Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Ý thức pháp luật tiêu cực ở việt nam từ truyền thống đến hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO THỊ THỤC CHI

ý THøC PH¸P LUËT TI£U CùC ë VIÖT NAM:
Tõ TRUYÒN THèNG §ÕN HIÖN §¹I

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO THỊ THỤC CHI

ý THøC PH¸P LUËT TI£U CùC ë VIÖT NAM:
Tõ TRUYÒN THèNG §ÕN HIÖN §¹I
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đào Thị Thục Chi


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ Ý THỨC PHÁP
LUẬT TIÊU CỰC ....................................................................................... 9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, cấu trúc và phân loại ý thức pháp luật tiêu cực ........9

1.1.1.

Khái niệm ý thức pháp luật tiêu cực ............................................................. 9


1.1.2.

Đặc điểm của ý thức pháp luật tiêu cực ...................................................... 10

1.1.3.

Cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực ........................................................ 11

1.1.4.

Phân loại ý thức pháp luật tiêu cực ............................................................. 13

1.2.

Biểu hiện của thức pháp luật tiêu cực .....................................................13

1.2.1.

Tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật .................................... 13

1.2.2.

Thái độ tiêu cực về pháp luật ...................................................................... 14

1.2.3.

Tình cảm tiêu cực đối với pháp luật ............................................................ 17

1.3.


Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực .................................................17

1.3.1.

Hành vi cố tình làm trái pháp luật, vi phạm pháp luật ................................ 17

1.3.2.

Các văn bản quy phạm pháp luật lạc hậu, không khả thi, không công
bằng và khách quan ..................................................................................... 18

1.3.3.

Những phát biểu, những bài báo thể hiện sự yếu kém và sai lệch trong
nhận thức về pháp luật................................................................................. 18

1.4.

Các yếu tố tác động đến ý thức pháp luật tiêu cực ................................19

1.4.1.

Các yếu tố vật chất – kinh tế ....................................................................... 19

1.4.2.

Yếu tố tư tưởng ........................................................................................... 21

1.4.3.


Ý thức đạo đức, tập quán, truyền thống ...................................................... 23

1.4.4.

Chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật ................................................ 26

1.4.5.

Thông tin pháp luật ..................................................................................... 27

1.4.6.

Giáo dục và tuyên truyền pháp luật ............................................................. 29


1.5.

Tiêu chí để nhận diện ý thức pháp luật tiêu cực ....................................30

1.6.

Hệ quả của ý thức pháp luật tiêu cực ...................................................... 36

Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 38
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC Ở
NƢỚC TA. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG ĐÓ ..................... 39
2.1.

Thực trạng của ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc ta ..............................39


2.1.1.

Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ giai đoạn dựng nước đến
trước thời kỳ đổi mới ................................................................................... 39

2.1.2.

Thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam giai đoạn từ đổi mới
đến nay ........................................................................................................ 54

2.2.

Nguyên nhân của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc ta
hiện nay.......................................................................................................66

2.2.1.

Nguyên nhân khách quan ............................................................................ 67

2.2.2.

Nguyên nhân chủ quan ................................................................................ 71

Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 74
CHƢƠNG 3: NHỮNG YÊU CẦU, GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT TIÊU CỰC .........................................................................75
3.1.

Những yêu cầu về việc khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc

ta hiện nay ..................................................................................................75

3.1.1.

Yêu cầu, đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển kinh tế thị trường, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ........ 75

3.1.2.

Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân ............................................................................ 76

3.1.3.

Yêu cầu về xây dựng con người toàn diện .................................................. 79

3.1.4.

Yêu cầu về đổi mới hệ thống chính trị ........................................................ 79

3.1.5.

Yêu cầu của công cuộc hội nhập quốc tế .................................................... 82

3.2.

Một số giải pháp khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam
hiện nay ......................................................................................................83

3.2.1.


Tạo ra một môi trường pháp lý thích hợp cũng như cơ sở vật chất kinh tế cho ý thức pháp luật tích cực phát triển .......................................... 83


3.2.2.

Nhận thức lại và thay đổi những tư tưởng, quan điểm pháp luật, đặc
biệt là tư duy pháp lý sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội và điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay ........................................................ 84

3.2.3.

Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức giám sát
việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật trong đời sống .................................... 85

3.2.4.

Có các cơ chế làm tăng hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật ............ 87

3.2.5.

Củng cố hành lang pháp lý nhằm bảo vệ quyền con người, bảo đảm
công lý, bình đẳng cho mọi người dân, thực hiện hiệu quả nguyên tắc
dân chủ ........................................................................................................ 90

3.2.6.

Tăng cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý
thức pháp luật cho các chủ thể nhận thức trong hoạt động thực tiễn .......... 91


3.2.7.

Đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu mỗi cơ quan nhà nước......... 95

3.2.8.

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành văn hóa
liêm chính ................................................................................................... 96

3.2.9.

Khuyến khích và tạo môi trường, điều kiện để người dân sử dụng
quyền hợp pháp ........................................................................................... 98

3.2.10. Nâng cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội theo định hướng bảo
đảm tính tiên tiến và bản sắc dân tộc ........................................................... 99
Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................. 101
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 103


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
Biểu đồ 2.1

Tên biểu đồ
Thống kê kết quả điều tra về các chuẩn mực sinh viên căn
cứ để giải quyết mâu thuẫn hoặc xung đột


