Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.99 KB, 2 trang )
Nếu căn cứ vào con số thống kê của từng trường cũng như của ngành giáo dục thì số lượng học
sinh thuộc loại yếu kém là không đáng kể, chỉ khoảng 5-10% mà thôi. Nhưng đó là con số “ảo”
bởi căn bệnh thành tích.
Còn những người trong cuộc, hiểu biết tường tận về chất lượng giáo dục phổ thông thì không bao
giờ tin vào những con số “trên trời” như vậy. Thực tế, nếu đánh giá cho đúng đắn, chính xác thì số
lượng học sinh THCS, THPT đạt học lực loại trung bình trở lên thì chỉ khoảng 50-60% là cùng.
Như vậy, số học sinh học yếu kém vẫn còn rất lớn. Câu hỏi đặt ra là, tại sao số lượng học sinh của
chúng ta lại học yếu kém nhiều đến thế, trong bối cảnh, điều kiện học tập của các em hôm nay hơn
hẳn học sinh thời trước đây rất nhiều?
Vốn dạy THPT nhiều năm, tôi muốn tham gia ý kiến về những nguyên nhân cơ bản của tình trạng
này:
1- Đối với học sinh cấp tiểu học, từ năm học vừa qua, Bộ GD & ĐT triển khai cách đánh giá mới,
nhận xét quá trình học tập thay cho đánh giá bằng điểm số, nhằm giảm bớt áp lực cạnh tranh về
điểm số, về kết quả học tập cho các em tiểu học. Tôi cho đó là một chủ trương đúng đắn, phù
hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh bậc học tiểu học. Và ở bậc học này, nhà trường, thầy cô giáo
tạo điều kiện cho tất cả các em lên lớp hằng năm cũng là điều tốt.
Đến bậc học THCS và THPT, việc đánh giá học lực học sinh vẫn như cũ, chủ yếu căn cứ vào kết
quả điểm qua các cột điểm, bài kiểm tra, thi học kỳ. Tất nhiên, trong đánh giá, phân loại, sẽ có
những em học được, học giỏi, cũng như em học không được, học yếu kém. Quy chế đánh giá học
sinh, nêu rất rõ, những học sinh không đạt yêu cầu về hai mặt hạnh kiểm và học lực, thì phải ở lại
lớp, thi lại lớp, hoặc rèn luyện trong hè.
Nhưng thực tế, hầu hết các trường rất “sợ” cho học sinh không đạt yêu cầu ở lại lớp, thành thử,
cuối năm làm mọi cách cho lên lớp bằng hết. Chủ yếu là bị bệnh thành tích, chỉ tiêu thi đua “đè”
quá nặng và tình cảm thương hại học trò – phụ huynh.
Năm nào cũng được lên lớp, dù học không được, tạo cho các học sinh này tâm lý ỷ lại ,chủ quan
và cả khinh nhờn trong học tập. Thiết nghĩ, ở lứa tuổi học sinh cấp 2 và 3, nếu không đạt yêu cầu,
cần cho các em ở lại lớp, để được rèn luyện và thử thách. Âu đấy cũng là công bằng và động lực
của giáo dục.
2- Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều loại hình vui chơi, giải
trí ra đời, thu hút, lôi cuốn phần đông đối tượng thanh thiếu niên, học sinh tham gia. Những hình
thức vui chơi, giải trí, nhất là game online, bùng nổ, có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, đã, đang “đầu độc”