Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn thạc sĩ Báo chí học-truyền thông về vấn đề xóa đói giảm nghèo trên báo bắc kạn và yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.23 KB, 115 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của Đề tài......................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề............................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài................................................................10
7. Cấu trúc của luận văn.......................................................................................11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THÔNG XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO TRÊN BÁO CHÍ................................................................................12
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu............................................12
1.2.Vấn đề xóa đói giảm nghèo tại tỉnh Bắc Kạn và Yên Bái...................................21
1.3 Truyền thông về xóa đói giảm nghèo trên báo chí.............................................27
1.4 Vai trò của truyền thông xóa đói giảm nghèo qua báo chí...................................28
1.5 Một số tiêu chí đánh giá hiệu quả truyền thông xóa đói giảm nghèo trên báo chí. 30
Tiểu kết chương 1................................................................................................33
Chương 2: THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG VỀ VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO TRÊN BÁO BẮC KẠN VÀ YÊN BÁI.................................35
2.1 Giới thiệu chung về hai cơ quan báo chí khảo sát..............................................35
2.2 Thực trạng truyền thông về vấn đề xóa đói giảm nghèo trên 02 tờ báo khảo sát41
Tiểu kết chương 2................................................................................................72
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRUYỀN
THÔNG
VỀ VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN BÁO BẮC KẠN VÀ
YÊN BÁI.............................................................................................................74
3.1 Vấn đề đặt ra.................................................................................................74
3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông về vấn đề xóa đói giảm nghèo trên
báo Bắc Kạn và Yên Bái......................................................................................75
3.3 Đề xuất, kiến nghị..........................................................................................81
Tiểu kết chương 3................................................................................................84


KẾT LUẬN........................................................................................................86
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................89
PHỤ LỤC............................................................................................................92


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

PGS.TS

: Phó Giáo sư. Tiến sĩ

XĐGN

: Xóa đói giảm nghèo

CTMTQG

: Chương trình Mục tiêu Quốc gia

XDNTM

: Xây dựng Nông thôn mới


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 2.1 Cơ cấu nội dung các tác phẩm phản ánh XĐGN……….......
Biểu đồ 2.2 Đánh giá về hình thức của các tác phẩm truyền thông về

48
52

XĐGN trên báo Bắc Kạn và Yên Bái .......................................................
Biểu đồ 2.3: Tần suất đọc báo Đảng ở Bắc Kạn và Yên Bái............ 53
Biểu đồ 2.4 Mức độ quan tâm của công chúng với truyền thông XĐGN. 55
Biểu đồ 2.5 Tính chính xác về nội dung truyền thông về vấn đề XĐGN.. 57
Biểu đồ 2.6 Tính trung thực về nội dung truyền thông về vấn đề XĐGN. 59
Biểu đồ 2.7: Tính thời sự về nội dung truyền thông về vấn đề XĐGN..... 60
Biểu đồ 2.8 Mức độ tác động của các yếu tố đến hiệu quả truyền thông.. 63


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của Đề tài
Những năm trở lại đây Việt Nam được đánh giá là một trong những nước
có công tác xoá đói giảm nghèo (XĐGN) tốt nhất trên thế giới. Theo thống kê
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, từ năm 2013 tỷ lệ nghèo ở Việt Nam
giảm từ gần 60% xuống còn 20,7% trong 20 năm qua (1990-2010) với khoảng
30 triệu người. