DNNN ở Việt Nam.
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận
án tiến sĩ Luật học năm 2005, của Nguyễn Thanh Bình. Ở luận án này, tác giả đã đi
sâu nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần
và đề ra quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
DNCP ở Việt Nam hiện nay. Thiết nghĩ, những quan điểm, giải pháp này nếu được
4


thực hiện một cách triệt để trong thực tiễn sẽ góp phần củng cố và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong DNCP. Tuy nhiên, mục đích chính của luận án vẫn là vai
trò quản lý của Nhà nước bằng pháp luật trong công ty cổ phần.
- Phát huy vai trò công tác tư tưởng trong quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước thuộc khối công nghiệp Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa
học chính trị năm 2005, của Nguyễn Thị Thoan.
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2004,
của Lê Minh Hiếu.
- Vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp cổ phần ở Nghệ An
hiện nay, Luận văn thạc sỹ chính trị học năm 2006, của Nguyễn Thị Chiên.
Một số công trình nghiên cứu về quá trình cổ phần hóa DNNN và sự lãnh đạo
của TCCSĐ trong DNCP như: "Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần" của tiến sĩ Đoàn Văn Hạnh, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
"Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và công tác tư tưởng" của Hồ Xuân Hùng,
Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 4/2004. "Củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các
doanh nghiệp cổ phần hóa" của Ngô Tùng Chinh, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 52005...
- Nâng cao chất lượng TCCSĐ trong các DNCP thuộc Đảng ủy các doanh
nghiệp tỉnh Nghệ An, tháng 8-2006, của Đảng ủy các doanh nghiệp Nghệ An chuyên đề.
Tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu xoay quanh vấn đề tính tất

yếu của cổ phần hóa DNNN và thành lập DNCP; các bước thực hiện cổ phần hóa và
tính ưu việt của loại hình kinh tế mới này. Trên cơ sở phân tích đặc điểm và thực
trạng hoạt động của các DNCP, các tác giả đã chỉ ra sự cần thiết phải củng cố và tăng
cường vai trò lãnh đạo của TCCSĐ trong DNCP, đồng thời đã bước đầu phác họa
được mô hình tổ chức và hoạt động của TCCSĐ trong các doanh nghiệp đó. Song,
để đi sâu nghiên cứu thực trạng vai trò của TCCSĐ trong DNCP, rút ra những mặt
mạnh, những tồn tại yếu kém, tìm nguyên nhân để từ đó đưa ra những giải pháp khắc
phục thì chưa có.

5


Có thể nói, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu, một luận án hay
luận văn nào đi sâu vào vấn đề “ phương phức lãnh đạo của Đảng đối với doanh
nghiệp cổ phần hoá ở nước ta hiện nay”, trong khi đề tài đang là hết sức cấp bách.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về phương thức lãnh đạo của Đảng,
luận văn phân tích, đánh giá thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các
DNCPH (qua khảo sát tại tỉnh Quảng Ninh), từ đó nêu phương hướng và các giải
pháp chính yếu tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các
DNCPH.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với các doanh nghiệp.
- Làm rõ thực trạng về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các DNCPH
(trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh), nêu lên mặt thành công và hạn chế cũng như những
nguyên nhân của chúng. Xác định những vấn đề bức xúc cần giải quyết trong lĩnh
vực này hiện nay;

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản, cụ thể, có tính khả thi
nhằm góp phần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với DNCPH.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
* Cơ sở lý luận:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về Đảng lãnh đạo nói chung và về phương
thức lãnh đạo của Đảng nói riêng trong DNCP; đặc biệt là những văn kiện của Đảng
và pháp luật của Nhà nước đối với DNCP.
- Luận văn khai thác các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà
nước, các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà hoạt động thực tiễn liên quan đến
lĩnh vực tổ chức Đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng trong DNCP.
- Luận văn nghiên cứu những hoạt động thực tiễn của DNCP trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, tập hợp, phân tích các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, các cuộc
6


hội thảo của các cấp ủy đảng về những vấn đề có liên quan đến công tác đảng trong
DNCP
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng mác xít luận văn kết hợp
chặt chẽ các phương pháp cụ thể như: lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, tiếp
cận hệ thống, tổng kết thực tiễn trong đó đặc biệt chú trọng nguyên tắc lý luận gắn
với thực tiễn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn đi sâu nghiên cứu một vấn đề rất mới, đồng thời rất phức tạp và
đang gặp nhiều khó khăn trong sự lãnh đạo của Đảng nói chung, phương thức lãnh
đạo của Đảng nói riêng trong DNCP.
* Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu của luận văn được thực hiện qua việc khảo sát phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với DNCPH trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay; bởi

theo tác giả trong thời gian qua tỉnh Quảng Ninh thực hiện cổ phần hoá các DNNN
đạt được nhiều kết quả tốt.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng, từ
đó làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đảng trong các DNCP ở
Quảng Ninh nói riêng, cả nước nói chung. Qua đó, nâng cao nhận thức và ý thức xác
định tầm quan trọng của việc xây dựng đảng trong các DNCP.
Luận văn luận giải những vấn đề nẩy sinh trong thực tiễn cổ phần hoá, qua đó đề
xuất một số giải pháp nhằm đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đổi
với DNCP nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ trong công ty
cổ phần, phát huy vai trò các tổ chức đoàn thể trong DNCP.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Luận văn đã luận giải và góp phần giải quyết một trong những vấn đề bức
xúc hiện nay về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với DNCPH, nhằm nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hệ thống DNCP nói chung, và DNCPH nói
riêng trong nền kinh tế quốc dân.
7


- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học,
giảng dạy ở các trường chính trị, trong việc chỉ đạo và lãnh đạo của các cơ quan
đảng đối với DNCP, các cơ quan lãnh đạo trong quá trình chỉ đạo công tác xây dựng
đảng trong DNCP.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thực hiện trong 3 chương, 6 tiết.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP CỔ PHẦN HOÁ-NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phương thức lãnh đạo của