Biểu đồ 2.2

Trang

61

Thống kê điểm CPI về chỉ số cảm nhận mức độ tham
nhũng ở Việt Nam

64


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là
một trong những nhiệm vụ hàng đầu trên con đường đưa đất nước ta vững bước tiến
lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công việc này đòi hỏi sự chung tay của
toàn Đảng, toàn dân cùng đồng lòng, chung sức quyết tâm thực hiện. Nội dung không
thể thiếu của Nhà nước pháp quyền là việc xây dựng một xã hội kỷ cương trong đó
mỗi người dân phải có ý thức tuân thủ pháp luật, phải có thói quen và lối sống theo
Hiến pháp, pháp luật. Trình độ nhận thức và thực hành các quyền và nghĩa vụ công
dân là điều kiện thiết yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự
hiểu biết đầy đủ và chính xác về pháp luật sẽ làm tăng niềm tin của người dân đối với
pháp luật cũng như nhà nước, góp phần định hướng hành vi đúng đắn của người dân.
Chính vì vậy, quan tâm, lựa chọn những giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật
cho nhân dân là một điều vừa cấp thiết, vừa mang tính thường xuyên, liên tục, nhất là
trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế hiện nay.
Thực tế ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, pháp luật chưa thực sự đi vào
đời sống, chưa phải là một công cụ không thể thiếu để điều chỉnh xã hội. Ý thức

pháp luật của người dân còn theo chiều hướng tiêu cực. Các biểu hiện và sản phẩm
của ý thức pháp luật tiêu cực rất đa dạng như tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực;
thiếu hiểu biết pháp luật; không thừa nhận các giá trị của pháp luật hay thực hiện
hành vi trái pháp luật…trở nên khá phổ biến trong đời sống nhân dân; đặc biệt nó
lại trở nên phức tạp và đa dạng hơn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế ngày nay. Nguyên do của vấn đề trên là bởi một mặt, chúng ta chưa có
một hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn chỉnh, chưa bắt kịp sự phát triển của xã hội;
mặt khác, ý thức pháp luật tiêu cực của người dân còn rất phổ biến.
Từ việc nghiên cứu về thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực của người dân
Việt Nam từ thực tiễn lịch sử từ thời kỳ lập quốc cho tới hiện nay sẽ cho chúng ta
một góc nhìn khách quan, đa chiều và khái quát nhất về vấn đề này, tránh tình trạng

1


lý giải nguyên nhân và thực trạng một cách không có căn cứ và không nằm trong
mối liên hệ của sự phát triển. Ý thức pháp luật tiêu cực của người dân hình thành và
phát triển đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, truyền thống dân
tộc, văn hóa của các quốc gia, dân tộc đó cùng những quy luật đặc thù do điều kiện
cụ thể đó quy định.
Vì vậy, muốn hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực, xây dựng và nâng cao ý thức
pháp luật tích cực, trước hết chúng ta cần phải nhận thức đúng quy luật hình thành
và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực, những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình
này. Dựa trên cơ sở đó, chúng ta mới đưa ra được những phương hướng, giải pháp
đúng đắn để nâng cao hiệu quả tác động về mọi mặt nhằm tạo tiền đề cơ bản cho
việc nâng cao ý thức pháp luật của các công dân trong xã hội.
Yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền cùng nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế đang đặt ra thách thức đối với công cuộc đổi mới con người toàn
diện – trở thành những công dân có ý thức pháp luật, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật. Đây là lúc chúng ta cần nhìn nhận lại một cách khách quan và

toàn diện về vấn đề ý thức pháp luật tiêu cực – rào cản lớn nhất của công cuộc đổi
mới con người toàn diện ở thời đại mới hiện nay. Do đó, tôi chọn đề tài: “Ý thức
pháp luật tiêu cực ở Việt Nam: từ truyền thống đến hiện đại" để nghiên cứu và
trình bày thành công trình khoa học nhằm giành học vị thạc sỹ luật học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là bước đầu làm rõ các biểu hiện cũng
như quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ
quá khứ cho đến hiện tại; từ đó tìm ra những nguyên nhân của thực trạng này một
cách đa chiều và khách quan nhất; đồng thời đóng góp một số phương hướng và
giải pháp nhằm cải thiện thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực, góp phần nâng cao ý
thức pháp luật trong người dân trong thời kỳ mới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Xác định được nội hàm các khái niệm “ý thức pháp luật tiêu cực”; đặc điểm
và cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực; chỉ ra được các biểu hiện cũng như các

2


sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực; các yếu tố cơ bản có ảnh hưởng tới quá
trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật tiêu cực; cũng như các tiêu chí để hạn
chế ý thức pháp luật tiêu cực.
- Chỉ ra được thực trạng hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu
cực của người dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Khái quát được những nguyên
nhân của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực của người dân Việt Nam hiện nay;
- Từ việc làm rõ những vấn đề đang đặt ra, luận văn đề xuất một số giải pháp
cơ bản để giải quyết những vấn đề đó. Từ đó, chúng ta có thể thúc đẩy quá trình
hình thành, phát triển ý thức pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao ý thức pháp luật
của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Luận văn đã trình bày và thể hiện tương đối có hệ thống các yếu tố cơ bản

ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực.Trước
đây, chúng ta chỉ nghiên cứu chung về phương diện ý thức pháp luật nói chung
nhưng chưa có nghiên cứu chuyên sâu về mặt tiêu cực trong ý thức pháp luật. Luận
văn bước đầu có những nghiên cứu về vấn đề này, chỉ ra được những nội hàm cơ
bản của ý thức pháp luật tiêu cực, các biểu hiện cũng như sản phẩm của ý thức pháp
luật tiêu cực, các tiêu chí để hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực.
- Làm rõ và phân tích thực trạng của quá trình hình thành và phát triển ý thức
pháp luật tiêu cực ở Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đến ngày nay để tìm ra
được nguyên nhân của thực trạng này một cách khách quan và đa chiều nhất.
- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp góp phần hạn chế và cải thiện ý
thức pháp luật tiêu cực, nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân ta trong giai
đoạn hiện nay..
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam
từ truyền thống cho đến hiện đại.
- Phạm vi nghiên cứu

