Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XV ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.37 KB, 104 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là quan hệ về tài sản có tính chất phổ biến trong đời sống xã hội.
Theo cách hiểu phổ thông nhất, thừa kế di sản là sự chuyển dịch di sản của cá nhân
đã chết cho những người còn sống. Quan hệ sở hữu tài sản và quan hệ thừa kế di sản
tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Có
thể thấy rằng sở hữu tài sản và thừa kế xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài
người.
Ở nước ta, pháp luật về thừa kế có quá trình phát triển khá sớm trong tiến trình
lịch sử thể hiện rõ nhất từ Bộ luật Hồng Đức ban hành năm 1483 và có thể thấy
quan hệ thừa kế không những chịu ảnh hưởng bởi chế độ chính trị xã hội, chế độ
sở hữu mà còn chịu ảnh hưởng bởi chế độ hôn nhân gia đình, phong tục tập quán
ở mỗi thời kỳ lịch sử trong một mức độ nhất định.
Mục tiêu trước mắt và lâu dài của tiến trình cải cách tư pháp là xây dựng chế
độ nhà nước pháp quyền - một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong chế độ
pháp quyền đó, quyền thừa kế của công dân là một trong những quyền cơ bản được
Nhà nước công nhận và bảo hộ. Công dân có quyền để lại tài sản cho cá nhân hoặc
tổ chức theo di chúc hoặc theo pháp luật, nhưng cũng có quyền hưởng di sản của
người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong chế độ Nhà nước pháp quyền đó
các quyền, lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể trong xã hội, trong đó có quyền lợi hợp
pháp của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Các quyền dân sự cơ bản của
công dân ngày càng được củng cố trong đó có quyền thừa kế di sản. Khi khối lượng
tài sản của công dân ngày càng đa dạng về chủng loại, lớn về giá trị tài sản, thì
quyền thừa kế di sản của cá nhân ngày càng được coi trọng và được ghi nhận cụ thể
trong hệ thống pháp luật.
Từ thực tế cuộc sống này, pháp luật về thừa kế phải được xây dựng và không
ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với quá trình xây dựng và phát triển toàn diện
của đất nước. Hiện nay những quy định về quyền thừa kế đã chiếm một vị trí quan
trọng với số lượng điều luật đáng kể có tính khái quát cao và quy định tương đối đầy
đủ, toàn diện về thừa kế trong Bộ luật dân sự. Nhưng kể từ khi Nhà nước ban hành
Bộ luật dân sự đầu tiên năm 1995 và Bộ luật dân sự sửa đổi năm 2005, thì những


quy định của Bộ luật dân sự về quyền thừa kế khi được Toà án các cấp áp dụng để
giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế, nhưng vẫn tồn tại không ít khó khăn,
lúng túng. Vì trong Bộ luật dân sự vẫn còn có những quy định trong chế định thừa
kế chưa thật sự phù hợp với thực tế của đời sống xã hội, nhất là trong điều kiện nền
kinh tế thị trường và hội nhập nền kinh tế thế giới.
Hiện nay, hàng năm ngành Tòa án nhân dân vẫn phải thụ lý và giải quyết
hàng ngàn vụ án tranh chấp về thừa kế. Nhưng quy định của pháp luật thừa kế hiện
nay cùng các ngành luật liên quan như pháp luật đất đai và những quy định pháp
luật khác có liên quan đến thừa kế vẫn chưa đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất.
1
Thực tiễn xét xử tại ngành Tòa án nhân dân cho thấy: có nhiều vụ tranh chấp về
quyền thừa kế đã phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục vẫn không cao.
Có thể thấy rằng, khi áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về thừa
kế, ngành Toà án nhân dân đã gặp rất nhiều khó khăn. Đó là những quy định chưa
thật sự ổn định của pháp luật về đất đai, các chính sách có những nội dung chưa nhất
quán. Thực tế này đã gây ảnh hưởng nhất định đến chất lượng giải quyết các tranh
chấp về quyền thừa kế liên quan đến nhà, đất. Ngoài ra cũng cần thấy rằng, do tính
chất và sự đa dạng về chủng loại tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân không
thuần nhất, không ngừng biến động, biến đổi cũng làm ảnh hưởng đến việc xác định
khối di sản và quyền thừa kế của cá nhân công dân.
Nhận thức được tầm quan trọng và rất phức tạp của pháp luật thừa kế trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và tiếp theo,
nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT
NAM TỪ THẾ KỶ XV ĐẾN NAY. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, nhóm tác
giả hy vọng rằng kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật thừa kế được
quy định trong Bộ luật dân sự của nước ta
2. Tình hình nghiên cứu
Do thừa kế là một chế định phổ biến của đời sống xã hội nên từ trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945, pháp luật thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc
cũng có những quy định về thừa kế. Trong các bộ luật được ban hành vào thời kỳ

phong kiến và các bộ dân luật cũ thời kỳ Pháp thuộc, thừa kế cũng luôn là một
chế định chiếm vị trí quan trọng trong các bộ luật. Trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ
luật Gia Long, Bộ dân luật giản yếu (năm 1883), Bộ dân luật Bắc Kỳ (năm 1931),
Bộ dân luật Trung Kỳ (năm 1936), các quy định về thừa kế đều chiếm một số
lượng điều luật đáng kể.
Ngay sau khi giành được độc lập, cùng với lễ tuyên ngôn độc lập ngày
02/9/1945, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản có những quy định về quyền
thừa kế như trong đó có những văn bản quy định về thừa kế như: Sắc lệnh số 97/SL
ngày 22/5/1950, Thông tư số 1742 - BNC ngày 18/9/1956 của Bộ Tư pháp, Thông
tư số 594-NCPL ngày 27/8/1968 của Toà án nhân dân tối cao, Thông tư số
81/TANDTC ngày 24/7/1981, Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990.
Trong tiến trình đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật dân sự đầu tiên
vào năm 1995 và có hiệu lực ngày 01/7/1996. Đây là là kết quả của quá trình pháp
điển hóa luật dân sự Việt Nam trong suốt hơn 50 năm. Lần đầu tiên chế định thừa kế
được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 khá đầy đủ và hoàn thiện nhất mà
những văn bản pháp luật trước đó chưa quy định. Tuy nhiên, sau 10 năm áp dụng,
có những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 đã không còn thích hợp, một số
điều khoản đã không phát huy được tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh các quan
hệ về tài sản, trong đó có những quy định về thừa kế. Năm 2005, nhà nước lại ban
hành Bộ luật dân sự bổ sung, sửa đổi thay thế Bộ luật dân sự năm 1995.
2
Các công trình nghiên cứu về thừa kế nói chung theo pháp luật ở nước ta còn
dàn trải và mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh cụ thể trong chế định về quyền
thừa kế như: thời điểm mở thừa kế; điều kiện của những người được hưởng di sản
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc; quyền thừa kế di sản của con nuôi. Một
số bài viết chỉ tập trung phân tích, bình luận một tranh chấp cụ thể như tranh chấp về
xác định chủ thể hưởng di sản theo pháp luật, người thừa kế thế vị hoặc chủ thể
không được thừa kế theo pháp luật... Những bài viết có tính chất nghiên cứu này
được đăng trong các tạp chí chuyên ngành luật như: Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp
chí luật học, Tạp chí dân chủ và pháp luật.

Trước đây, vấn đề thừa kế đã được nghiên cứu khái quát ở một số sách có
tính chất như là một dạng kiến thức phổ thông như: "Câu hỏi và giải đáp pháp luật
về thừa kế" của luật sư Lê Kim Quế, "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế" của tiến sĩ Đinh
Văn Thanh và luật sư Trần Hữu Biền... với nội dung giải đáp các vấn đề cơ bản nhất
về thừa kế trong đời sống xã hội.
Ngoài ra, trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu ở bậc sau
đại học, cấp luận án thạc sĩ và tiến sỹ của một số tác giả. Những công trình nghiên
cứu về thừa kế là những luận văn hoặc luận án tiến sãy của các tác giả nói trên chỉ
dừng lại trong phạm vi chế định thừa kế được qui định trong Bộ luật dân sự và giải
quyết những vấn đề thừa kế theo pháp luật mà Bộ luật dân sự hiện hành của nước ta
qui định. Việc nghiên cứu một cách tổng thể và toàn diện chế định thừa kế thì chưa có
một công trình khoa học nào nghiên cứu ở cấp thạc sĩ và tiến sĩ.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu với mục đích làm sáng tỏ những quy định của pháp
luật về thừa kế từ đó rút ra những kết luận:
- Nghiên cứu có tính chất tổng quát các khái niệm liên quan đến quyền thừa
kế của công dân; quy định của pháp luật thực định về quyền thừa kế của công dân
qua hai hình thức: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
- Quá trình hình thành và phát triển pháp luật thừa kế ở nước ta qua các giai
đoạn lịch sử; nêu những cơ sở và luận điểm có tính chất tổng quát về tiến trình phát
triển pháp luật thừa kế ở nước ta qua các thời kỳ lịch sử và phân tích để thấy rõ
những nội dung kế thừa, phát triển qua mỗi thời kỳ lịch sử.
- Đề tài không nghiên cứu tất cả các nội dung của chế định thừa kế mà các
chuyên đề chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất, nhưng hiện có những
cách hiểu rất khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật như: xác định chính xác di
sản thừa kế, quan hệ pháp luật về thừa kế, thừa kế trong di chúc chung của vợ
chồng, vấn đề thừa kế thế vị….
- Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là cơ sở để tiếp tục có những kiến nghị bổ
sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự. Mục tiêu của
việc nghiên cứu đề tài là, nêu những kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định thừa kế