Đảng.
Vấn đề Đảng Cộng sản lãnh đạo nói chung và nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng Cộng sản nói riêng, là một trong những nội dung quan trọng được đề cập
trong các quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, vào giai đoạn C.Mác và
Ph.Angghen còn sống, do giai cấp vô sản trong thực tế chưa giành được chính quyền
và chưa có một Nhà nước của mình, nên các ông chưa chú tâm đề cập đến và làm rõ
những quan điểm cụ thể về vấn đề này. Mác và Ăngghen chủ yếu mới đi sâu bàn đến
vấn đề đấu tranh giai cấp và cho rằng trong các xã hội có giai cấp, tất yếu sẽ dẫn đến
việc hình thành các đảng chính trị và các đảng chính trị đó sẽ đóng vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội. Mác và Ăngghen chỉ ra rằng trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào giành được quyền lực nhà nước thì giai cấp đó sẽ trở thành giai cấp thống trị và
thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội. Chỉ đến đầu thế ký XX, trong những điều kiện
mới, kế thừa những di sản tư tưởng, quan điểm cơ bản của Mác và Ăngghen,
V.I.Lênin đã phát triển đưa ra những luận điểm sâu sắc về vấn đề lãnh đạo của Đảng
Cộng sản

(Đảng Công nhân dân chủ nghĩa xã hội Nga, Đảng Bôn sêvích Nga )

Ngay từ trước Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) V.I Lênin đã cho rằng, Đảng
Bônsêvích Nga "Bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm toàn bộ chính quyền"
8


trong thời kỳ lãnh đạo giành chính quyền và xây dựng CNXH ở nước Nga, Lênin đã
nhiều lần sử dụng trong các bài nói, bài viết của mình các kháI niệm như "Đảng
cầm quyền", "Đảng chấp chính", "Đảng lãnh đạo"…..Theo ông, đảng lãnh đạo thì
đòi hỏi đảng cầm quyền và lãnh đạo nhà nước. Lênin khẳng định, ở nước Nga "chỉ
có một đảng lãnh đạo duy nhất là đảng đang cầm quyền” (1). Trong các luận điểm

về Đảng
(1)

V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 45, NXb Tiến bộ, M1978, tr. 136.

Cộng sản lãnh đạo, Lênin đã đề cập đến nhiều vấn đề về sự lãnh đạo của Đảng, trong
đó cốt lõi là nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước
và xã hội. Đảng cộng sản lãnh đạo nhà nước chính là nói lên các đặc điểm mang tính
bản chất của nền chuyên trách vô sản. Trong nền chuyên chính vô sản, Nhà nước
phải chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong vấn đề Đảng lãnh đạo, trước hết Lênin đề cập đến mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước. Chỉ có
Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước mới đáp ứng đúng mục tiêu của Đảng là xây
dựng một xã hội mới - xã hội XHCN, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Và để
giải quyết được mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước, đáp ứng được vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước trong chế độ xã hội mới thì vấn đề quan trọng hàng đầu
là phải có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với chức năng
quản lý của Nhà nước. Vấn đề này đã được Lênin chỉ ra vào thời kỳ trước khi Đảng
Công nhân dân chủ - xã hội Nga giành được chính quyền.
Vấn đề Đảng lãnh đạo, Lênin đã phân định chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của
Đảng với chức năng nhiệm vụ quản lý của Nhà nước. Người đã khẳng định cụ thể
hơn vấn đề này sau khi Cánh mạng Tháng Mười Nga thành công, Đảng Cộng sản
Nga đã lãnh đạo bộ máy chính quyền Xô Viết thực hiện công cuộc phát triển kinh tế,
xây dựng chế độ mới. Lênin cho rằng, chừng nào mà Ban chấp hành trung ương
Đảng và toàn Đảng còn tiếp tục làm công tác quản lý hành chính, nghĩa là quản lý
nhà nước, thì Đảng không thể gọi là người lãnh đạo được. Tại Đại hội XI, Đảng
Cộng sản Nga (4/1922), khi đánh giá về mối quan hệ giữa đảng và nhà nước lúc đó,
9



Lênin viết rằng: "Giữa đảng và các cơ quan Xô - Viết hiện đã có những quan hệ
không đúng; Phải chấm dứt tình trạng là bất kỳ vấn đề vụn vặt nào cũng đưa ra trước
Ban chấp hành trung ương, mà phải nâng cao uy quyền của Hội đồng Bộ trưởng dân
uỷ.... "(1). Từ đó, Lênin khẳng định: "Nếu cứ lãnh đạo đảng bằng cách đó, thì chúng
ta nhất định đi tới chỗ diệt vong..... rằng, cần phải phân rõ chức năng, quyền hạn
của bộ máy của đảng và của bộ máy các Xô- Viết" (2). Để khắc phục sự lẫn lộn,
chồng
(1)

Sđd, tập 45, tr.136-137.

(2)

Sđd, tr.145-146.

chéo, trùng lắp về chức năng nhiệm vụ giữa các cơ quan đảng và nhà nước, theo
Lênin: "Cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng (và
của
Ban chấp hành trung ương của nó) với nhiệm vụ của chính quyền Xô-Viết: tăng
thêm trách nhiệm và tính chủ động cho các cán bộ Xô- Viết và các cơ quan Xô- Viết,
còn về đảng thì dành quyền lãnh đạo chung công tác của tất cả các cơ quan nhà nước
gộp chung lại, mà không can thiệp một cách quá thường xuyên, không chính quy và
thường là nhỏ nhặt" (1).
Cùng với việc phân định rõ chức năng quyền hạn của bộ máy của đảng và bộ
máy của nhà nước. Lênin cũng chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản Nga không chỉ lãnh đạo
nhà nước mà lãnh đạo cả xã hội, và việc nhất thể hoá một số bộ phận, hoặc cán bộ
lãnh đạo của Đảng và chính quyền, sẽ không ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của
cả Đảng và chính quyền