3


Luận văn nghiên cứu về ý thức pháp luật tiêu cực ở các phương diện như:
khái niệm, các biểu hiện và các sản phẩm, các yếu tố tác động, thực trạng cũng như
nguyên nhân của ý thức pháp luật tiêu cực.
Khi nghiên cứu về ý thức pháp luật nói chung và ý thức pháp luật tiêu cực
nói riêng, thông thường chúng ta sẽ có cách tiếp cận trên các đối tượng khác nhau
như: ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và ý
thức pháp luật tiêu cực của toàn xã hội. Tuy nhiên, vì giới hạn dung lượng cũng như
bản thân tác giả luận văn muốn tập trung nghiên cứu chuyên sâu hơn nên luận văn
có giới hạn phạm vi nghiên cứu là ý thức pháp luật của các cá nhân người dân – bộ

phận những người không trực tiếp có quyền lực trong tay. Tuy nhiên, trong quá
trình nghiên cứu, tác giả luận văn vẫn nhìn nhận rằng ý thức pháp luật tiêu cực của
cá nhân, của nhóm hay của xã hội đều có sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau.
Đặc biệt luận văn nghiên cứu, khai thác vấn đề theo chiều dài của lịch sử
Việt Nam từ thời kỳ lập nước đầu tiên đến thời điểm hiện nay để có góc nhìn đa
chiều, khách quan về vấn đề này. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp phù hợp với
sự phát triển của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực trong thời kỳ lịch sử mới, để
khắc phục thực trạng này, cũng như tạo được những tiền đề cơ bản góp phần xây
dựng và nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nội dung liên quan đến ý thức pháp luật, thời gian qua đã có nhiều tác
giả quan tâm và nghiên cứu dưới những góc độ và mức độ khác nhau. Điều đó tùy
thuộc vào mục đích nghiên cứu và các phương pháp sử dụng cụ thể.
5.1. Các công trình, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước
"Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" (Đề tài
KX-07-17, Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật);
"Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng" (Đề tài KHXH 05.05. Chủ nhiệm: GS.TSKH Đào Trí Úc)...
5.2. Luận án tiến sĩ
“Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam”, Luận án phó tiến sĩ
của Lê Đình Lập, 1997.

4


“Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam”,
Luận án Tiến sĩ của Đào Duy Tấn. Luận án đã nghiên cứu và chỉ ra những quy luật
của sự hình thành ý thức pháp luật; những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức
pháp luật ở Việt Nam (có ảnh hưởng của lệ làng; tư tưởng phong kiến Trung Quốc,
thực dân xâm lược; chiến tranh; cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; nền kinh tế thị

trường…); từ đó, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức pháp luật
của người dân.
5.3. Sách, báo, tạp chí
5.3.1. Sách
Sách chuyên khảo “Xã hội và pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
1994. Các tác giả của cuốn sách đã xem xét vị trí, vai trò của pháp luật trong hệ
thống các quy tắc xã hội và cho rằng pháp luật là một giá trị xã hội to lớn cần được
duy trì và phát triển. Trong cuốn sách có một số bài trình bày sự ảnh hưởng của các
yếu tố văn hóa làng, cộng đồng truyền thống, chiến tranh, các hệ thống pháp luật
nước ngoài đối với sự hình thành và phát triển của pháp luật và ý thức pháp luật ở
Việt Nam. Các tác giả cũng nhận định rằng, đây là những yếu tố không thể không
tính đến khi xây dựng và ban hành pháp luật ở nước ta.
Sách chuyên khảo “Bàn về giáo dục pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, 1995, Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai. Tác giả cuốn sách nghiên cứu vấn
đề bản chất giáo dục pháp luật, quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục tư
tưởng, chính trị, đạo đức; mục đích và vai trò của giáo dục pháp luật; nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục pháp luật.
Sách chuyên khảo “Giáo dục pháp luật và quá trình hình thành nhân cách”,
Nhà xuất bản Pháp lý, 1990, Nguyễn Đình Đăng Lục. Tác giả cuốn sách phân tích
sự hình thành của nhân cách và vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành
nhân cách của người chưa thành niên; pháp luật và đặc điểm của giáo dục pháp luật
đối với người chưa thành niên. Tác giả nhấn mạnh công tác giáo dục cần chú ý tới
yếu tố tư tưởng, tình cảm, tâm lý… của độ tuổi chưa thành niên.

5


5.3.2. Báo, tạp chí
“Bàn về ý thức pháp luật”, Tạp chí Luật học, GS.TS Hoàng Thị Kim Quế,
2003. Bài viết chỉ ra nội hàm của khái niệm ý thức pháp luật. Đồng thời, tác giả bài

viết cũng chia sẻ vấn đề trước đây, mọi người hầu như chỉ đề cập đến tâm lý pháp
luật mà chưa có sự quan tâm thỏa đáng đến hệ tư tưởng pháp luật (quan điểm, lý
luận, tư tưởng, khoa học pháp lý…) Những sản phẩm của ý thức pháp luật: nền
khoa học pháp ý, tư duy pháp lý, hệ thống các văn bản pháp luật, lối sống tuân theo
pháp luật, nhu cầu về thông tin pháp luật.
“Ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
Nguyễn Thị Hồi, 2008. Tác giả bài viết đã nhận định hai hiện tượng ý thức pháp
luật và văn hóa pháp luật luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và có tác động đến suy nghĩ
và nhận thức về hành vi pháp luật của các cá nhân, cũng như có vai trò quan trọng
trong quá trình hoàn thiện pháp luật.
“Yếu tố tâm lý pháp luật trong quá trình nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2004, Nguyễn Minh Đoan. Tác giả bài viết
tập trung phân tích vai trò của tâm lý pháp luật trong việc củng cố và nâng cao ý
thức pháp luật; đồng thời chỉ ra những biểu hiện của ý thức pháp luật tiêu cực để từ
đó đề ra những giải pháp nhằm có những đổi mới tích cực trong ý thức pháp luật ở
Việt Nam hiện nay.
“Ý thức pháp luật và đời sống xã hội”, Tạp chí Luật học, 2006, Nguyễn Minh
Đoan. Tác giả bài viết phân tích mối quan hệ giữa ý thức pháp luật với việc hoàn
thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Ý thức pháp luật bao gồm tất cả các
khía cạnh của đời sống pháp lý, là hệ thống lý luận thống nhất, nhất quán về pháp
luật. Theo tác giả, ý thức pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xây dựng
pháp luật của nhà nước và sự tuân thủ pháp luật hiện hành trên quy mô toàn xã hội.
“Luật nước và hương ước lệ làng trong đời sống pháp lý của các cộng đồng
làng xã Việt Nam”, Lê Minh Thông. Tác giả bài viết chỉ ra mối quan hệ có sự tác
động qua lại giữa luật nước với lệ làng – là hai mặt của một thể chế chính trị pháp lý
được quy định và chi phối bởi các điều kiện lịch sử cụ thể. Đồng thời, tác giả có