3
cho phù hợp với tổng thể các quy định trong Bộ luật dân sự và đồng bộ với các quy
định của các nghành luật khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài thừa kế, tập thể Chủ nhiệm đề tài và các cộng tác viên
đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống để tiếp cận đề tài
như: Phương pháp lịch sử; Phương pháp lôgic; Phương pháp duy vật biện chứng;
Phương pháp so sánh; Phương pháp tổng hợp.
Thông qua các phương pháp lịch sử, phương pháp duy vật biện chứng để
tổng hợp và so sánh làm nổi bật quyền thừa kế theo pháp luật của công dân ngày
càng được coi trọng và bảo đảm thực hiện theo trình độ phát triển mọi mặt của đất
nước.
5. Những đóng góp mới của đề tài
Quyền thừa kế của cá nhân công dân là một trong những quyền dân sự cơ bản
và là một căn cứ phổ biến xác lập quyền sở hữu tài sản của công dân. Qua nghiên
cứu đề tài, một hệ thống các khái niệm về thừa kế, về quyền thừa kế đã được phân
tích, làm sáng tỏ… để minh chứng tính đặc thù của quan hệ thừa kế trong các quan
hệ pháp luật dân sự.
Thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự được đặt trong mối liên hệ với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định để phân
tích, làm sáng tỏ quyền đó dưới góc độ quyền khách quan và quyền chủ quan, được
củng cố, ghi nhận được bảo vệ ngày một hiệu quả hơn. Qua đó làm sáng tỏ quyền
dân sự cơ bản của công dân, góp phần hoàn thiện về mặt lý luận trong việc nâng cao
trình độ ý thức pháp luật của cá nhân trong chế định thừa kế. Từ đó sẽ góp phần
khắc phục và loại bỏ những quy định pháp luật thừa kế thiếu tính khái quát, không
đồng bộ, không toàn diện trong Bộ luật dân sự.
Từ thực trạng giải quyết các tranh chấp về quyền thừa kế tại ngành Toà án
nhân dân sẽ rút ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế tại Việt Nam.
Trước hết là việc cần phải sửa đổi bổ sung chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự
phù hợp và có hiệu lực cao trong đời sống xã hội hiện tại và lâu dài.

6. Kết cấu của đề tài.
Đề tài gồm có 8 chuyên đề, nghiên cứu về những mảng riêng khác nhau.
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phần các chuyên đề, đề tài còn
có phần Báo cáo tổng quan được kết cấu thành 3 chương với các mục tương ứng
nội dung các chuyên đề độc lập.
4
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ VÀ QUYỀN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế
Là một thực thể trong đời sống xã hội, con người không thể tồn tại và phát
triển nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định. Nói cách khác, con người
không thể sống và lao động khi không có tài sản để thoả mãn các nhu cầu thiết
yếu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất. Nếu tư liệu tiêu dùng là phương tiện
sinh hoạt, tư liệu sản xuất là phương tiện để thực hiện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh thì tài sản nói chung là phương tiện sống của con người. Khi sống,
con người khai thác công dụng của tài sản để thoả mãn cho nhu cầu của mình,
khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển cho người còn sống. Quá trình
dịch chuyển tài sản đó từ thế hệ này sang thế hệ khác được gọi là thừa kế.
Nhìn nhận một cách tổng quan nhất thì “thừa kế là việc dịch chuyển tài sản
của người đã chết cho người còn sống”
1
. Về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa
hưởng một cách kế tục. Theo phương diện này, Từ điển Tiếng Việt đã định
nghĩa: “Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”
2
. Về mặt nội dung thì thừa
kế là quá trình dịch chuyển di sản từ người chết cho người còn sống.
Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được
hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có Nhà nước và pháp
luật, thì nó được thực hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi Nhà

nước xuất hiện, bằng pháp luật, nhà nước tác động đến quá trình dịch chuyển tài
sản nói trên, trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các
chủ thể được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật nên từ đó,
quá trình dịch chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế. Nói cách khác, khái niệm
quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý mà nội dung của nó là xác định phạm vi các
quyền, các nghĩa vụ của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế. Quyền thừa kế chỉ xuất
hiện và tồn tại trong xã hội đã có giai cấp và Nhà nước. Bên cạnh nội dung kinh tế,
quyền thừa kế còn bao hàm ý chí của Nhà nước. Nghĩa là, việc dịch chuyển tài sản
của người đã chết cho người còn sống phải hoàn toàn tuân thủ các quy định của
pháp luật.
Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người thấy rằng, từ
thời sơ khai của xã hội loài người, quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã xuất
hiện như một tất yếu khách quan, một đòi hỏi của xã hội và có mối liên quan ràng
buộc, qua lại giữa chúng với nhau. Ngay từ thời kỳ đầu hình thành chế độ cộng
sản nguyên thủy, chế độ thị tộc, bộ lạc, khi đó mọi tài sản có được của xã hội đều
1
1, 2. Xem Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học NXB Đà Nẵng 2000.
2
5
thuộc về thị tộc, bộ lạc. Chế độ thị tộc, bộ lạc theo mẫu hệ đã áp đặt quyền thống
trị chung đối với cả những tài sản do những người đàn ông làm ra, mặc dù có thể
một người đàn ông trong thị tộc này là chồng của một người đàn bà, là cha của
những đứa con ở thị tộc khác. Ngoài ra, cũng trong chế độ thị tộc, bộ lạc theo
mẫu hệ, các con không thuộc thị tộc của người cha, do đó khi mà con cái chết, tài
sản mà chúng làm ra cũng không thuộc về thị tộc, bộ lạc của người cha mà thuộc
về thị tộc, bộ lạc của người mẹ.
Như vậy, chế độ thị tộc, bộ lạc theo mẫu hệ đã tạo ra mối quan hệ về quyền
kế thừa, hưởng dụng sản của các con và những người thân thuộc về huyết thống
trong thị tộc, bộ lạc của người mẹ, không thừa nhận quyền kế thừa, hưởng dụng
tài sản của các con theo người cha. Ngược lại, nếu người đàn ông chết đi thì tài sản

của họ làm ra lại thuộc thị tộc mà người mẹ của người cha đó là thành viên và
những người thân thuộc về huyết thống trong thị tộc, bộ lạc này được kế thừa,
hưởng dụng các tài sản đó. Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Theo chế độ mẫu quyền,
nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục kế thừa nguyên
thủy trong thị tộc mới được kế thừa những người trong thị tộc chết. Tài sản phải
để trong thị tộc... nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ”.
Thừa kế nguyên thủy trong xã hội thị tộc, bộ lạc theo mẫu hệ đã đặt nền
móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của quan hệ thừa kế tài
sản theo huyết thống, cho dù theo huyết thống của người mẹ. Cho đến ngày nay,
trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trong một bộ phận dân cư (tuy rất nhỏ) vẫn còn
có những cụm hoặc cộng đồng dân cư nhỏ duy trì quan hệ thừa kế tài sản theo
huyết thống của người mẹ.
Có thể nhận thấy rằng, dù cho xã hội loài người mới chỉ phát triển ở trình
độ sơ khai, quan hệ kinh tế cơ bản cũng chưa phát triển rõ nét, nhưng trong một
chừng mực nào đó khi tài sản đã có sự dư thừa, thì việc kế thừa, hưởng dụng tài
sản do các thành viên của thị tộc, bộ lạc làm ra khi họ chết đã thể hiện như một
phạm trù kinh tế, một tất yếu của xã hội. Theo nghĩa này, tài sản được làm ra
trong mỗi thị tộc, bộ lạc không những để duy trì cuộc sống cộng đồng của thị tộc,
bộ lạc như hiện trạng của nó, mà còn được chuyển giao đương nhiên khi có thành
viên nào đó chết với tính vật chất tự nhiên của nó. Mục tiêu suy cho cùng là để
duy trì cuộc sống cộng đồng của thị tộc, bộ lạc và cho những thế hệ tiếp theo.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cải xã hội ngày càng
được làm ra nhiều hơn, không những bảo đảm cho sinh hoạt và đời sống của cộng
đồng thị tộc, bộ lạc, mà còn có nhiều của cải dư thừa. Khi mà tư liệu sản xuất đóng
vai trò quan trọng trong quá trình làm ra của cải vật chất và quan hệ xã hội cũng có
sự phân hóa... thì việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải vật chất dư thừa đã trở
thành nguyên nhân của việc phân hóa giữa các tầng lớp người trong mỗi thị tộc, bộ
lạc. Sự phân hóa này về cơ bản dựa theo mức độ, giá trị tài sản, tư liệu sản xuất mà
họ chiếm hữu được khác nhau, từ đó hình thành nên chế độ tư hữu về tài sản, mà
chủ yếu đối với tư liệu sản xuất.