(2)


. Theo Lênin, điều quan trọng là phải nhận thức sâu sắc

rằng, Đảng có chức năng lãnh đạo, còn Nhà nước có chức năng là quản lý hành
chính. Như vậy, Lênin đã khẳng định rất rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước. Lãnh đạo là công việc có những cách thức khác với quản lý. Quản lý của nhà
nước mang tính chất hành chính, có lúc cần phải sử dụng cả sự cưỡng bức, còn lãnh
đạo thì không thể có cưỡng bức. Lãnh đạo của đảng cần đến uy tín và có sức thuyết
phục cao, từ đó mới giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình.
Về nội dung lãnh đạo của đảng:
10


Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện trước hết ở nội dung lãnh đạo.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Cộng sản Nga đã lãnh đạo tổ
chức và hoạt động của bộ máy chính quyền Xô-Viết. Những nội dung lãnh đạo của
Đảng đã có những điểm mới so với trước đó, tức là chuyển trọng tâm từ việc lãnh
đạo giành chính quyền về tay giai cấp vô sản, sang trọng tâm thực hiện công cuộc
khôi phục phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Điều đó cho thấy, nội dung lãnh đạo của đảng khi đã nắm chính quyền có những
điểm khác so với nội dung lãnh đạo khi đảng chưa nắm được chính quyền. Chỉ khi
đảng nắm được chính quyền, những nội dung lãnh đạo mới được hiểu và biểu hiện
rõ là những nội dung lãnh đạo nhà nước của đảng.
(1)

Sđd, tập 45, tr. 75.

(2)

Sđd, Tập 43, tr. 17.


Nội dung lãnh đạo của đảng đối với nhà nước thể hiện chủ yếu và trước hết ở
việc đảng xác định các mục tiêu mang tính định hướng trong các chủ trương, đường
lối, cương lĩnh, nghị quyết của mình. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng cũng chính là
mục tiêu xác định cho Nhà nước phải đạt tới vì lợi ích của giai cấp công nhân và
toàn thể nhân dân lao động. Mục tiêu được phân ra theo các góc độ khác nhau như:
mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu tổng quát và mục tiêu riêng biệt đối
với từng lĩnh vực nào đó.
Mục tiêu lâu dài bao gồm những tiêu chí mà sự lãnh đạo của đảng cần phải đạt
tới sau một thời gian dài. Điều đó cũng có nghĩa là cương lĩnh của đảng đòi hỏi phải
có tầm nhìn xa trông rộng. Các mục tiêu hay những định hướng đường lối, chủ
trương đó của đảng cần phải được xây dựng một cách khoa học, tức là phải tuân theo
những quy luật khách quan và xuất phát từ thực tiễn để đảm bảo sự đúng đắn của
chúng.
Trong các chủ trương, đường lối, nghị quyết của mình, đảng còn phải xác định
cả những nhiệm vụ cho đảng và nhà nước. Có nhiệm vụ lâu dài, nhiệm vụ trước mắt
trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội. Trong tác phẩm "Những nhiệm vụ
trước mắt của Chính quyền Xô-Viết vào tháng 4/1918, Lênin viết rằng, sau khi Đảng
11


Cộng sản đã nắm được chính quyền thì "nhiệm vụ tổ chức quản lý nước Nga - hiện
đang được đề ra trước mắt chúng ta, đó là nhiệm vụ trước mắt. . . , nhiệm vụ quản lý
đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm. Chúng ta, đảng Bônsêvích, chúng ta đã
thuyết phục được nước Nga. Chúng ta đã giành được nước Nga.... Bây giờ, chúng ta
phải quản lý nước Nga. Và toàn bộ đặc điểm của tình thế hiện thời, tất cả sự khó
khăn là ở chỗ phải hiểu rõ những đặc điểm của bước chuyển từ nhiệm vụ chủ yếu là
thuyết phục nhân dân và dùng lực lượng quân sự trấn áp bọn bóc lột, sang nhiệm vụ
chủ yếu là quản lý"(1).
Việc xác định các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước trong các nghị quyết của

Đảng cần phải có sự định hướng vào các nhiệm vụ cấp thiết và mấu chốt, tức là cần
xác định các nhiệm vụ trọng yếu và phải tập trung vào giải quyết chúng. Theo Lênin:
"Chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản
với
(1)

Sđd, Tập 36, tr. 209.

tư cách là giai cấp lãnh đạo, thống trị, phải biết hướng chính sách vào việc giải quyết
trước tiên vấn đề cấp thiết nhất, "mấu chốt nhất" (1). Trong các nghị quyết của mình,
đảng cần xác định các nhiệm vụ chủ yếu và đề ra các biện pháp chỉ đạo thực hiện
trong thực tiễn. Các nhiệm vụ chủ yếu bao gồm: Công tác tư tưởng, xây dựng bộ
máy nhà nước và các tổ chức quần chúng; công tác xây dựng đảng, trong đó có đặc
biệt vấn đề tổ chức cán bộ và kiểm tra của đảng; nhiệm vụ trong các lĩnh vực phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Theo quan điểm của Lênin, trong nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Đảng không nên đề ra các nhiệm vụ quá chi tiết, nội dung giải quyết các công
việc quá cụ thể. Đảng chỉ cần định ra các phương hướng, nhiệm vụ chung về các mặt
và nguyên tắc chung về tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng:
Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ bao hàm nội dung mà vấn đề quan trọng đặc
biệt là phương thức lãnh đạo. Nghĩa là làm thế nào để đảng có thể chuyển tải các nội
dung lãnh đạo thành các chính sách của nhà nước, tạo ra sức ảnh hưởng của Đảng
12