6



những đề xuất về việc phát huy các tư tưởng tốt đẹp của hương ước nhằm tạo dựng
môi trường pháp lý mới ở nông thôn Việt Nam.
“Những đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng đến ý thức pháp luật của người Việt
Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2018, Phạm Vĩnh Hà. Tác giả bài viết đóng
góp một góc nhìn về mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và tâm sinh lý của người
Việt Nam. Các đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng đến ý thức pháp luật là cố kết cộng
đồng, tâm lý đám đông, thụ động, coi trọng tình cảm, thờ ơ, vô cảm…
“Xây dựng lối sống theo pháp luật: Nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 1993, Vũ Minh Giang. Bài viết đề cập đến việc xây
dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống của nước ta. Vấn
đề này được tác giả trình bày qua ba nội dung chính: vấn đề luật và tục trong lịch sử
Việt Nam; vấn đề ý thức công dân và lối sống theo pháp luật; một số ý kiến của tác
giả nhằm xây dựng lối sống theo pháp luật dựa trên các yếu tố lịch sử truyền thống
và tình hình thực tế.
Trong các công trình này, các tác giả đã đề cập một số vấn đề rất cơ bản,
như: tổng quan, nội hàm của ý thức pháp luật dưới góc nhìn lý luận và pháp lý; yếu
tố tư tưởng và tâm lý pháp luật; thực trạng hiểu biết pháp luật của người dân; việc
giáo dục pháp luật và những vấn đề đang đặt ra ở thời điểm hiện nay…
Nhìn tổng thể, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu và nhiều công trình được
xuất bản về ý thức pháp luật, nhưng chưa có nhiều các nghiên cứu về sự phát triển
của ý thức pháp luật tiêu cực theo chiều dài của lịch sử cũng như những đòi hỏi đặt
ra của quá trình nâng cao ý thức pháp luật để phù hợp với những điều kiện khách
quan của thời đại ngày nay.
6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa: chủ nghĩa duy vật lịch sử,
chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Các phương pháp khác như phương pháp phân tích, phương pháp thống kê,
khảo sát, phương pháp logic, phương pháp đối chiếu, so sánh, phương pháp chứng
minh, phương pháp tổng hợp.


7


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng
khảo sát, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về ý thức pháp luật tiêu cực.
Chương 2. Thực trạng của ý thức pháp luật tiêu cực ở nước ta. Nguyên nhân
của thực trạng đó.
Chương 3. Những yêu cầu và giải pháp khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực.

8


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, cấu trúc và phân loại ý thức pháp luật tiêu cực
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật tiêu cực
Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về ý thức pháp luật tiêu cực. Ý
thức pháp luật tiêu cực là mặt tiêu cực của ý thức pháp luật. Cũng như ý thức pháp
luật, ý thức pháp luật tiêu cực là một bộ phận của ý thức xã hội ra đời từ thực tiễn
đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật tiêu cực cũng xuất hiện
cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế - xã hội mà
trước hết, là những quan hệ sản xuất được thể hiện trong các luật lệ nhà nước. Ý
thức pháp luật tiêu cực xuất hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật. Nó là sản
phẩm của quá trình phát triển xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các hệ tư tưởng,
quan điểm, quan niệm trong xã hội.
Dưới góc độ tiếp cận luật học, có thể quan niệm về ý thức pháp luật tiêu cực
là trình độ hiểu biết hạn chế hoặc không đúng đắn của các tầng lớp nhân dân về

pháp luật..., là thái độ tiêu cực đối với pháp luật, ý thức không tôn trọng hay coi
thường pháp luật, đó là thái độ tiêu cực đối với hành vi phạm pháp luật và phạm tội.
Bên cạnh đó, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất: “Ý thức pháp luật
tiêu cực là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình cảm, sự
đánh giá một cách tiêu cực của con người về pháp luật trên các phương diện, tiêu
chí cơ bản như: không thấy được sự cần thiết của pháp luật; xem nhẹ hoặc phủ
định vai trò, chức năng của pháp luật; cảm nhận tiêu cực về tính công bằng hay
không công bằng của pháp luật, đúng đắn hay không đúng đắn của các quy định
pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật cần phải có. Suy
nghĩ tiêu cực về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của cá nhân, nhà
nước, các tổ chức xã hội”
Quan niệm này theo tác giả là khá đầy đủ, chi tiết, nói lên được các mặt của ý

9


thức pháp luật tiêu cực (chủ thể của ý thức pháp luật tiêu cực, trình độ hiểu biết đối
với pháp luật và thái độ, sự đánh giá, điều chỉnh hành vi con người theo pháp luật)
1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật tiêu cực
Về cơ bản, cũng như ý thức pháp luật mà các nhà nghiên cứu đều thống nhất
với nhau, ý thức pháp luật tiêu cực có đặc trưng như sau:
Thứ nhất, ý thức pháp luật tiêu cực là một hình thái ý thức xã hội có tính độc
lập tương đối. Với tư cách là một bộ phận của ý thức xã hội, ý thức pháp luật tiêu
cực xuất hiện, nảy sinh trên nền tảng tồn tại xã hội nhất định, cụ thể là nó ra đời,
biến đổi cùng với nhà nước và pháp luật, tức là khi xã hội đã phân chia thành giai
cấp. Ý thức pháp luật tiêu cực bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ý thức
pháp luật tiêu cực cũng có tính độc lập tương đối, được biểu hiện cụ thể như sau:
- Ý thức pháp luật tiêu cực thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Mỗi kiểu nhà nước và pháp luật mới ra đời tương ứng với một kiểu phương thức sản
xuất đã không còn, nhưng ý thức pháp luật của nó vẫn có thể tồn tại dai dẳng trong

tồn tại xã hội mới. Những ý thức pháp luật còn tồn tại đó chính là ý thức pháp luật
tiêu cực, đã không còn phù hợp với tồn tại của xã hội mới, là rào chắn của sự phát
triển mặt tích cực của ý thức pháp luật. “Có khi văn bản pháp luật mới đã ra đời
hoặc thực tiễn áp dụng pháp luật đã thay đổi nhưng nhiều cá nhân chưa nắm bắt
được do nhiều lý do khác nhau. Hoặc có sự chậm trễ trong việc tiếp cận với tư duy
pháp lý mới của thế giới, của nền luật học nước nhà” [25, tr.12].
- Sự tác động ngược lại của ý thức pháp luật tiêu cực đối với tồn tại xã hội và
đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Sự phụ thuộc vào tồn tại xã hội của ý thức
pháp luật tiêu cực cũng chỉ mang tính tương đối, ý thức pháp luật tiêu cực đến lượt
mình có tác động trở lại vô cùng lớn đối với sự tồn tại xã hội, ý thức chính trị, đạo
đức và các yếu tố thượng tầng kiến trúc chính trị - pháp lý như nhà nước và pháp
luật. Những biểu hiện cũng như sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực như tư
tưởng, lý thuyết sai lầm, những quan điểm lệch lạc, thái độ coi thường pháp luật,
hành vi vi phạm pháp luật… có tác động tiêu cực đến sự phát triển của xã hội, đến
môi trường văn hóa pháp lý và văn hóa đạo đức.

10


Thứ hai, ý thức pháp luật tiêu cực là hiện tượng mang tính giai cấp. Trong xã
hội có sự phân chia giai cấp, các giai cấp khác nhau luôn có những điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội khác nhau, lợi ích khác nhau và do vậy, ý thức pháp luật tiêu cực
của các giai cấp cũng có những nội dung và hình thức phát triển khác nhau.
Giai cấp thống trị, vì muốn củng cố, duy trì, bảo vệ địa vị chính trị và lợi ích
kinh tế của giai cấp mình, nên luôn luôn tìm mọi cách để hợp thức hóa ý chí của giai
cấp mình thành pháp luật thông qua con đường nhà nước. Pháp luật thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị. Ý chí đó được nâng lên thành luật, thành các quy tắc ứng xử mang
tính chất bắt buộc phải thực hiện đối với toàn xã hội. Pháp luật luôn bảo vệ cho giai
cấp thống trị, là vũ khí chính trị của giai cấp thống trị để chống lại các giai cấp, tầng
lớp xã hội khác và đưa hoạt động quản lý xã hội đi theo quỹ đạo, ý muốn của mình.

Từ đó, ý thức pháp luật tiêu cực của giai cấp thống trị sẽ có môi trường để phát triển
nếu giai cấp thống trị chỉ quan tâm đến mục tiêu bảo vệ vị thế thống trị của mình
trong xã hội và cho ra các điều luật thể hiện sự ít hoặc không quan tâm đến sự công
bằng, sự đúng đắn, quyền và lợi ích chính đáng của các giai cấp khác.
Các giai cấp, tầng lớp xã hội không được nắm quyền thống trị cũng có ý thức
pháp luật tiêu cực của mình xuất phát từ những mâu thuẫn với giai cấp thống trị về
mặt quyền và lợi ích.
1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực
Là mặt tiêu cực của ý thức pháp luật nên ý thức pháp luật tiêu cực cũng sẽ có
kết cấu của ý thức pháp luật nói chung.
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất, phương thức phản ánh, người ta phân thành
tư tưởng pháp luật tiêu cực và tâm lí pháp luật tiêu cực; Căn cứ vào mức độ khả
năng phản ánh, nhận thức của các chủ thể về đời sống pháp luật xã hội, người ta
chia thành ý thức pháp luật tiêu cực về mặt lí luận và ý thức pháp luật tiêu cực
thông thường; Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật người ta quan niệm có ý
thức pháp luật tiêu cực của xã hội, ý thức pháp luật tiêu cực của bộ phận, nhóm và ý
thức pháp luật tiêu cực cá nhân. Tuỳ từng góc độ nghiên cứu khác nhau, có thể xem
xét kết cấu ý thức pháp luật gồm những thành tố cơ bản nhất định. Căn cứ vào tính

11


chất, nội dung của ý thức pháp luật tiêu cực cùng cách tiếp cận của triết học duy vật
lịch sử, phân chia kết cấu ý thức pháp luật tiêu cực thành 2 bộ phận cơ bản, cụ thể:
- Hệ tư tưởng pháp luật tiêu cực
Khi nói đến hệ tư tưởng là nói đến bản chất của pháp luật, nó thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị trong xã hội có phân chia giai cấp. Hệ tư tưởng pháp luật là hệ
thống quan điểm, tư tưởng của con người, phản ánh sâu sắc đời sống pháp luật theo
ý chí của một giai cấp nhất định, được thể hiện thông qua hệ thống các phạm trù,
khái niệm, nguyên tắc... Hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực là hệ thống các vấn