6
Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được xác lập đã phá vỡ tính cộng đồng
của thị tộc, bộ lạc trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản
chung và đương nhiên kết quả cuối cùng của sự phân hóa này chính là việc phân
chia xã hội thành các giai cấp thống trị và bị trị. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
được xác lập cũng đương nhiên phá vỡ việc kế thừa, hưởng dụng chung của thị
tộc, bộ lạc đối với tài sản của người chết để lại và như vậy việc kế thừa, hưởng
dụng chung của thị tộc, bộ lạc đối với tài sản của người chết để lại cũng không
thể còn môi trường để tồn tại. Có chế độ tư hữu về tài sản tất dẫn đến nhu cầu
bảo vệ quyền tư hữu đó khi chủ sở hữu tài sản chết.
Khi việc kế thừa, hưởng dụng chung của thị tộc, bộ lạc đối với tài sản của
người chết để lại đã bị phá vỡ thì không thể không hình thành một hình thức kế
thừa, hưởng dụng tài sản của người chết để lại phù hợp với chế độ tư hữu về tài
sản. Kế thừa, hưởng dụng một cách riêng biệt tài sản của một cá nhân khi họ chết
đã xuất hiện như một tất yếu, nó đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ tài sản
và phát sinh quan hệ thừa kế tài sản theo đúng nghĩa đen của khái niệm.
Như trên đã phân tích, quan hệ thừa kế tài sản chỉ hình thành và phát triển
khi trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tài sản và nó gắn chặt với tư hữu như
hình với bóng, không thể tách rời. Tư hữu là tiền đề của thừa kế, còn thừa kế lại
là cơ sở củng cố quyền tư hữu về tài sản. Chế độ tư hữu về tài sản ra đời đã xóa
đi không những quyền độc tôn của người đứng đầu thị tộc, bộ lạc trong việc định
đoạt tài sản chung của cộng đồng, xóa đi quyền chung của cộng đồng thị tộc, bộ
lạc trong việc kế thừa, hưởng dụng tài sản do các thành viên của thị tộc, bộ lạc
làm ra khi họ chết..., mà còn khẳng định quyền tài sản của cá nhân để làm cơ sở
cho việc hình thành quan hệ thừa kế theo đúng nghĩa của nó và điều quan trọng
hơn chính nó đã khẳng định luôn cả diện thừa kế là những người thân thuộc theo
huyết thống của người có tài sản khi họ chết.
Khi giai cấp đã xuất hiện, có giai cấp thống trị và có giai cấp bị trị, đương
nhiên đối kháng giai cấp trong xã hội là điều không tránh khỏi. Kết quả của sự
đối kháng giai cấp là nhà nước của chế độ tư hữu ra đời và trở thành công cụ

chuyên chế của giai cấp thống trị. Nhà nước của chế độ tư hữu đã phải sử dụng
sức mạnh áp chế để bảo vệ quyền, lợi ích của giai cấp mình. Song song với
quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế tài sản cũng được bảo vệ bằng những sức
mạnh đó. Những trật tự trong quan hệ về sở hữu tài sản nói chung và trong quan
hệ về thừa kế nói riêng được nhà nước của chế độ tư hữu thiết lập trong giai đoạn
này phù hợp với tính tất yếu khách quan, nhưng mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Quyền lợi của giai cấp thống trị luôn được bảo vệ bằng chính những thiết chế của
sức mạnh trấn áp hay sức mạnh kinh tế.
Để duy trì những tài sản của cá nhân sau khi qua đời được chuyển dịch cho
người còn sống không phải theo phương thức đương nhiên như thời kỳ chế độ
cộng sản nguyên thủy, ngoài việc thiết lập ra một tổ chức đặc biệt để thống trị xã
hội - đó là Nhà nước, giai cấp thống trị đã ban hành pháp luật nhằm duy trì quyền
7
lực kinh tế, nền tảng của quyền lực chính trị từ đời này sang đời khác. Trên cơ sở
chế độ tư hữu về tài sản đã được pháp luật bảo vệ, pháp luật về thừa kế được hình
hành, phát triển như một tất yếu khách quan và là nhu cầu của xã hội có giai cấp.
Theo luật La Mã cổ đại thì các con, cháu của người để lại di sản có quyền thừa kế
trước tiên, vì họ được pháp luật coi là những người thừa kế đương nhiên và nếu
người để lại di sản không có con, cháu thì mới đến lượt những người có quan hệ
huyết thống nội tộc được hưởng di sản, những người thuộc thị tộc của người để
lại di sản chỉ được hưởng di sản khi không còn người thừa kế thuộc nội tộc của
người để lại di sản. Từ những quy định này, quan hệ pháp luật về thừa kế đã ra
đời và chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các quan hệ pháp luật dân sự.
Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, sự xuất hiện chế độ hôn
nhân với hình thái gia đình đối ngẫu làm cho kinh tế gia đình đã trở thành một
đơn vị kinh tế độc lập trong thị tộc, không còn phụ thuộc vào thị tộc và cuối cùng
làm tan rã thị tộc.
Ở thời kỳ này gia đình phát triển sang một hình thức mới hơn (Ăng ghen
gọi là hình thức trung gian trong bước chuyển từ chế độ hôn nhân đối ngẫu sang
chế độ hôn nhân một vợ một chồng), trong đó mọi quyền lực thuộc về người

chồng, với tư cách là người gia trưởng nên tất cả tài sản trong gia đình thuộc sở
hữu của người chồng và sở hữu của “gia đình cá thể đã trở thành một lực lượng
đang đe doạ xã hội”
3
.
Suy xét rộng ra cho thấy: do sự phân công lao động, ở thời kỳ này xã hội
đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Cùng với sự phân công lao động xã hội, chăn nuôi
và trồng trọt ngày càng phát triển, năng xuất lao động ngày một nâng cao đã xuất
hiện sự dư thừa sản phẩm. Quá trình phân hoá của cải trong xã hội được hình
thành và dẫn đến sự phân biệt kẻ giàu người nghèo trong xã hội. Những người có
quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để chiếm hữu số của cải dư
thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất hiện và từ đó chế độ thị tộc, chế độ
cộng sản nguyên thuỷ dần dần bị phá vỡ và hoàn toàn tan rã, nhường chỗ cho một
chế độ xã hội mà trong đó đã có sự phân hoá giai cấp.
Nếu trước đây tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xã hội không biết đến mâu
thuẫn nội tại, trong đó mọi thành viên xã hội hầu như hoàn toàn “hoà tan” vào
cuộc sống cộng đồng thì xã hội mới ra đời đã có sự phân chia giai cấp, trong đó
các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau, “luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt
với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình”
4
. Trước bối cảnh đó, dĩ nhiên tổ
chức thị tộc trở thành bất lực trước xã hội, không thể phù hợp được nữa. Lúc này,
“xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công
khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà
3
Xem Ph.đ. Ăng ghen “Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”, NXB Sự Thật Hà Nội, 1972 tr.89
4
Xem “Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật” của Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND năm 2001
tr.38

8
nước và nhà nước đã xuất hiện.”
5
Khi chưa xuất hiện Nhà nước, thừa kế được dịch chuyển theo phong tục,
tập quán của các thị tộc, bộ lạc, thì khi Nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển
tài sản từ một người đã chết cho người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của
Nhà nước. Giai cấp thống trị thông qua quyền lực nhà nước để áp dụng các
phương pháp cưỡng chế nhằm tác động đến các quan hệ xã hội làm cho các quan
hệ đó phát sinh, phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp mình. Nghĩa là khi có
Nhà nước thì mọi quan hệ cũng như mọi sự kiện xẩy ra trong đời sống xã hội đều
được pháp luật điều chỉnh. Thừa kế trong xã hội đã có nhà nước cũng không nằm
ngoài sự điều chỉnh của pháp luật.
Vì thế, có thể nói rằng: khái niệm quyền thừa kế được xuất hiện và chỉ xuất
hiện chừng nào có sự xuất hiện nhà nước và pháp luật.
Như vậy, nếu thừa kế xuất hiện ngay cả khi xã hội chưa phân chia giai cấp,
chưa có nhà nước và pháp luật thì khái niệm quyền thừa kế chỉ ra đời và tồn tại
trong những xã hội đã phân chia giai cấp và có nhà nước.
Bằng việc ban hành các văn bản pháp luật, Nhà nước qui định quyền để lại
thừa kế và nhận thừa kế của các chủ thể, qui định trình tự và các điều kiện dịch
chuyển tài sản cũng như qui định các phương thức dịch chuyển tài sản từ người đã
chết sang những người còn sống khác. Tuy nhiên, mỗi một chế độ xã hội khác nhau
sẽ có sự khác nhau trong quy định về quyền thừa kế. Thậm chí ngay trong một chế
độ xã hội nhưng ở từng giai đoạn khác nhau sự quy định này cũng có thể khác nhau.
Điều đó có nghĩa rằng chế độ thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh
tế, xã hội của một nhà nước và đặc biệt là do chế độ sở hữu quyết định.
Như vậy, cùng với quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế không đơn thuần chỉ
còn là phạm trù kinh tế nữa, mà nó đã trở thành phạm trù pháp luật. Quan hệ sở
hữu và quan hệ thừa kế đều là những quan hệ pháp luật và giữa chúng có mối liên
hệ mật thiết với nhau, quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia, ngược lại chúng lại
là cơ sở của nhau theo những chuẩn mực pháp luật nhất định và mang bản chất

giai cấp sâu sắc. Quan hệ pháp luật về thừa kế hiện hành là một minh chứng cho
nhận định đó.
Quan hệ pháp luật về thừa kế có tính khả biến. Tính khả biến được thể hiện
bằng các quy phạm pháp luật, mà các quy phạm này không những phụ thuộc vào
sự thay đổi của quan hệ sở hữu trong các chế độ xã hội khác nhau, mà còn phụ
thuộc vào mức độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là trong mỗi
giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của chế độ xã hội đó pháp luật cũng có quy
định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Quan hệ thừa kế khi
đó không những là phạm trù pháp luật, mà còn được hiểu như là một phạm trù lịch
sử, bởi vì nó thể hiện rõ nét sự phát triển kinh tế - xã hội của các chế độ xã hội
khác nhau và của một chế độ xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
5
Xem “Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật” của Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND năm 2001 tr.38
9
Với những phân tích trên đây, có thể xác định rằng, quan hệ thừa kế là một
phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử phát
triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế, pháp luật về thừa kế xác định quyền
của cá nhân trong việc để lại di sản và quyền của những người nhận di sản thừa
kế, mà trong lý luận pháp lý được gọi chung là quyền thừa kế.
Với những phân tích trên đây, quan hệ thừa kế cần được hiểu là một loại
quan hệ pháp luật phát sinh từ sự kiện chết của một cá nhân - chủ sở hữu tài sản
và khi có người thừa kế thực hiện quyền thừa kế của họ, theo đó tài sản và quyền
sở hữu tài sản (di sản) của người chết được chuyển giao cho người (cá nhân hoặc
tổ chức) thừa kế.
Thừa kế là quan hệ tài sản, nhưng là quan hệ tài sản có tính đặc thù. Trong
các quan hệ dân sự khác, các bên chủ thể đều còn sống và ý chí của các bên được
thể hiện đồng thời khi xác lập giao dịch, còn quan hệ thừa kế di sản chỉ phát sinh
khi bên có tài sản chết hoặc được xác định là đã chết. Vậy, thừa kế được hiểu là
"sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống".