đối với toàn xã hội. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội
được Lênin đề cập một cách khá rõ nét qua các phương thức chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng việc đề ra cương lĩnh chủ trương,
đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Để thực hiện được sứ mệnh của mình, Đảng

có trọng trách là lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội, những nội dung lãnh đạo được
xác định trong cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết của đảng là những vấn đề mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ trong các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế,văn hoá
xã hội mà Nhà nước là người có trách nhiệm phải thực hiện chúng.
Điều đó có nghĩa, với tư cách đảng lãnh đạo, những nội dung được đề ra bao hàm
các vấn đề về đường lối, quan điểm chính trị và nguyên tắc tổ chức liên quan tới
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội , phát triển văn hoá, giáo dục, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, truyền bá hệ tư tưởng cũng như đào tạo cán bộ, xây dựng bộ máy
nhà nước là thuộc về trách nhiệm của đảng, còn giải quyết và thực hiện cụ thể như
thế nào là trách nhiệm của nhà nước. Điều này cũng tức là phải có sự phân định rõ
chức năng
(1)

Sđd, Tập 43, tr.263.

lãnh đạo của đảng và chức năng quản lý của Nhà nước, giải quyết các công việc cụ
thể của nhà nước. Đảng không lãnh đạo nhà nước theo các nội dung như trên với
cách thức ra các mệnh lệnh từ trên ban xuống, buộc nhà nước phải thực hiện, theo
kiểu "Tôi có quyền, tôi ra lệnh thì anh phải phục tùng", mà lãnh đạo bằng việc đề ra
các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết. Tại Đại hội X Đảng Công sản Nga,
Lênin cũng chỉ rõ: Nhiệm vụ của Đảng chỉ là định ra những đường lối, nguyên tắc
và nêu ra khẩu hiệu: Đảng ta là một Đảng cầm quyền và những quyết định do đại hội
của đảng thông qua là những điều mà toàn nước Cộng hoà phải tuân theo (1).
Thứ hai: Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua tổ chức Đảng, đội ngũ cán bộ
đảng viên của Đảng trong bộ máy Nhà nước. Đây là phương thức lãnh đạo mang
tính phổ biến đối với mọi đảng cầm quyền. Tuy nhiên, ở mỗi nước cũng có những
đặc diểm riêng, tuỳ điều kiện cụ thể. Theo quan điểm của Lênin, đây là một trong
các phương thức lãnh đạo cơ bản, thể hiện như một trọng trách của Đảng cầm quyền.
13



Tại Đại hội VIII các Xô-Viết toàn Nga (2/1920), Lênin cũng viết rằng: "Chừng nào
một đảng cầm quyền còn quản lý, chừng nào đảng ấy còn phải giải quyết tất cả mọi
vấn đề về những sự bổ nhiệm khác nhau, thì anh không thể để có tình trạng là việc
bổ nhiệm các chức vụ nhà nước quan trọng nhất lại do một đảng không lãnh đạo tiến
hành” (2).
Theo quan điểm của Lênin, chỉ có thông qua đội ngũ đảng viên của Đảng cầm quyền
trong bộ máy Nhà nước, mọi hoạt động của Nhà nước mới đảm bảo theo đúng mục
tiêu của Đảng đã vạch ra. Như đã nêu ở trên, đảng lãnh đạo nhà nước trước hết là
bằng việc đề ra đường lối, cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Tuy nhiên, việc
thực hiện chúng là công việc rất khó khăn và đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ đảng.
Đó là những đảng viên, những cán bộ ủng hộ, phục tùng đường lối của đảng. Chỉ có
đội ngũ cán bộ này, các chỉ thị, nghị quyết của đảng mới được thể hiện trên thực tế.
Theo quan điểm của Lênin, những cán bộ đảng viên trong bộ máy Nhà nước phải
hoạt động làm sao bảo đảm vừa với tư cách là người đại diện cho đảng, vừa với tư
cách là người đại biểu của dân, tức người đại diện cho chính quyền.
(1)

Sđd, Tập 43, tr. 74.

(2)

Sđd, Tập 42, tr. 204 – 205.

Thứ ba: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra. Đây là phương thức
lãnh đạo đã được Lênin đề cập ở nhiều tác phẩm. Kiểm tra được coi là công việc
mấu chốt trong lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội. Lênin đã nhiều
lần nhấn mạnh, điểm trung tâm của công tác tổ chức là việc chọn người, giao việc và
kiểm tra hiệu quả chấp hành. Lênin còn chỉ thị: Hãy dành thời gian để tiến hành
kiểm tra công việc, kiểm tra công tác, "kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc

chấp hành thực tế công tác- mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách
hiện nay là ở đấy, vẫn ở đây và chỉ có ở đây"(1). Theo quan điểm của Lênin, các cơ
quan và cá nhân người lãnh đạo phải hết sức coi trọng công tác kiểm tra; tổ chức tốt
việc kiểm tra phải được coi là chức năng quan trọng của cơ quan và người lãnh đạo.
Lênin cho rằng, phải đi từ công tác kiểm tra để, một mặt, tác động tới bộ máy Nhà
nước, coi đây là điểm xuất phát và khâu trung tâm của phương thức lãnh đạo của
14


đảng đối với cơ quan nhà nước; mặt khác, thông quan công tác kiểm tra mà xem lại
tính đúng đắn, tính phù hợp của các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của đảng so với
thực tiễn, từ đó có những sửa đổi, bổ sung, phát triển sáng tạo các chủ trương, đường
lối, chỉ thị, nghị quyết của đảng(2). Như vậy, theo quan điểm của Lênin, trong quá
trình lãnh đạo, đảng không được chủ quan, thoả mãn với các quyết định, chủ trương
của mình mà luôn phải tổ chức sự kiểm tra tính đúng đắn của các chủ trương, quyết
định đó. Thông qua công tác kiểm tra mà phát hiện, sáng tạo ra cái mới, cái tốt
hơn, đề ra nội dung và phương thức lãnh đạo sát hợp hơn với thực tiễn cuộc sống.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua công tác kiểm tra. Tuy nhiên, ai là người
thực hiện sự kiểm tra đó? Lênin cho rằng, chính ngay những đảng viên của đảng
trong bộ máy nhà nước thực hiện sự kiểm tra đó. Tức các đảng viên của đảng phải là
những người đảm nhiệm việc kiểm tra các công việc của các cơ quan và cán bộ
công chức nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra, song để kiểm tra trong lãnh
đạo bảo đảm có hiệu quả, đảng cần phải biết cách kiểm tra, trong đó đặc biệt lưu ý
đến việc lôi cuốn quần chúng nhân dân vào công việc kiểm tra. Theo Lênin, kiểm
tra
(1)
(2)

Sđd, Tập 45, tr.19.