đề được khái quát ở tầm lí luận, bao gồm tổng thể các tư tưởng, quan điểm, học
thuyết pháp luật; đề cập một cách tiêu cực, không đúng đắn, chủ quan về vai trò,
bản chất giai cấp, các thuộc tính của pháp luật cũng như mối quan hệ giữa pháp luật
với con người, tự do, công bằng, quyền con người, mối quan hệ giữa quyền và
nghĩa vụ pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về nhận thức
pháp luật và thực hiện pháp luật.
Có thể kể đến các hệ thống pháp luật lạc hậu, phản tiến bộ, phản cách mạng,
không vì con người. Chẳng hạn, chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và các
quan điểm về một nhà nước chuyên chế, mang tính chất quân phiệt, độc tài và toàn
trị, thậm chí thủ tiêu mọi quyền tự do của con người, khủng bố và đàn áp nhân dân.
- Tâm lí pháp luật tiêu cực được hình thành tự phát, dưới dạng tình cảm,
tâm trạng, thái độ, niềm tin, cảm xúc của con người đối với pháp luật và các hiện
tượng pháp lý. Sự tồn tại của tâm lí pháp luật tiêu cực thường gắn với trạng thái tâm
lí của con người, phản ánh trực tiếp những “cung bậc” tình cảm của con người đối
với các hiện tượng pháp lí cụ thể. Đó là sự thiếu niềm tin, sự không tôn trọng, thù
ghét, ác cảm… về pháp luật; sự thờ ơ, không thừa nhận các giá trị của pháp luật.
Thông qua những thái độ trên mà con người thể hiện tình cảm, niềm tin và thực
hiện hành vi ứng xử của mình trước pháp luật.
Tâm lí pháp luật tiêu cực so với hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực thì
nó phong phú hơn, có tính bền vững và ít biến đổi hơn; “hình thành và biến đổi
chậm chạp cùng với những truyền thống, thói quen của con người” [22, tr.135].

12


Giữa tâm lí pháp luật tiêu cực và hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực có mối
quan hệ qua lại, khăng khít với nhau. Tâm lí pháp luật tiêu cực ra đời và phản ánh
thái độ của con người trước pháp luật một cách tự phát, chưa hoàn chỉnh và chịu
sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực. Ngược lại, sự phát triển của
hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực cũng chịu ảnh hưởng của tâm lí pháp luật

tiêu cực. Đây là hai trình độ phản ánh đời sống pháp luật nhưng có mối quan hệ
tác động lẫn nhau trong sự hình thành ý thức pháp luật tiêu cực; sự đan xen và
mức độ tác động qua lại giữa chúng còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc.
1.1.4. Phân loại ý thức pháp luật tiêu cực
Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật tiêu cực, ý thức pháp luật tiêu cực
được chia thành ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, ý thức pháp luật tiêu cực của
nhóm xã hội và ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội.
Ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân là những nhận thức, hiểu biết, tình cảm
tiêu cực về pháp luật của mỗi con người cụ thể, phụ thuộc vào trình độ văn hóa, lối
sống, môi trường hoạt động nghề nghiệp của họ…
Ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm là quan điểm, nhận thức, tư tưởng, tình
cảm tiêu cực đối với pháp luật của đại đa số cá nhân của nhóm, có những đặc trưng
đại diện cho nhóm. Ví dụ ý thức pháp luật tiêu cực của nông dân, của công nhân, trí
thức, phụ nữ, học sinh, sinh viên…
Ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội được hiểu là ý thức pháp luật tiêu cực
của giai cấp, những tầng lớp nắm quyền lãnh đạo xã hội, đại diện cho xã hội.
Ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội
có cơ sở là ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, nhưng không nên hiểu một cách
máy móc là hai dạng ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và của xã hội nêu trên là
tổng thể những ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân.
1.2. Biểu hiện của thức pháp luật tiêu cực
1.2.1. Tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật
Học thuyết pháp lý không phải là sản phẩm chỉ có ý nghĩa kinh viện, nó có

13


ảnh hưởng rất lớn đến thực tiễn nhà nước và pháp luật. Giới quyền lực bao giờ cũng
chịu ảnh hưởng của những quan niệm học thuyết pháp lý nhất định và từ đó hình

thành trước những ý niệm về một nhà nước và hệ thống pháp luật cần phải có. Thực
tế cũng đã chứng minh rằng không có hệ thống pháp luật nước nào có thể đầy đủ
hoàn toàn để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội cần được điều chỉnh và học thuyết pháp
lý bổ sung cho sự thiếu hụt đó.
Học thuyết pháp lý tiêu cực dẫn đến việc hình thành một hệ thống pháp luật
thiếu sót về cơ cấu, về mục đích, nguyên tắc, phương thức điều chỉnh...; ngoài ra
còn có tác động tiêu cực đến việc hình thành những hiểu biết chung, những quan
niệm về các giá trị của công bằng, dân chủ, tiến bộ... từ đó dẫn đến các quyết định
lập pháp, những phán quyết của cơ quan nhà nước thiếu tính khoa học, tính khách
quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Học thuyết pháp lí tiêu cực cũng ảnh hưởng
lớn đối với công tác giáo dục ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân. Các vấn
đề nhà nước và pháp luật được trình bày dưới dạng hệ thống tri thức khoa học nếu
thiếu tính thuyết phục thì qua đó sẽ thấm sâu vào suy nghĩ, biến thành nếp tư duy và
hành động của người dân.
Các tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật như: Tư tưởng phát
xít là tư tưởng có tính phản động và hiếu chiến nhất, có chủ trương thủ tiêu mọi
quyền tự do cơ bản của con người, khủng bố, đàn áp tàn bạo nhân dân, gây chiến
tranh xâm lược để thống trị thế giới.
Do ảnh hưởng của nhận thức cứng nhắc đối với quan điểm học thuyết về bản
chất, phương thức tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa theo kiểu “nửa nhà
nước”, trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, hệ thống các cơ quan nhà
nước đã được tổ chức triển khai sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội, thậm chí bao trùm và che lấp hầu hết các thiết chế của đời sống xã hội dân sự.
1.2.2. Thái độ tiêu cực về pháp luật
1.2.2.1. Thái độ thờ ơ với pháp luật, không tìm hiểu về pháp luật
Bên cạnh những cá nhân có ý thức pháp luật tốt, một bộ phận nhân dân có
thái độ hết sức thờ ơ với pháp luật. Họ không có nhu cầu và mong muốn tìm hiểu về