Quyền thừa kế là chế định pháp luật và quan hệ thừa kế là quan hệ pháp
luật dân sự được các quy phạm pháp luật điều chỉnh phù hợp với những điều
kiện, trình tự để lại di sản và nhận di sản... của các chủ thể tham gia vào quan hệ
đó. Nếu thừa kế tồn tại trong mọi hình thái kinh tế - xã hội thì quyền thừa kế chỉ
phát sinh khi xã hội phân chia giai cấp và có nhà nước. Pháp luật về thừa kế phản
ánh bản chất giai cấp tồn tại trong mỗi chế độ xã hội nhất định và có thể thay đổi
phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định của mỗi quốc gia.
Tất cả sự quy định của nhà nước nhằm tác động, điều chỉnh quá trình dịch
chuyển tài sản từ một người đã chết sang người còn sống sẽ hình thành khái niệm
quyền thừa kế theo nghĩa khách quan của nó.
Quyền thừa kế là một chế định của ngành luật dân sự bao gồm một tổng
hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận nhằm điều
chỉnh quá trình dịch chuyển những lợi ích vật chất từ người chết cho những
người còn sống khác.
Việc ghi nhận và xác định các quyền, nghĩa vụ nói trên không phải hoàn
toàn do ý chí chủ quan tuyệt đối của giai cấp lãnh đạo xã hội, dù rằng pháp luật là
ý chí của giai cấp đó. Bằng ý chí chủ quan của mình trên cơ sở dựa vào điều kiện
vật chất của xã hội, Nhà nước ta đã ghi nhận các quyền cũng như xác định các
nghĩa vụ trong lĩnh vực thừa kế cho các cá nhân và các chủ thể khác.
Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng phải xuất phát từ cơ sở kinh tế,
phù hợp với thực tế khách quan và do cơ sở kinh tế của xã hội quyết định. Khi
chế độ kinh tế thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi tương ứng trong sự quy định của
pháp luật. Vì vậy, dẫu rằng pháp luật là ý chí của Nhà nước (do Nhà nước đặt ra)
10
nhưng nó vẫn mang tính khách quan. Như vậy, khi xem xét quyền thừa kế dưới
góc độ một chế định pháp luật thì có nghĩa là xem xét, nhìn nhận ở phương diện
khách quan. Ngoài ra, quyền thừa kế còn được xem xét ở một phương diện khác,
phương diện chủ quan.
Nhìn nhận theo phương diện này, quyền thừa kế là quyền năng cụ thể của
mỗi một cá nhân trong việc để lại thừa kế và nhận di sản thừa kế, đó là những

khả năng mà các chủ thể được phép xử sự theo quy định của pháp luật, được để
lại thừa kế như thế nào, việc lập di chúc phải tuân thủ những yêu cầu gì, ai là
người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì bị tước quyền hưởng di sản, người
lập di chúc có những quyền năng gì v.v…
Quyền thừa kế cần được hiểu theo hai phương diện như sau:
- Về phương diện khách quan, quyền thừa kế được hiểu là tổng hợp các
quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chuyển
dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản (di sản) của người chết cho người còn sống.
- Về phương diện chủ quan, quyền thừa kế được hiểu là quyền dân sự cơ
bản của công dân được để lại tài sản của mình cho những người còn sống và
quyền của công dân được nhận di sản theo sự định đoạt của người có tài sản
(bằng di chúc) hoặc theo một trình tự và thủ tục pháp luật nhất định (thừa kế
theo pháp luật).
Như vậy, có thể khẳng định lại một lần nữa rằng, bản chất thực của quan hệ
thừa kế không thể hiện rõ nét trong loại hình thừa kế theo di chúc, mà nó được thể
hiện một cách sâu sắc trong loại hình thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch di sản của người chết
cho người còn sống theo mối quan hệ ràng buộc về huyết thống, gia đình hay
thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau khi họ chết và người nhận di sản. Thừa
kế theo pháp luật bảo đảm quyền của người có tài sản được để
lại tài sản của họ khi họ chết, nếu không thực hiện quyền định đoạt bằng việc lập
di chúc hoặc tuy có lập di chúc, song việc định đoạt đó bị hạn chế bởi pháp luật
hay di chúc họ lập ra không có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Thừa kế
theo pháp luật về bản chất là bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết
thống, gia đình hay thân thuộc với người có tài sản khi người này chết.
Quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống
được gọi là thừa kế hay được gọi là quan hệ thừa kế? Tương tự như vậy, quá
trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống khi đã có sự
tác động của pháp luật được gọi là quyền thừa kế hay được gọi là quan hệ pháp
luật về thừa kế?

Việc sử dụng thuật ngữ nào trong những trường hợp nói trên có ý nghĩa
tương đối quan trọng về mặt lý luận. Nếu cho rằng thừa kế là một quan hệ xã hội
thì thừa kế khi có sự điều chỉnh của pháp luật sẽ là một quan hệ pháp luật dân sự.
11
Và như vậy, sẽ động chạm đến một vấn đề tương đối lớn về mặt lý luận sau đây:
Trong khoa học pháp luật dân sự, người ta thường dựa vào những tiêu chí
khác nhau để phân chia quan hệ pháp luật dân sự thành các loại khác nhau:
- Nếu dựa vào tính xác định của chủ thể mang quyền và chủ thể mang
nghĩa vụ thì quan hệ pháp luật dân sự được phân thành quan hệ pháp luật dân sự
tuyệt đối và quan hệ pháp luật dân sự tương đối. Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt
đối là quan hệ mà trong đó chỉ xác định được chủ thể mang quyền, tất cả các chủ
thể khác là chủ thể mang nghĩa vụ. Quan hệ pháp luật dân sự tương đối là quan
hệ mà trong đó, tương ứng với chủ thể mang quyền đã được xác định cụ thể là
chủ thể mang nghĩa vụ cũng đã được xác định cụ thể, theo đó quyền của chủ thể
bên này là nghĩa vụ của chủ thể bên kia và ngược lại.
Như vậy, theo cách phân loại trên và nếu coi thừa kế là một quan hệ thì
quan hệ pháp luật về thừa kế sẽ thuộc nhóm quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối
hay tương đối? Điều này không thể lý giải được bởi lẽ nếu thừa kế là một quan hệ
pháp luật thì trong quan hệ đó bao giờ cũng đã xác định được cả hai bên chủ thể
nên không thể xếp nó vào nhóm các quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối được. Mặt
khác, trong quan hệ này không có sự tương ứng đối lập nhau về quyền, nghĩa vụ
giữa các bên chủ thể nên cũng không thể xếp nó vào nhóm các quan hệ pháp luật
dân sự tương đối.
- Nếu dựa vào cách thức thực hiện quyền dân sự của thể mang quyền thì
quan hệ pháp luật dân sự được phân chia thành quan hệ vật quyền và quan hệ
trái quyền. Quan hệ vật quyền là quan hệ pháp luật dân sự mà trong đó, chủ
thể mang quyền thực hiện quyền dân sự bằng chính hành vi của mình mà hoàn
toàn không phụ thuộc vào hành vi của người khác. Ví dụ: quan hệ pháp luật về
sở hữu được coi là quan hệ vật quyền vì trong đó khi thực hiện quyền dân sự
của mình, chủ sở hữu (chủ thể mang quyền) bằng chính hành vi của mình tác

động trực tiếp đến vật để thực hiện việc chiếm hữu, việc sử dụng và định đoạt
tài sản của mình. Quan hệ trái quyền là quan hệ pháp luật dân sự mà trong đó,
quyền của chủ thể bên này muốn được thực hiện phải thông qua hành vi thực
hiện nghĩa vụ của bên kia. Ví dụ: quan hệ nghĩa vụ vay nợ được coi là một
quan hệ trái quyền vì quyền thu hồi nợ của bên cho vay chỉ được thực hiện
chừng nào bên vay thực hiện hành vi trả nợ.
Theo cách phân loại trên và nếu coi thừa kế là một quan hệ thì quan hệ
pháp luật về thừa kế sẽ được xếp vào nhóm quan hệ nào? Trước hết, không thể
xếp nó vào nhóm các quan hệ trái quyền vì quyền nhận tài sản của người thừa kế
hoàn toàn không phụ thuộc vào hành vi của người để lại di sản, càng không thể
thông qua hành vi của người đó được vì quyền nhận di sản chỉ xuất hiện khi
người để lại di sản đã chết. Mặt khác, cũng không thể xếp thừa kế vào nhóm các
quan hệ vật quyền được bởi người thừa kế không thể tác động đến tài sản của
người để lại di sản nếu ở họ chưa xuất hiện quyền nhận di sản. Kể từ khi họ có
quyền nhận di sản thì di sản đó đã thuộc sở hữu của họ và khi họ bằng hành vi
12
của mình tác động trực tiếp đến di sản chính là việc họ đang thực hiện quyền của
một chủ sở hữu để chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chính mình. Thừa
kế chỉ là hệ luận của một quan hệ vật quyền và từ đó tạo ra một quan hệ vật
quyền khác. Bởi lẽ, như đã nói ở phần trước, thừa kế chỉ là sự tiếp nối giữa việc
để lại tài sản và việc nhận tài sản mà việc để lại tài sản của người đã chết (dù có
di chúc hay không) thì về bản chất, đều là quyền định đoạt tài sản của một chủ sở
hữu. Việc nhận di sản chính là việc người thừa kế tiếp nhận quyền định đoạt của
người để lại thừa kế.
Như vậy, nếu thừa kế là một quan hệ pháp luật thì nó phải thuộc hoặc
nhóm này hoặc nhóm kia theo các cách phân loại trên. Trong khi về mặt lý luận,
không thể xếp nó vào bất kỳ một nhóm nào bởi thực chất, thừa kế chỉ là một sự
kiện dịch chuyển tài sản từ một người đã chết sang người còn sống.
Theo quan niệm truyền thống thì quá trình dịch chuyển tài sản của người
đã chết cho người còn sống là một quan hệ xã hội về thừa kế và thường được gọi