Sđd, tr 447

là công việc thường xuyên trong lãnh đạo của Đảng. Do vậy, Đảng cần phải thường
xuyên tổ chức cho quần chúng nhân dân thực hiện công việc kiểm tra, tham gia đóng
góp phê bình, kiểm soát hoạt động của các cơ quan và cán bộ công chức trong bộ
máy nhà nước.
Quần chúng nhân dân là những người ngoài đảng, đảng lôi cuốn họ vào kiểm
soát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tức là đảng đồng thời sử dụng họ kiểm
soát ngay chính các đảng viên của đảng đang nắm giữ các vị trí trong bộ máy nhà
nước. Trong huấn thị của Hội đồng lao động và quốc phòng gửi các cơ quan Xô-Viết
địa phương vào tháng 5/1921. LêNin còn viết ". . . cần phải duy trì sự kiểm soát và
sự lãnh đạo của những người cộng sản. Mặt khác, những người ngoài đảng cũng
15


phải kiểm soát các đảng viên; muốn vậy cần phải lôi kéo những nhóm công nhân,
nông dân ngoài đảng, đã được thử thách về phương diện trung thực của mình, vào
Bộ dân uỷ thanh tra công nông, và không kể họ ở chức vụ nào, lôi cuốn họ tham gia
một cách không chính thức vào việc kiểm tra và nhận xét công tác"(1).
Thứ tư: Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua công tác vận động quần chúng
nhân dân tham gia quản lý Nhà nước. Theo Lênin quần chúng nhân dân có vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Sự thắng lợi
của cách mạng XHCN, đảm bảo cho một Nhà nước vững mạnh đáp ứng yêu cầu
lãnh đạo của đảng phụ thuộc rất lớn vào lòng tin và khả năng vận động, tập hợp,
giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân dân đi theo đảng và tiến hành các hành động
cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng. Tuy nhiên, nếu không hiểu quần chúng,
không đáp ứng các nguyện vọng chính đáng của quần chúng thì đảng chẳng những
không lôi cuốn được quần chúng nhân dân tham gia vào quan lý nhà nước, mà đảng
cũng không lãnh đạo được nhà nước, ngay bản thân bộ máy của đảng và của nhà
nước cũng khó tồn tại được.

Để vận động, lôi cuốn quần chúng nhân dân tham gia vào các công việc quản lý
Nhà nước, Lênin còn cho rằng, Đảng cần phải sử dụng phương thức thuyết phục là
chính. Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội phải bằng phương thức thuyết phục và nêu
gương chứ không phải bằng mệnh lệnh, bằng sự cưỡng bức. Khi phê phán các quan
(1)

Sđd, Tập 43, tr. 336.

điểm sai lầm trong lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách
của đảng và nhà nước, Lênin đã viết : "Trước hết phải thuyết phục và sau đó mới
cưỡng bức. Dù thế nào đi nữa thì trước hết chúng ta cũng phải thuyết phục rồi sau đó
mới cưỡng bức. Chúng ta đã không biết thuyết phục quảng đại quần chúng và chúng
ta đã phá rối mối quan hệ đúng đắn giữa đội tiền phong và quần chúng”(1).
Hơn nữa, để lôi cuốn được quân chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
chấp hành các đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, đảng cần phải lấy những
thực tế sinh động, những tấm gương điển hình trong cuộc sống mà thuyết phục.
Lênin chỉ rõ:". . . đảng làm được công tác tuyên truyền của mình bằng hành động
16


thực tế hơn là bằng lời nói suông. Vì hiện giờ, bất luận đối với công nhân hay nông
dân, các đồng chí không thể lấy những lời nói suông mà thuyết phục họ được, mà
phải lấy thực tế mới thuyết phục nổi họ"(2).
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng
cộng sản việt nam và xây dựng một đảng trong sạch, vững mạnh.
* Về phương thức lãnh đạo của đảng
Sinh thời, Hồ Chí Minh từng nhiều lần khẳng định, Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Trong Di chúc, Người khẳng định một lần nữa: "Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần,
kiệm, liêm, chính chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng

đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"(3).
a) Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Với tư cách là Đảng cầm quyền, vấn đề Đảng lãnh đạo chính quyền được Hồ
Chí Minh coi là một nguyên tắc để đảm bảo Nhà nước là Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân. Những quan điểm chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh thể hiện
nguyên tắc đó:
- Mục tiêu sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho nhà nước giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân.
(1)

Sđd, Tập 35, tr. 68-69.

(2)

Sđd Tập 43, tr.65.

(3)

Sđd, Tập 42, tr.45.