14



pháp luật. Tình trạng xuất hiện nhiều “lỗ hổng” về kiến thức pháp luật dẫn đến
nhiều hậu quả như làm giảm khả năng của người dân trong việc tự bảo vệ quyền lợi
của mình khi bị xâm phạm, thậm chí còn dẫn đến hành vi trái pháp luật mà chính
bản thân họ cũng không ý thức được về điều đó.
Kiến thức pháp luật của người dân, nhất là ở những vùng nông thôn, miền
núi còn thiếu sót trầm trọng. Những quy định của pháp luật mặc dù nó rất gần gũi,
phổ biến trong cuộc sống nhưng nhiều người khi tham gia vào các quan hệ pháp
luật lại không nắm rõ. Ví dụ hiện nay, trên địa bàn cả nước, số lượng phương tiện
giao thông đang tăng nhanh, số người tham gia giao thông đường bộ rất nhiều,
nhưng điều đáng buồn là rất nhiều trong số đó không biết luật giao thông đường bộ
quy định bao nhiêu tuổi được phép điều khiển xe máy, khi tham gia giao thông bằng
xe máy phải cần những giấy tờ gì… Nhiều người vi phạm pháp luật mà không nhận
thức được hành vi của mình.
Tác giả luận văn đã từng đọc một bài báo đề cập về việc một lần tuyên
truyền pháp luật ở xã Tân Mỹ, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (một xã
miền núi của tỉnh) khi được hỏi thì người dân nghĩ rằng: “Cứ về ở với nhau có
con là gia đình thôi”…
Hay hành vi bạo lực gia đình, vốn vẫn còn xảy ra khá phổ biến và gây nhức
nhối cho xã hội. Người có hành vi bạo lực gia đình do không hiểu biết về pháp luật
nên dẫn đến hành vi vi phạm luật hôn nhân và gia đình, luật hình sự về tội gây
thương tích cho người khác… Nạn nhân của bạo lực gia đình cũng chính vì không
hiểu biết pháp luật nên cam chịu bị đánh đập, sỉ nhục, bạo lực tình dục… trong thời
gian dài. Còn về phía những người thân, họ hàng cũng không hiểu biết pháp luật
nên xem đấy là việc riêng của gia đình, không có động thái can thiệp, trình báo…
Người tham gia giao thông chính vì không có ý thức tìm hiểu kỹ về pháp luật
an toàn giao thông đường bộ nên khi vi phạm giao thông và bị cảnh sát giao thông
bắt phạt thì họ có hành vi chống đối. Bản thân họ không hiểu mình vi phạm giao
thông như thế nào và hành vi chống đối người thi hành công vụ cũng chính là hành
vi vi phạm pháp luật.


15


Lâu nay, không ít người dân còn xem nhẹ pháp luật, chỉ khi hậu quả xảy ra
người ta mới ngỡ ngàng. Khi xẩy ra việc mất nhà cửa, nhiều người mới giật mình,
hoảng hốt khi bản thân do quá chủ quan nên không biết để thực hiện các quy định
thỏa thuận có giấy tờ, cam kết.
1.2.2.2. Thái độ coi thường pháp luật, không thừa nhận giá trị của pháp luật
Pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Pháp luật vừa mang tính
khách quan xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội khi xã hội đã phát
triển đến một trình độ nhất định vừa mang tính chủ quan, phụ thuộc ý chí nhà nước.
Pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Bên cạnh việc là công cụ để quản lý
Nhà nước một cách hữu hiệu, pháp luật còn góp phần xây dựng một xã hội có trật
tự, kỷ cương, văn minh. Tuy nhiên, nhiều cá nhân lại có thái độ coi thường, xem
nhẹ pháp luật, không thừa nhận giá trị của pháp luật, xem đó là những quy tắc
không cần phải chấp hành theo. Pháp luật bị xếp sau những quy tắc xử sự khác như
thói quen, tập quán, lệ làng, thậm chí là “luật rừng”…
Một hiện tượng đã trở nên thường xuyên xảy ra và công khai chính là việc
thách thức, nhục mạ, tấn công người thi hành công vụ. Hành động chống người thi
hành công vụ thể hiện ở nhiều cấp độ, từ cãi cọ, chửi bới đến xúc phạm nhân phẩm,
tính mạng của nhà chức trách. Các đối tượng vi phạm không chỉ chống người thi
hành công vụ để ngăn cản việc bị xử lý, chạy trốn khi bị bắt giữ mà còn ngang nhiên
khiêu khích, thách thức, đe dọa và chủ động tấn công người đại diện pháp luật, như:
đấm vào mặt hoặc cho xe lao thẳng vào cảnh sát giao thông, hất cảnh sát lên ca-pô rồi
chạy với tốc độ cao, ngăn trở lực lượng cưỡng chế thu hồi hay phá dỡ nhà...
Thay vì sử dụng các quy định pháp luật, đưa vụ việc ra trước các cơ quan có
chức năng thì từ trước tới nay tại nhiều địa phương vẫn xảy ra hàng loạt vụ dùng
“luật rừng” để giải quyết tranh chấp dân sự gây thiệt hại kinh tế lớn cho doanh
nghiệp và môi trường kinh doanh. Các “quy tắc ngầm” được đặt ra và mọi người

xem đó là quy tắc xử sự cao hơn pháp luật, dù nó có xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân hay tổ chức nào đó hay không.
Chẳng hạn về vụ việc bảo kê ở chợ Long Biên. Để có thể tồn tại buôn bán,