quan hệ thừa kế. Đó là mối quan hệ giữa hai bên chủ thể. Một bên là người để lại
di sản và một bên là người nhận di sản thừa kế. Có lẽ cách gọi này xuất phát từ
quan điểm cho rằng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể là các quan hệ
xã hội. Thừa kế được pháp luật điều chỉnh nên nó phải là một quan hệ xã hội và
so với các quan hệ khác, thừa kế là một quan hệ xã hội khá đặc biệt.
Chúng tôi cho rằng, không nên hiểu khái niệm thừa kế là một “quan hệ
pháp luật” với các lý do sau đây:
Thứ nhất, ngoài việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật còn điều
chỉnh rất nhiều các sự kiện khác xảy ra trong thực tế. Khi một quan hệ xã hội
phát sinh cũng có nghĩa là đã xuất hiện một sự kiện nhưng một sự kiện xuất hiện
chưa hẳn đã làm xuất hiện một quan hệ xã hội. Trong đa số các trường hợp thì
khi xuất hiện một sự kiện sẽ đồng thời làm xuất hiện một quan hệ xã hội. Tuy
nhiên, cũng có rất nhiều sự kiện xuất hiện và đã được pháp luật dự liệu một hậu
quả pháp lý nhưng bản thân sự kiện đó không phải là một quan hệ xã hội và cũng
không làm xuất hiện một quan hệ xã hội nào. Chẳng hạn, hành vi từ bỏ quyền sở
hữu tài sản là một sự kiện được pháp luật điều chỉnh (xem Điều 249 BLDS)
nhưng hành vi đó không phải là một quan hệ xã hội. Thậm chí, hành vi này chính
là sự kiện làm chấm dứt một quan hệ pháp luật về sở hữu.
Thứ hai, trong một tác phẩm của mình, C. Mác đã viết:
“ Xã hội bất cứ dưới hình thức nào-là gì? Nó là sự tác động lẫn nhau giữa
người và người”
6
. Luận điểm trên của C. Mác đã chỉ cho chúng ta thấy rằng xã
hội vốn là tổng hoà các mối quan hệ giữa con người với con người.
Mặt khác, xã hội được định dạng thông qua hành vi xử sự của con người
hiện tại. Nói đến xã hội là nói đến sự cấu thành bởi những con người cụ thể -
những cá nhân sống. Vì thế, nếu quan hệ xã hội là quan hệ giữa người với người
6
Xem C.Mác: “Thư gửi Alencốp” Tuyển tập, tập II NXB Sự Thật, Hà Nội 1971 tr.450
13

thì phải là mối quan hệ giữa những người đang sống. Với một người đã chết,
người ta chỉ có thể nói rằng người đó đã từng tham gia quan hệ này hay quan hệ
khác mà tuyệt nhiên khôngthể nói rằng người đã chết đang tham gia một quan hệ
nào đó, trong khi thừa kế chỉ phát sinh khi người để lại tài sản đã chết.
Thứ ba, “để tham gia vào quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói
riêng, cá nhân phải có tư cách chủ thể được tạo thành bởi năng lực pháp luật và
năng lực hành vi”.
7
Mặt khác, tại Khoản 3-Điều 16-BLDS đã xác định “Năng lực
pháp luật của cá nhân chấm dứt khi người đó chết”. Vì thế, nếu nói rằng thừa kế
là quan hệ giữa người để lại di sản với người nhận di sản thì vô hình chung lại
thừa nhận rằng, cá nhân khi không còn năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự vẫn là chủ thể của một quan hệ pháp luật dân sự.
Thứ tư, theo nghĩa từ điển: “Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”
thì thừa kế được hiểu là sự tiếp nối giữa việc để lại di sản của người đã chết với
việc nhận di sản của người đang sống (mà không phải là mối quan hệ giữa họ).
Sự tiếp nối đó chính là quá trình dịch chuyển tài sản và được coi là sự kiện (căn
cứ) làm xác lập quyền sở hữu của người thừa kế đối với khối di sản mà họ đã
nhận thừa kế (Xem Điều 245-BLDS).
Thứ năm, cũng theo Từ điển tiếng Việt thì thừa kế còn một nghĩa thứ hai
đồng nghĩa với kế thừa là: “Thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy” (Từ điển
tiếng Việt) (nghĩa này chỉ dùng trong những trường hợp cái được thừa hưởng
mang giá trị tinh thần). Vì thế, nếu nói rằng kế thừa những di sản văn hoá của dân
tộc thì cần phải hiểu đó là sự thừa hưởng của thế hệ sau đối với những giá trị tinh
thần của thế hệ trước để lại mà không được hiểu là mối quan hệ giữa thế hệ trước
với thế hệ sau.
Như vậy, thừa kế nói chung là quá trình dịch chuyển di sản từ người đã
chết cho người còn sống. Nếu quá trình dịch chuyển này được thực hiện dựa trên
ý chí của người đã chết thể hiện trong di chúc mà họ để lại sẽ được gọi là: Thừa
kế theo di chúc. Mặt khác, nếu sự dịch chuyển trên được thực hiện “Theo hàng

thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định” sẽ được gọi là: Thừa
kế theo pháp luật.
2. Quan hệ thừa kế và hàng thừa kế.
2.1. Xác định hàng thừa kế.
Khái niệm chung về hàng thừa kế
Như chúng ta đã biết, khi thừa kế theo pháp luật thì di sản của người chết
phải được dịch chuyển cho những người thân thích của người đó. Tuy nhiên,
trong số những người đó thì mức độ gần gũi, thân thích của mỗi người đối với
người chết là khác nhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức
độ gần gũi nhất với người chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều
7
Xem “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND năm 2001, tr.52
14
người có cùng một mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng được hưởng di sản của
người đó. Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi
tiếp theo sẽ được hưởng di sản của người chết để lại. Như vậy, không phải tất cả
những người trong diện những người thừa kế theo pháp luật đều được thừa kế
cùng một lúc. Để những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản
theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết, pháp
luật về thừa kế đã xếp những người đó theo từng nhóm khác nhau. Mỗi một
nhóm đó được gọi là một hàng thừa kế theo pháp luật.
Vậy hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ
gần gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản
thừa kế mà người chết để lại.
Pháp luật về thừa kế ở Việt Nam thời kỳ Phong kiến quy định về hàng thừa
kế theo trật tự ưu tiên những người có quan hệ huyết thống ty thuộc nội tộc với
người để lại di sản. Bộ luật dân sự Bắc kỳ 1931 (gọi tắt là DLB và Bộ luật dân sự
Trung kỳ 1936 (gọi tắt là DLT) qui định về các hàng thừa kế như sau:
Hàng thứ nhất gồm: Các con (con đẻ, con nuôi, con vợ cả, con vợ lẽ) của
người để lại di sản. Trong trường hợp người để lại di sản không còn con thì cháu

hưởng di sản (Điều 18 DLB và Điều 182 DLT).
Hàng thứ hai bao gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người để lại di sản
Hàng thứ ba bao gồm: Ông nội, bà nội, cụ nội của người để lại di sản. (Các
cụ nội của người để lại di sản chỉ được hưởng di sản trong trường hợp cả ông nội,
bà nội của người để lại di sản không còn.
Hàng thứ tư bao gồm: Anh, chị, em ruột của người để lại di sản. Con của
anh, chị, em ruột người để lại di sản cũng thuộc hàng này trong trường hợp anh,
chị, em ruột của người để lại di sản đã chết trước người để lại di sản. Cháu gọi
anh, chị, em ruột của người để lại di sản bằng ông, bà cũng thuộc hàng thừa kế
này trong trường hợp anh, chị, em ruột và con của anh, chị, em ruột của người để
lại di sản đều đã chết người để lại di sản.
Hàng thứ năm bao gồm: Những người bên họ ngoại của người để lại di
sản. Những người này chỉ được hưởng di sản sau khi đã xác định bên họ nội của
người để lại di sản thừa kế không còn ai hoặc còn nhưng đều bị coi bất xứng
hưởng di sản.
Từ việc điểm qua qui định về hàng thừa kế trong pháp của một số nước và
pháp luật Việt nam thời Phong kiến, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng việc dịch
chuyển di sản đều được thực hiện theo “dòng chảy xuôi” nên bố mẹ không bao
giờ được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của con khi con chết,
cũng như vợ, chồng không thuộc hàng thừa kế thứ nhất khi một bên chết. Tất cả
di sản của người chết được dồn hết cho con của họ được hưởng, chỉ khi nào họ
15
không có con hưởng thừa kế thì di sản mới được chuyển dịch cho bố, mẹ theo
“dòng chảy ngược”.
Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến nay, chú trọng
nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con, giữa vợ và
chồng. v.v. đồng thời chú trọng đến mức độ gần gũi giữa người thừa kế với người
để lại di sản, pháp luật về thừa kế ở nước ta đã xác định hàng thừa kế hoàn toàn
khác. Nhìn chung, trừ Thông tư 1742 còn tất cả các văn bản pháp luật về thừa kế
đã từng được ban hành ở nước ta từ sau ngày nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