Trong xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh coi tính chất giai cấp của nhà nước là
vấn đề cơ bản của hiến pháp. Ngay trong lời nói đầu của Hiến pháp năm 1959 ghi rõ:
nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông,
do giai cấp công nhân lãnh đạo(1). Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhân dân lao
động là lực lượng làm chủ nhà nước do giai cấp công nhân, mà đội tiên phong là
Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Trong quá trình lãnh đạo nhà nước, Đảng cần phải chú ý bảo đảm cho bộ máy
chính quyền cũng như cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh.
17



Hồ Chí Minh chú trọng việc Đảng cầm quyền phải xây dựng chính quyền thật
sự trong sạch, vững mạnh. Người nhấn mạnh những yêu cầu về cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Trong bức thư gửi uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng, tháng 10-1945, Người viết: "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính
phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị
của Pháp, Nhật.
Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta".
Hồ Chí Minh đặc biệt nhắc nhở các cấp chính quyền khắc phục những căn
bệnh, nhất là quan liêu, lãng phí, tham ô và những tiêu cực khác mà Người gọi đó là
giặc nội xâm.
Chuyển từ giai đoạn hoạt động bí mật sang giai đoạn hoạt động công khai, rồi hoạt
động với tư cách là đảng cầm quyền, cách thức lãnh đạo của đảng cũng có sự thay
đổi . Trong giai đoạn đảng cầm quyền, đảng đã cử nhiều đảng viên sang hoạt động
trong các cơ quan nhà nước, trong đó nhiều người giữ những trọng trách quan trọng.
Hồ Chí Minh phê bình một số cán bộ, đảng viên cậy thế mình là người của tổ chức
đảng để phớt lờ cả kỷ luật trong các cơ quan nhà nước. Người cho rằng, đảng viên
không những phải chấp hành Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng mà còn phải
phục tùng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
(1)

Sđd, Tập 42, tr.45.

b) Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp.
Theo Hồ Chí Minh, yêu cầu đầu tiên đối với Đảng cầm quyền là phải đề ra
được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối đó phải được thể chế hoá bằng
Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước.

Khi đề cập đến vấn đề nhà nước thì điều mà Người quan tâm là quyền lực đó
thuộc về ai. Nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải là bộ máy thể hiện
quyền lực của nhân dân lao động. Nhà nước phát huy dân chủ để động viên nhân dân
18


tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức Đảng trong
bộ máy Nhà nước bằng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức đó. Về mặt chức năng,
nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước có khác nhau. Do đó, cần phải phân biệt vai trò
lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Nhưng một đặc điểm của nước
ta từ năm 1945 cho đến năm 1975 là hệ thống chính trị chủ yếu dồn sức cho kháng
chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Trong điều kiện ấy,
vai trò quản lý toàn diện của Nhà nước chưa được thể hiện rõ nét. Vì vậy, có thể nói,
trong tư tưởng Hồ Chí Minh chưa có một sự phân định thực sự rành mạch về phạm
vi quyền hạn giữa Đảng và Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì với tư
cách là tổ chức chính trị cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra đường lối, chủ
trương và vận dụng thuyết phục các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội tham gia các
phong trào cách mạnh biến chủ trương, đường lối thành hiện thực.
c) Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, quyền lực của Đảng không tự nhiên mà có.
Quyền lực ấy là của Nhân dân; Nhân dân uỷ thác cho đảng đứng ra lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng. Cơ sở xã hội đối với quyền lực của Đảng không chỉ là từ giai cấp
công nhân mà còn là từ toàn thể nhân dân lao động. Khi cầm quyền, các tổ chức
Đảng đóng vai trò lãnh đạo một cách toàn diện; cán bộ, đảng viên thường giữ chức
vụ trong Đảng hoặc trong các tổ chức khác của hệ thống chính trị. Hồ Chí Minh
thường nhắc nhở các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chớ xa dân, chớ "vác mặt quan
cách mạng" để làm hại dân.
Điều đáng lưu ý là trong quan hệ với dân, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải chú ý
các vấn đề:

- Đảng phải luôn luôn lắng nghe ý kiến nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để xây dựng chế độ mới. Một đảng cầm quyền
chân chính đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động thì mặc nhiên, đảng đó phải
thường xuyên lấy nguồn gốc sức mạnh từ chính nhân dân.
- Đảng phải vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. đây là yêu cầu có ý
nghĩa sống còn đối với công tác xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh lưu ý nhân dân tham
19


gia xây dựng Đảng dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm đóng góp ý kiến cho
Đảng, nhất là trong việc xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng; tích cực thực
hiện đường lối, chủ trương đó trong cuộc sống; kiểm tra cán bộ, Đảng viên; giới
thiệu những người ưu tú để Đảng kết nạp vào hàng ngũ của mình.....
- Đảng phải tìm cách nâng cao dân trí cho dân. Theo Hồ Chí Minh, một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu, dốt là một thứ giặc nguy hiểm cần phải chống. Vì vậy, việc
nâng cao dân trí là trách nhiệm của Đảng.
- Đảng không được theo đuôi quần chúng, mà phải tuyên truyền giác ngộ quần
chúng, làm cho nhân dân giác ngộ cách mạng sẵn sàng đem sức mình thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng.
- Đảng phải xác định rõ trách nhiệm của mình: vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
* Về việc xây dựng một đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh đẻ làm tốt
phương thức lãnh đạo của đảng.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, để đảng lãnh đạo tốt, đảng phải vững mạnh; đảng
vững mạnh thì trước hết đảng phải trong sạch. Hồ Chí Minh cho rằng, việc xây dựng
một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh được thể hiện trên nhiều nội dung khác
nhau. Các nội dung trên đều liên quan mật thiết, bổ sung cho nhau và có tầm quan
trọng nhất định trong công tác xây dựng Đảng.
a) Đảng đó phải bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong xây dựng
đường lối, chiến lược và sách lược.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản trong một quốc gia thuộc địa, nửa phong kiến
cũng phần nào chịu ảnh hưởng của những tàn dư phong kiến, trong đó, điển hình là
hình thức chủ nghĩa cá nhân trong Đảng, biểu hiện ở việc đặt lợi ích riêng của mình,
của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích của dân tộc. Với thành công của Cánh
mạng Tháng Tám (1945), Đảng từ hoạt động bất hợp pháp sang hoạt động hợp pháp,
cầm quyền ở vị thế mới cũng làm nảy sinh tư tưởng thoả mãn trong một bộ phận cán
bộ đảng viên. Hơn nữa, do đa số đảng viên xuất thân từ công, nông nên về trình độ
văn hoá và lý luận nói chung còn nhiều hạn chế; tâm lý tiểu nông vẫn còn ở trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh nêu rõ,
20