16


các tiểu thương tại chợ Long Biên phải đóng tiền bến bãi (tiền bảo kê) với mức tiền
là 200 ngàn, nếu là xe to thì phải đóng 350 ngàn đồng, cá biệt có trường hợp theo
phản ánh của tiểu thương phải đóng 100 triệu đồng/năm tiền bến bãi. Nếu tiểu
thương không đóng tiền sẽ không có chỗ đỗ xe để chuyển hàng, thậm chí còn bị gây
cản trở, phá hoại việc kinh doanh buôn bán một cách trắng trợn.
1.2.3. Tình cảm tiêu cực đối với pháp luật
“Tình cảm pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ tích cực hoặc tiêu cực
của chủ thể đối với pháp luật” [15, tr.24]. Tình cảm tiêu cực đối với pháp luật là trạng
thái tình cảm ghét bỏ đối với pháp luật, mất hoặc không có niềm tin đối với sự công
bằng, sự đúng đắn và công lý của pháp luật. Thực tế chỉ ra rằng, qua những vụ việc
thực tế diễn ra hằng ngày, người dân dễ dàng bị tước bỏ niềm tin bởi những tham
nhũng, nhiêu khê trong bộ máy hành chính; những gian lận trắng trợn trong giáo dục,
những dối trá trong công tác y tế, hay sự thiếu hụt của các chế độ trợ cấp và an sinh
xã hội… Cũng chính do việc định hướng tình cảm pháp luật chưa tốt nên trong xã hội
dễ hình thành tâm lý ác cảm đối với cảnh sát, với người đại diện chính quyền.
1.3. Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực
Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực là sự hành vi hóa của tổng thể những
tư tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá một cách tiêu cực
của con người về pháp luật. Sản phẩm của ý thức pháp luật chủ yếu tập trung ở hai
dạng hành vi chính như sau:
1.3.1. Hành vi cố tình làm trái pháp luật, vi phạm pháp luật
Bên cạnh việc không hiểu biết về pháp luật, một số cá nhân dù có hiểu biết
về pháp luật nhưng vẫn có những hành vi thực hiện không đúng quy định của pháp

luật: luật buộc phải thực hiện nhưng không thực hiện; cấm không được thực hiện
nhưng lại thực hiện.
Chẳng hạn, người tham gia giao thông mặc dù biết hành vi vượt đèn đỏ là
trái với quy định về an toàn giao thông đường bộ và biết rõ hậu quả của việc chen
lấn, xô đẩy có thể dẫn đến tai nạn giao thông nguy hiểm nhưng vẫn cố tình vượt đèn
đỏ. Hành vi cố tình làm trái pháp luật này xuất phát từ ý nghĩ vượt đèn đỏ sẽ tiết

17


kiệm được thời gian cũng như do tâm lý hơn thua đám đông, thấy người ta đi được
thì mình cũng đi được.
Nhiều doanh nghiệp chỉ vì lợi nhuận trước mắt mà coi thường mạng sống
của người dân, coi thường pháp luật, thậm chí còn gây ô nhiễm môi trường một
cách nghiêm trọng. Hàng loạt doanh nghiệp như vậy đã bị xử phạt mức tiền tỷ trong
những năm gần đây. Môi trường sống trong sạch là tài sản quý báu của nhân loại,
được cả xã hội quan tâm. Chủ trương của Đảng và Nhà nước vẫn nhất quán trước sau
như một là không đánh đổi môi trường lấy kinh tế dù trong tình thế khó khăn nào.
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp chạy theo đồng tiền mà coi thường mạng sống của
người dân, coi thường pháp luật, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Các sự cố môi
trường nghiêm trọng do các công ty Công ty gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà
Tĩnh, công ty Vedan… gây ra, nhức nhối trong dư luận xã hội một thời gian trước.
1.3.2. Các văn bản quy phạm pháp luật lạc hậu, không khả thi, không
công bằng và khách quan
Về nguyên lý xây dựng pháp luật, các quy định được ban hành phải dựa trên
nền tảng lợi ích và nguyện vọng chính đáng của người dân. Nhưng sự thiếu hiểu
biết một cách chuyên sâu và có tính hệ thống, khái quát, khách quan về các học
thuyết, tư tưởng về pháp luật cũng như việc không nhận thức được tầm quan trọng
của pháp luật với tư cách là một công cụ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mỗi công dân sẽ dễ dàng dẫn tới việc các cơ quan có thẩm quyền ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật vi phạm đến quyền con người, lẽ công bằng. Pháp luật
lúc đó sẽ phản tác dụng, không còn là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích
của công dân, cũng như không còn mang tinh thần công bằng, dân chủ. Các văn bản
quy phạm pháp luật đó có thể hạn chế, phủ nhận thậm chí tước bỏ các quyền cơ bản
của con người như quyền được sở hữu tài sản, quyền được tiếp cận thông tin, quyền
được lập hội, quyền tự do kinh doanh…
1.3.3. Những phát biểu, những bài báo thể hiện sự yếu kém và sai lệch
trong nhận thức về pháp luật
Những bài phát biểu, những bài báo xuất phát từ nhận thức chủ quan của các

18


×