được thành lập (1945) cho đến nay đều xác định những người có cùng mức độ
gần gũi với người để lại di sản sẽ đứng vào cùng một hàng thừa kế mà không
phân biệt quan hệ giữa họ với người để lại di sản là hôn nhân, huyết thống hay
nuôi dưỡng. Theo đó, hàng thừa kế thứ nhất bao giờ cũng được xác định gồm
cha, mẹ, vợ, chồng, con của người chết. Tuy nhiên, tổng số hàng thừa kế trong
các văn bản pháp luật là khác nhau tuỳ thuộc vào pụam vi rộng hay hẹp của diện
thừa kế theo pháp luật.
Thông tư 1742 đã xác định thứ tự thừa kế theo luật như sau: thứ tự thứ nhất
gồm: Vợ hoặc chồng và các con của người chết, thứ tự thứ hai gồm: Cha, mẹ của
người chết, sau cha mẹ đến các hàng thừa kế khác. Như vậy, Thông tư này đã có
sự sắp xếp những người thừa kế theo từng hàng nhưng còn thiếu tính cụ thể vì
theo thứ tự trên sẽ được hiểu có ba hàng thừa kế nhưng “hàng thừa kế khác” bao
gồm những ai thì chưa được xác định. Việc qui định không rõ ràng của Thông tư
1742 dẫn đến việc Toà án khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế đã gặp nhiều
lúng túng khi xác định những người ở các hàng thừa kế khác.
Nhằm khắc phục thiếu sót trên của Thông tư 1742, TANDTC đã ban hành
Thông tư 594 hướng dẫn đường lối xét xử các tranh chấp về thừa kế. Trong đó đã
qui định: Hàng thừa kế thứ nhất gồm có: Vợ goá, (vợ cả goá, vợ lẽ goá) hoặc
chồng goá; các con đẻ, các con nuôi; bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi. Hàng thừa kế
thứ hai gồm có: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi; ông bà nội ngoại. Như vậy,
khác với Thông tư 1742, Thông tư 594 đã xếp bố, mẹ lên hàng thừa kế thứ nhất
để hưởng di sản do con để lại, đồng thời đã loại bỏ cụm từ “hàng thừa kế khác”
để xác định chính thức chỉ có hai hàng thừa kế.
Tiếp đến, Thông tư 81 được ban hành, trong đó cũng xác định hai hàng
thừa kế theo pháp luật và cơ bản giống qui định của Thông tư 594: những người
ở hàng thừa kế thứ nhất được qui định trong thông tư 594 vẫn được giữ nguyên
trong Thông tư 81. Tuy nhiên, ở hàng thừa kế thứ hai, Thông tư này đã bổ sung
thêm “anh chị em cùng cha khác mẹ, anh chị em cùng mẹ khác cha” .
Văn bản pháp luật qui định về thừa kế tiếp theo Thông tư 81 là Pháp lệnh
thừa kế. Như đã nói, đây là một văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực ở Trung

ương (Hội đồng Nhà nước) ban hành trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng và Nhà nước. Để đảm bảo hơn nữa về quyền thừa kế, của mọi chủ
chủ thể nói chung và của mọi cá nhân nói riêng, PLTK đã xác định diện những
16
người thừa kế theo pháp luật với một phạm vi rộng hơn Thông tư 81. Vì vậy, số
lượng hàng thừa kế theo pháp luật cũng nhièu hơn so với các văn bản pháp luật về
thừa kế trước đó. tại Điều 25 của PLTK đã qui định ba hàng thừa kế như sau:
- Hàng thứ nhất gồm: Vợ, chồng; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của
người chết.
- Hàng thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết.
Hàng thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngọi của người chết; bác ruột, chú ruột, cô
ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú
ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột. Như vậy, so với Thông tư 81, Pháp lệnh thừa kế có
nhiều điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Trong mối quan hệ thừa kế di sản của nhau giữa cha, mẹ và con,
PLTK không phân biệt người con đó có đang làm con nuôi của người khác hay
không. Vì vậy, khi cha mẹ chết thì con nuôi cũng như con đẻ đều đứng ở hàng
thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của bố, mẹ để lại và ngược lại, khi con chết thì
cha, mẹ đẻ cũng như cha, mẹ nuôi đều đứng ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di
sản của người con đã chết để lại.
Thứ hai, trong hàng thừa kế thứ hai, PLTK đã loại bỏ anh, chị, em nuôi của
người chết. Chúng tôi cho rằng đây là điểm tiến bộ đáng kể của PLTK so với
Thông tư 81 vì như chúng tôi đã nói, thuật ngữ “anh, chị, em nuôi” chỉ là những
người có cùng cha mẹ, trong đó có người là con nuôi, có người là con đẻ mà không
được hiểu là giữa họ có quan hệ nuôi dưỡng. Vì thế, anh, chị em, nuôi là thành
viên trong một gia đình sẽ cùng được hưởng di sản mà bố mẹ họ (bố mẹ nuôi, bố
mẹ đẻ) để lại, còn khi một trong những người đó chết mà họ không cùng bố, mẹ đẻ
ra (không phải anh, chị em ruột thì họ không được hưởng di sản của nhau.
Thứ ba, PLTK đã xếp thêm những người thuộc huyết thống trực hệ tôn

thuộc của người chết (huyết thống bề trên) ở đời thứ tư (cụ nội, cụ ngoại) cũng
như đã xếp thêm những người thuộc huyết thống bàng hệ của người chết ở đời
thứ hai (cô, dì, chú, bác, cậu của người chết và cháu của người chết là cô, dì, chú,
bác, cậu) vào trong hàng thừa kế thứ ba.
Sau một thời gian dài áp dụng PLTK nói riêng và các văn bản pháp luật dân
sự nói chung vào thực tiễn cuộc sống, trước sự phát triển không ngừng và phong
phú, đa dạng của các quan hệ dân sự cho thấy việc qui định để điều chỉnh các quan
hệ dân sự bằng các văn bản dưới luật đã không còn phù hợp và không đáp ứng
được đòi hỏi của thực tế cuộc sống. Trước tình hình đó Bộ luật dân sự 1995 được
ban hành và trở thành một công cụ pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức, lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, đảm bảo sự bình đẳng và an
toàn pháp lý trong các quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Với tinh
thần đó Bộ luật dân sự 1995 là một văn bản pháp luật đã hệ thống hoá, pháp điển
17
hoá toàn bộ pháp luật dân sự của nước ta từ trước đên nay. Tuy nhiên, về hàng
thừa kế theo pháp luật, Bộ luật dân sự vẫn giữ nguyên qui định của PLTK. Tại
Điều 679, Bộ luật dân sự 1995 qui định về hàng thừa kế như sau:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi; con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gôm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết.
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột.”
Theo qui định trên thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người thừa kế
của cháu ở hàng thừa kế thứ hai nhưng cháu không thuộc hàng thừa kế thứ hai của
ông, bà. Tương tự như vậy, cụ nội, cụ ngoại là người thừa kế của chắt ở hàng thừa
kế thứ ba nhưng chắt không thuộc hàng thừa kế thứ ba của các cụ. Sở dĩ các nhà
làm luật không đưa cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà, không đưa chắt vào

hàng thừa kế thứ ba của các cụ là vì muốn để cho cháu hưởng di sản của ông bà,
chắt hưởng di sản của các cụ theo chế độ thừa kế thế vị trong trường hợp cha mẹ
của cháu và cha, mẹ của chắt chết trước ông, bà, các cụ. Khi ban hành Bộ luật dân
sự 1995, các nhà làm luật cho rằng dù có xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai để
hưởng di sản của ông, bà thì theo trình tự cháu vẫn không được hưởng di sản của
ông bà nếu cha mẹ cháu vẫn còn sống vào thời điểm ông, bà chết. Nếu cha mẹ
cháu chết trước ông, bà thì cháu đã được hưởng di sản của ông, bà theo chế độ
thừa kế thế vị. Vì thế, sẽ là thừa nếu xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà,
chắt vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ. Tuy nhiên, cách hiểu này và qui định định
trên đã bộc lộ sự thiếu sót và đã được bổ sung trong Bộ luật dân sự 2005.
Do sự thay đổi và phát triển về nhiều mặt của cuộc sống, các quy định
trong BLDS 1995 đã có nhiều điểm trở nên bất cập và nhiều thiếu sót. Vì thế,
Nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự 1995 bằng Bộ luật
dân sự 2005. Về hàng thừa kế theo pháp luật, Điều 676-Bộ luật dân sự 2005
qui định như sau:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi; con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoịa; anh
ruột, chị ruôt, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột chủ người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
18
Như vậy, về cơ bản thì Bộ luật dân sự 2005 giữ lại qui định của Bộ luật
dân sự 1995 về hàng thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, có bổ sung thêm cháu
vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà, chắt vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ.
Chúng tôi cho rằng sự bổ sung này là cần thiết trong việc bảo vệ quyền hưởng di
sản của cháu đối với di sản của ông, bà và quyền hưởng di sản của chắt đối với di

sản của các cụ trong một số trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, cha của cháu là người
thừa kế theo luật duy nhất của ông, bà nhưng lại là người không được quyền
hưởng di sản theo khoản 1, Điều 643. Nếu không có bổ sung này thì trong trường
hợp đó cháu sẽ không được hưởng thừa kế di sản mà ông, bà để lại vì cháu không
thuộc hàng thừa kế nào của ông bà và thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi cha, mẹ
chết trước ông, bà và không bị tước quyền thừa kế.
2.2. Xác định quan hệ thừa kế
Theo qui dịnh của Điều 676, BLDS 2005 thì quan hệ thừa kế giữa những
người trong cùng một hàng thừa kế được xác định như sau:
* Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có
quyền hưởng di sản của nhau:
+ Về quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng:
Vợ - chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người đàn bà
trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng
là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là “thừa kế đối nhau”,
“thừa kế của nhau”, nghĩa là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là người thừa
kế ở hàng thứ nhất và ngược lại, khi bên kia chết thì bên này là người thừa kế ở
hàng thứ nhất. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ
hôn nhân. Theo qui định tại Điều 8, Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm
2000 (gọi tắt là Luật Hôn nhân 2000) thì “hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng
sau khi đã kết hôn”. Mặt khác, cũng tại Điều 8 của luật trên còn qui định “Kết
hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo qui định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đằn ký kết hôn”.
Vì thế, vợ - chồng được thừa kế di sản của nhau khi một bên chết, nếu vào
thời điểm mở thừa kế mà quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn
tại. Tuy nhiên việc thừa nhận nam và nữ có quan hệ hôn nhân để theo đó xác định
họ là vợ chồng, được thừa kế di sản của nhau theo hàng thừa kế thứ nhất rất khau
nhau trong các giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn, kể từ khi Luật Hôn nhân
và gia đình 1959 của nước ta có hiệu lực, thì chế độ hôn nhân tiến bộ một vợ một
chồng mới được xác lập ở nước ta. Vì vậy, trong giai đoạn này phải chấp nhận