phải chỉnh huấn, chỉnh đốn lại nội bộ Đảng, để cán bộ trong Đảng hiểu rõ lợi ích của
Đảng luôn gắn với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc, hiểu rõ hơn
nhiệm vụ của chính mình và mối quan hệ giữa việc thực hiện nhiệm vụ đó với sự
hoàn thành sự nghiệp của Đảng.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt
Nam, ngay từ năm 1927, trong tác phẩm "Đường cách mệnh", Hồ Chí Minh đã dẫn
lại câu nói trên của V.I.Lênin lên trang đầu, đồng thời nhấn mạnh: "Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không
có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"(1). Sự nhấn mạnh của
Người đã khẳng định vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin với Đảng và dân tộc, ví như là
kim chỉ nam cho hoạt động, là cái cẩm nang thần kỳ, bởi lẽ đây là sự tổng kết kinh
nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước.
Để xây dựng được một đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, theo Hồ Chủ
tịch:
Thứ nhất, cần phải nhất quán sự lựa chọn và khẳng định hệ tư tưởng, thế
giới quan và mục tiêu cần hướng tới của Đảng trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách

mạng, trong đó, mục tiêu này cũng cần thống nhất với mục tiêu của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Thứ hai, Thực hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ việc xây dựng và bảo vệ tư tưởng
của Đảng chính là bảo vệ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, vận
dụng sáng tạo những nguyên lý này theo từng giai đoạn cụ thể, tình hình cụ thể. Làm
(1)

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr.267- 268.

cho chủ nghĩa Mác- Lênin thấm sâu vào từng đảng viên, tổ chức cơ sở đảng, thực
sự là cơ sở từ tưởng cho hành động.
Thứ ba, xác định những nhận thức, quan điểm lệch lạc, sai trái (kể cả cố ý và vô
ý), để đấu tranh bảo vệ hệ tư tưởng, trong xây dựng đường lối, chiến lược và sách
lược của Đảng, qua đó từng bước nâng cao nhận thức, củng cố vững chắc quan
21


điểm, lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, phương pháp đấu tranh cho đội ngũ cán
bộ đảng và cho các tổ chức đảng.
Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì chí
khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương
hướng, kết quả là "mù chính trị", thậm chí hủ hoá, xa rời cách mạng"(1).
Thứ tư, thực hiện tốt tự phê bình trong học tập lý luận và chính trị của đảng
viên; chỉnh Đảng, chỉnh huấn để giáo dục, nâng cao nhận thức cho đảng viên. Cần
gắn học tập lý luận và chính trị trong mối quan hệ với nguyên tắc phê và tự phê để
tìm ra phương hướng, biện pháp và cách thức hiệu quả để tiếp tục học tập tốt hơn
nữa.
b) Xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi
giai đoạn cách mạng.
Khi nói về vai trò của tổ chức, theo Người, một khi đã có chính sách đúng, song

để chính sách này thành công hay thất bại trong thực hiện thì việc tổ chức thực hiện
có vai trò rất quan trọng, và việc này cũng cần có một tổ chức phù hợp(2).
Như vậy, vai trò tổ chức bộ máy của Đảng là rất quan trọng trong hoạt động tổ
chức triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng trong thực hiện. để tổ chức, bộ
máy này phát huy được hiệu quả thì vấn đề xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy này
như thế nào, ra sao là một yêu cầu cấp thiết, và đây cũng là một trong những nội
dung được quan tâm sâu sắc của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, đã được Người thể hiện cả trong các trước tác lẫn trong thực tiễn
xây dựng Đảng ta. Đó là:
- Mục tiêu của việc xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng là vì lợi ích
của nhân dân. Điều này xuất phát từ chính bản chất của một đảng Mác- Lênin chân
chính. Theo đó, lợi ích của nhân dân, dân tộc là mục tiêu cao nhất. Ngoài lợi ích của
(1)
(2)

Hồ Chí Minh, Toàn tập (12 tập), Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.234.
Hồ Chí Minh, Toàn tập (12 tập), Nxb CTQG, H, 2000, tập 8, tr.386.

dân tộc, tổ quốc và nhân dân, thì Đảng không có bất kỳ một lợi ích nào khác, bởi lẽ,
Đảng là một tổ chức xuất phát từ nhân dân, vì nhân dân mà được tổ chức ra, đó
22


"Không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải hoàn thành nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng"(1).
- Việc xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng phải giữ gìn sự thống nhất
của Đảng, bảo đảm sự đoàn kết trong nội bộ Đảng.
- Cần chỉnh đốn, kiện toàn bộ máy của Đảng từ trên xuống dưới một cách gọn
gàng, hợp lý, ít người mà làm được nhiều việc có lợi cho nhân dân.
- Thực hiện tốt nguyên tắc "dân chủ tập trung" trong xây dựng và kiện toàn bộ

máy tổ chức của Đảng; thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng.
- Kiện toàn tổ chức, bộ máy của đảng cần được thực hiện một cách thận trọng,
vững chắc, tránh nóng vội; thực hiện rộng rãi trong quần chúng để huy động được tối
đa những cá nhân tích cực, nhiệt tình cách mạng trong bộ máy của Đảng.
c) Xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới.
Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng công tác cán bộ của Đảng, coi đó là một
nội dung quan trọng trong xây dựng bộ máy, tổ chức của Đảng và Nhà nước. Và
trong tư tưởng của Người, vấn đề cán bộ trong sự nghiệp cách mạng luôn được đặt
trong mối quan hệ đa chiều, biện chứng. Người nhấn mạnh, "Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc", và "muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém".
Xây dựng, kiện toàn bộ máy tổ chức của Đảng thông qua việc xây dựng đội ngũ cán
bộ vừa hồng, vừa chuyên là một trong những quan tâm sâu sắc của Hồ Chí Minh cả
về lý luận và hoạt động thực tiễn. Đây là một quá trình vừa cấp bách, vừa lâu dài,
với những nội dung hết sức phong phú, đa dạng, từ tuyển chọn cán bộ, đến đào tạo,
bố trí, đánh giá và đãi ngộ cán bộ.
d) Về tuyển chọn cán bộ của Đảng.
(1)

Hồ Chí Minh, Toàn tập (12 tập), Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.249.