hậu quả của chế độ đa thê về hôn nhân do chế độ cũ để lại nên một người có
nhiều vợ mà các quan hệ hôn nhân đó được xác lập trước ngày 13/1/1960 vẫn
phải được thừa nhận và phải thừa nhận giữa họ có quan hệ thừa kế di sản của
nhau theo quan hệ hôn nhân.
19
Chính vì thế, khi xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và chồng
cần lưu ý các trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất, vợ chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hôn,
sau đó một bên chết thì về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn tại. Do
đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ hai, vợ chồng đã sống ly thân và về mặt tình cảm hầu như
tình yêu giữa họ đã “chết” nhưng vì một lý do tế nhị nào đó nên họ không ly hôn
thì dù về mặt tình cảm, hôn nhân giữa họ “đã chết” nhưng về mặt pháp lý, hôn
nhân giữa họ vẫn đang tồn tại. Vì vậy, người còn sống vẫn được hưởng di sản của
người đã chết.
Trường hợp thứ ba, khi một bên chết, dù người còn sống đang sống chung
với người khác như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn được
hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ tư, vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được Toà án cho ly
hôn hoặc đã được Toà án cho ly hôn nhưng quyết định hoặc bản cho ly hôn chưa
có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản
của người đã chết.
Trường hợp thứ năm, nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn
nhân đó đều được tiến hành trước ngày 13/1/1960 ở miền Bắc (ngày Luật Hôn
nhân và Gia đình 1959 có hiệu lực pháp luật) và trước ngày 25/3/1977 ở miền
Nam (ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên toàn quốc) thì khi
người chồng chết trước tất cả các người vợ (nếu còn sống vào thời điểm người
chồng chết) đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người chồng.
Ngược lại, chồng là người thừa kế thứ nhất của những người vợ đã chết trươc
người chồng đó.

Trường hợp thứ sáu, nếu cán bộ, chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập
kết ra miền Bắc, lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng
một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở
hàng thừa kế thứ nhất của người chồng khi người chồng chết trước, và ngược lại
khi những người vợ chết trước người chồng thì người chồng là người thừa kế ở
hàng thứa nhất của người vợ đã chết.
Trường hợp thứ bảy, đối với các trường hợp hôn nhân không đăng ký kết
hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế (gồm các cuộc hôn nhân được tiến
hành trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều
kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn) thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn
được thừa nhận và do vậy họ là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng
thừa kế thứ nhất.
Trường hợp thứ tám, hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống
chung với nhau trước ngày luật Hôn nhân và Gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật
20
mà cuộc sống chung đó không bị huỷ bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật
thì họ vẫn được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng theo hôn nhân nên vẫn được
coi là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
+ Về quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con: Quan hệ thừa kế giữa một bên
là cha, mẹ với một bên là con cũng là quan hệ thừa kế mang tính hai chiều. Quan
hệ này được xác định theo một trong hai căn cứ. Nếu căn cứ vào quan hệ huyết
thống thì đó là những người có cùng một dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời
liền kề nhau. Trong đó, cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra người đó
và được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, cha, mẹ của người do mình sinh ra dù trong
hay ngoài giá thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người thừa kế ở hàng
thứ nhất để hưởng di sản theo pháp luật khi người con chết. Và ngược lại, người
con trong hay ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thứa nhất để hưởng di
sản do cha, mẹ mình để lại. Nếu căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng thì đó là quan hệ
giữa những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha - con, mẹ - con hoặc theo cha,
mẹ - con. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là người đã nhận người đó làm con

nuôi của mình theo qui định của pháp luật. Cha nuôi, mẹ nuôi là những người
thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của con nuôi khi người con nuôi đó chết và
ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ nuôi khi
cha, mẹ nuôi chết.
Trong trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì họ vừa là
người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản của người con nuôi khi người con
nuôi đó chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của
con đẻ khi người con đẻ đó chết. Ngược lại một người đang là con nuôi của
người khác thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản
của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ
nhất để hưởng di sản của cha, mẹ đẻ khi cha, mẹ đẻ chết.
Đối với trường hợp người nhận nuôi con không đăng ký việc nhận nuôi
con nuôi theo dúng qui định của pháp luật thì cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ là
người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau khi được công nhận là nuôi con
nuôi thực tế.
Cần lưu ý rằng cụm từ “cha mẹ và con” còn được dùng để chỉ các quan hệ
khác như quan hệ giữa cha, mẹ của một người với vợ của người đó (quan hệ này
được gọi là cha, mẹ chồng với con dâu) hoặc giữa cha, mẹ của một người với
chồng của người đó (quan hệ này được gọi là cha, mẹ vợ với con rể). Nhưng
trong các trường hợp nói trên, không có các căn cứ để xác định mối quan hệ thừa
kế theo pháp luật giữa họ. Vì thế, con dâu không phải là người thừa kế theo pháp
luật của cha, mẹ chồng, con rể không phải là người thừa kế theo pháp luật của
cha, mẹ vợ.
Tuy nhiên, nếu người con dâu tham gia lao động chung trong gia đình cha,
mẹ chồng, góp công sức trong việc xây dựng khối tài sản của gia đình cha, mẹ
chồng thì người con dâu đó có quyền hưởng phần tài sản tương xứng với công
21
sức đóng góp của mình trong khối tài sản chung hiện có với tư cách là một đồng
chủ sở hữu. Vì vậy, trước khi chia di sản của cha, mẹ chồng cho những người
thừa kế cần phải tách từ khối tài sản đó phần tài sản thuộc quyền của người con

dâu. Người con rể trong trường hợp tương tự trên cũng được đảm bảo quyền lợi
như người con dâu.
Ngoài ra, cụm từ trên còn được dùng để chỉ quan hệ giữa con của một
người với vợ kế của người đó hoặc giữa con của một người với chồng kế của
người đó. Các quan hệ này được Bộ luật dân sự (cả 1995 và 2005) gọi là “quan
hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế.”
Khi xác định về quan hệ thừa kế giữa những người này, Điều 679, Bộ luật
dân sự 2005 đã qui định:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo qui định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này”.
Điều luật trên qui định về hai mối quan hệ: Quan hệ giữa con riêng với bố
dượng: là quan hệ giữa người chồng với con riêng của người vợ. Quan hệ giữa con
riêng với mẹ kế: là quan hệ giữa người vợ với con riêng của người chồng. Các bên
trong hai mối quan hệ nói trên không có quan hệ huyết thống nên về nguyên tắc thì
họ không phải là người thừa kề theo pháp luật của nhau. Tuy nhiên, nếu giữa họ có
quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng lẫn nhau thì họ được xác định tương tự như cha mẹ
nuôi với con nuôi và vì thế họ sẽ là người thừa ở ở hàng thứ nhất của nhau nhưng
không đương nhiên mang tính hai chiều như quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ nuôi với
con nuôi. Cụ thể là: Nếu bố dượng chăm sóc, nuôi dưỡng và coi con riêng của vợ
như con của mình thì khi người con đó chết, bố dượng sẽ là người thừa kế ở hàng
thừa kế thứ nhất của người con đó. Nếu con riêng của người vợ chăm sóc, nuôi
dưỡng và coi bố dượng như cha của mình thì khi bố dượng chết, con riêng của
người vợ mới được coi là người thừa kế ở hàng thứ nhất của bố dượng. Quan hệ
thừa kế giữa con riêng của chồng với mẹ kế cũng được xem xét tương tự như trên.
Tuy nhiên, như thế nào thì được coi là có “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
như cha con, mẹ con” là một vấn đề hết sức khó khăn trong thực tiễn.
Thực tế cho thấy khi con riêng và mẹ kế cũng như con riêng và bố dượng
không ở chung và sinh hoạt cùng một gia đình thì không thể xác định giữa họ có
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng trong khi những người con đó thật sự về mặt tình