Đây là một nội dung quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Chất lượng
của cán bộ ra sao, như thế nào phụ thuộc rất lớn vào khâu này. Theo Hồ Chí Minh,
người cán bộ mẫu mực cần được tuyển chọn là những người có những đặc điểm sau:
23


Đêm ngày nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại. Hy sinh tiền
bạc, thời gian và cả máu vì lợi ích các dân tộc bị áp bức; tóm lại, phải vị tha và

không ích kỷ, phải tuân thủ theo phương châm "Tổ quốc là trên hết" ở mọi nơi và
mọi lúc.
Làm việc không mệt mỏi tuỳ theo phương tiện và năng lực của mình. Xem
thường cái chết, bất chấp hiểm nguy.
Thuận theo hoàn cảnh về thời gian, không gian, không bỏ qua điều gì; luôn
luôn nói và hành động một cách có ý thức. Suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động.
Lãnh đạo, hướng dẫn, giáo dục nhân dân, tạo sự tin cậy từ nhân dân để có thể
sử dụng sức mạnh của nhân dân cho sự nghiệp cách mạng.
Xem thường danh vị, ngôi thứ và tiền bạc; không cục bộ, không kiêu ngạo,
kiên trì và nhẫn lại. Thực sự khiêm tốn, khoan hoà, lượng thứ đối với đồng
nghiệp và nhân dân.
e) Về đào tạo cán bộ của Đảng:
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của đào tạo, học tập nâng cao trình độ của cán bộ
đảng viên và những cách thức, biện pháp chính để đạt mục đích đó. Về mục đích của
đào tạo, học tập nâng cao trình độ là "để làm việc, làm người, làm cán bộ"; để phụng
sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại. Muón đạt mục đích trên thì
cần phải "cần, kiệm, liêm , chính, chí công, vô tư".
Đào tạo cán bộ cần thực hiện một cách tổng hợp, từ đào tạo văn hoá, kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ đến lý luận, chính trị; tức là tạo cho được một đội ngũ cán
bộ "vừa hồng, vừa chuyên". Theo đó, nội dung đào tạo cần xuất phát từ yêu cầu
thực tế, thiết thực, không phô trương, hình thức; cần, "mở lớp nào cho ra lớp ấy, lựa
chọn người dậy và người đến học cho cẩn thận, đừng mở lớp lung tung" (1). Mỗi
người cần biết một nghề, làm nghề gì phải đào tạo thạo nghề ấy; cán bộ lãnh đạo cần
biết chuyên môn của ngành mình lãnh đạo. Việc học tập cần học một cách cặn kẽ,
thấu đáo, cụ thể và sâu sắc đến tận bản chất của vấn đề.
(1)

Hồ Chí Minh, Toàn tập (12 tập), Nxb CTQG, H., 1996, tập 6, tr.52.

Song, để thực hiện tốt đào tạo cán bộ thì khâu lựa chọn người dậy và học cần hết

sức kỹ càng; tổ chức lớp học cần phù hợp với yêu cầu thực tiễn; phương pháp dạy và
24


học cần khoa học. Đối với người dậy thì, người dậy nghề nào phải tinh thông nghề
đó, luôn trau rồi nghề đó. Người đào tạo về lý luận cần phải thông suốt, nắm vững
các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, đường lối cách mạng của Đảng,
kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; có tư cách đạo đức cách mạng, hết lòng vì
Đảng, vì Tổ quốc và nhân dân, luôn tự mình rèn luyện đức tính: Nhân, Nghĩa, Trí,
Dũng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, có lề lối làm việc nghiêm túc, khoa học, chống bệnh
chủ quan, hẹp hòi và ba hoa. Đối với người học, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng
phương thức tự học, tự đào tạo, coi đây là phương thức chính; nhận thức của người
học về mục đích của việc học và đào tạo; cách thức tổ chức đào tạo và học tập, vừa
là một trong những mục đích của học tập, vì: "Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng:
Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tuỵ với cách mạng, mới lãnh đạo được
quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn"(1).Trong sửa đổi lối làm việc, viết
tháng 10/1947, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của đạo đức cách mạng mà mỗi cán
bộ cần luôn tu dưỡng, học tập. Người so sánh: "Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người
là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã
hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?"(2).
f) Về bố trí, sử dụng và đánh giá cán bộ của Đảng.
Lựa chọn và đào tạo cán bộ đã quan trọng, song bố trí và sử dụng cán bộ lại
càng quan trọng, để "cán bộ quyết định mọi việc" tốt thì cần phải có cán bộ tốt và
khéo sử dụng cán bộ, để cán bộ phát huy được năng lực, sở trường, sở đoản của
mình một cách hiệu quả nhất. Hồ Chí Minh cũng cho rằng, "dụng nhân như dụng
mộc", tránh dùng cán bộ "một bề". Nghĩa là, cần thấy chỗ tốt, chỗ xấu của cán bộ,
thấy mặt ưu hay mặt khuyết của từng cán bộ để đặt đúng người, đúng việc phù

hợp, nhằm
(1)

Hồ Chí Minh, Toàn tập (12 tập), Nxb CTQG, H., 1996, tập 6, tr.50.

(2)

Hồ Chí Minh, Toàn tập (12 tập), Nxb CTQG, H., 2000, tập 5, tr.252-253.
25


×