cảm đã coi mẹ kế như mẹ đẻ, coi bố dượng như cha đẻ của mình và mặc dù không
sống cùng nhà nhưng họ luôn luôn quan tâm và thường gửi tiền cũng như các vật
chất khác để phụng dưỡng bố dượng, mẹ kế. Ngược lại, có trường hợp tuy ở cùng
nhà với nhau nhưng giữa họ “bằng mặt nhưng không bằng lòng” nên việc xác định
giữa họ có chăm sóc nuôi dưỡng nhau “như cha con, mẹ con” là hết sức khó khăn.
Thiết nghĩ, vấn đề này cần phải có văn bản hướng dẫn thêm. Nhận xét về
Điều 679, chúng tôi cho rằng kết cấu ngôn ngữ của điều luật là thừa dẫn đến khó
22
hiểu. Tại sao đã “được thừa kế di sản của nhau” lại còn “được thừa kế di sản theo
qui dịnh tại Điều 676”? Vậy “Được thừa kế di sản của nhau” là được thừa kế theo
cơ sở nào nếu như không phải là thừa kế theo pháp luật? Trong khi thừa kế theo
Điều 676 và Điều 677 chính là thừa kế theo pháp luật. Vì vậy, Điều 676 Bộ luật
dân sự cần phải được kết cấu lại ngôn ngữ như sau:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con thì được coi là người thừa kế ở hàng thứ nhất để
hưởng di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo qui định tại Điều 677 của
Bộ luật này”.
* Ở hàng thừa kế thứ hai có hai mối quan hệ giữa những người có quyền
hưởng di sản của nhau:
+ Về quan hệ thừa kế giữa ông bà với cháu.
Theo điểm b, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì căn cứ để xác
định mối quan hệ thừa kế này là hoàn toàn dựa vào quan hệ huyết thống mà
không dựa vào quan hệ nuôi dưỡng. Pháp luật không đương nhiên thừa nhận giữa
cha đẻ, mẹ đẻ của một người với người con nuôi của người đó có quan hệ thừa
kế. Vì vậy, ông nội, bà nội của một người là người đã sinh ra cha đẻ của người
đó, ông ngoại, bà ngoại của một người là người đã sinh ra mẹ đẻ của người đó.
Trước đây, trong Bộ luật dân sự 1995 không xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai
của ông bà nên quan hệ thừa kế này chỉ có một chiều nhưng theo Bộ luật dân sự
2005 thì quan hệ thừa kế này là thừa kế hai chiều vì cháu đã được xếp vào hàng
thừa kế thứ hai của ông, bà. Do vậy, nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại còn

sống vào thời điểm người cháu của mình chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật
ở hàng thừa kế thứ hai của người cháu đó. Ngược lại, khi ông ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại chết thì cháu của người chết sẽ là người thừa kế theo pháp
luật ở hàng thừa kế thứ hai của người đó. Cũng theo qui định của điểm b, nói trên
thì khi ông bà chết chỉ có cháu ruột mới được thừa kế di sản của ông bà ở hàng
thừa kế thứ hai. Tuy nhiên, cần bàn thêm rằng khi cháu chết thì ông, bà nuôi (cha,
mẹ nuôi của cha, mẹ đẻ người chết hoặc cha mẹ của cha, mẹ nuôi người chết) có
được hưởng di sản của người cháu đó theo hàng thừa kế thứ hai không, vì vấn đề
này điểm b) nói trên chưa qui định cụ thể.
Nếu theo tinh thần Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1991 của Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn: “Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ
của người nuôi dưỡng” thì con nuôi của một người muốn được xác định có quan
hệ ông cháu, bà cháu với cha mẹ, của cha, mẹ nuôi của mình phải được sự thừa
nhận của người đó. Tuy nhiên, khi giải quyết thừa kế theo mối quan hệ này, theo
chúng tôi, cần xác định thành hai trường hợp:
Thứ nhất, Nếu ông, bà là cha mẹ nuôi của cha mẹ đẻ người chết thì cần xác
định ông, bà là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của người đó.
23
Thứ hai, nếu người chết là con nuôi của con đẻ hay con nuôi của ông bà thì
ông bà không đương nhiên là người thừa kế ở hàng thừa kế thứa hai của người chết.
+ Về quan hệ thừa kế giữa anh ruột, chị ruột với em ruột
Đây là quan hệ thừa kế giữa hai bên, trong đó một bên hoặc là anh ruột
hoặc là chị ruột hoặc là cả anh ruột, chị ruột và một bên là em ruột. Quan hệ
thừa kế này được hình thành theo một căn cứ duy nhất là quan hệ huyết thống.
Bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ cùng một đời. Tuy nhiên,
như thế nào được gọi là “anh, chị, em ruột” còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Pháp luật thời Phong kiến Việt Nam cũng như ngay một số văn bản pháp luật
trước đây của nước ta như Thông tư 81 xác định “anh, chị, em cùng cha khác
mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha” là khác với “anh, chị, em ruột”. Theo đó,
người ta vẫn thường hiểu rằng chỉ có anh chị em cùng cha cùng mẹ mới được

coi là anh, chị, em ruột.
Chúng tôi cho rằng cứ người nào có liên quan về huyết thống với nhau thì
được gọi là “ruột” và do vậy cứ anh chị, em có liên quan về huyết thống với
nhau thì được coi là anh chị, em ruột dù huyết thống giữa họ chỉ về bên người
cha hay chỉ về bên người mẹ. Theo cách hiểu này thì một người sinh ra bao
nhiêu người con thì tất cả những người đó đều là anh, chị, em ruột của nhau.
Như vậy, anh, chị, em ruột bao gồm: Những người có cùng cha, cùng mẹ,
những người có cùng mẹ tuy khác cha, những người có cùng cha tuy khác mẹ.
Quan hệ thừa kế giữa anh, chị em ruột với nhau là quan hệ thừa kế hai chiều.
Nghĩa là trong quan hệ này, nếu anh hoặc chị hoặc cả anh chị chết thì em ruột sẽ
là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản của anh, chị đã chết.
Ngược lại nếu em chết thì anh, chị sẽ là những người ở hàng thừa kế thứ hai để
hưởng di sản của người em đã chết.
Cần lưu ý rằng không hình thành quan hệ thừa kế giữa anh, chị em từ quan
hệ nuôi dưỡng, vì vậy trong trường hợp một người vừa có con nuôi, vừa có con
đẻ thì giữa con nuôi và con đẻ của người đó không phải là anh, chị, em ruột của
nhau nên họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau.
* Ở hàng thừa kế thứ ba, gồm hai mối quan hệ sau đây:
+ Về quan hệ thừa kế giữa cụ với chắt
Nếu xét đơn thuần về huyết thống thì cụ của một người là người đã sinh ra
ông nội hoặc bà nội của người đó. Cụ ngoại của một người là người đã sinh ra
ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó. Như vậy, các cụ của một người là những
người đã sinh ra ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của người đó, người đó là
chắt của các cụ. Điểm c), khoản 1, của Điều 676 Bộ luật dân sự đã phân biệt các
cụ thành nội, ngoại trong khi việc phân biệt nội, ngoại không quan trọng và
không cần đặt ra vì các cụ ngang quyền nhau khi hưởng di sản mà chắt để lại. Cái
cần phải xác định là cụ ruột hay không thì điểm c) nói trên lại không quy định cụ
thể. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa cụ với chắt cũng giống căn cứ để
24
xác định quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu. Quan hệ giữa ông bà với cháu

cũng như quan hệ giữa cụ với chắt là quan hệ ngành dọc theo một chuỗi thế thế
hệ từ đời thứ nhất đến đời thứ ba (ông, bà - cháu), hoặc đến đời thứ tư (cụ - chắt).
Trong chuỗi thế hệ đó có thể chỉ đơn thuần là huyết thống nhưng cũng rất nhiều
trường hợp có thể đan xen cả huyết thống, cả nuôi dưỡng.
Về mặt pháp lý, luật chỉ qui định rằng khi chắt đứng vào hàng thừa kế thứ
ba để hưởng di sản của cụ thì phải là “chắt ruột của người chết” còn khi cụ ở
hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của chắt thì luật chưa xác định là cụ ruột hay
không. Từ đó chúng ta thấy rằng việc xác định giữa cụ và chắt có quan hệ thừa kế
với nhau trong những trường hợp nào là một việc hết sức khó khăn. Chúng tôi thì
cho rằng, theo nguyên tắc bình đẳng trong thừa kế nên nếu là chắt ruột mới được
hưởng di sản của cụ thì cũng phải là cụ ruột mới được hưởng di sản của chắt. Tuy
nhiên, do sự đan xen về huyết thống và nuôi dưỡng nói trên nên trong thực tế nếu
mọi trường hợp nhất nhất đều áp dụng theo nguyên tắc sẽ có nhiều bất cập.
Theo qui định của điểm c), khoản 1, Điều 767, Bộ luật dân sự 2005 thì
quan hệ thừa kế giữa các cụ và chắt được xác định như sau: Khi chắt chết, các cụ
là người thừa kế ở hàng thứ ba của chắt và ngược lại, khi cụ chết chắt ruột là
người thừa kế ở hàng thứ ba để hưởng di sản thừa kế của người cụ đã chết để lại.
+ Về quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột
với cháu ruột.
Mỗi một địa phương có cách gọi, xưng hô giữa các thành viên trong một
đại gia đình một cách khác nhau. Chẳng hạn, cũng là chị của mẹ nhưng ở vùng
Trung du Bắc bộ được gọi là “bá”, ở vùng châu thổ sông Hồng gọi là “già”, em
gái của mẹ được gọi là “dì” (các con của chị em gái được gọi là: “con dì, con
già”) nhưng ở miền Trung thì em gái hay chị gái của mẹ đều được gọi là “dì” (vì
thế, các con của chị em gái được gọi là: “đôi bạn con dì”). Hoặc, “bác” ở miền
Trung có nghĩa là anh trai của bố, nhưng ở một số nơi khác thì “bác” có thể là chị
gái của bố hoặc chị gái của mẹ. Vì vậy, hiểu một cách chung nhất thì bác ruột,
chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của một người là anh ruột, chị ruột, em ruột
của cha đẻ hoặc của mẹ đẻ người đó. Cơ sở hình thành mối quan hệ thừa kế giữa
những người này là quan hệ huyết thống bàng hệ giữa hai đời liền kề nhau. Đây

là những người có quyền hưởng di sản của nhau theo hàng thừa kế thứ ba, nghĩa
là khi cháu chết trước thì chú, bác, cô dì cậu ruột nếu còn sống là những người
thừa kế ở hàng thừa kế thứ ba của cháu. Ngược lại, nếu cô, dì, chú, bác, cậu ruột
chết thì cháu là người thừa kế ở hàng thứ ba của người chết.
2.3. Quan hệ thừa kế trong thừa kế thế vị
2.3.1. Khái niệm chung về thừa kế thế vị
Điều 677, BLDS 2005 đã qui định về thừa kế thế vị như sau:
25

×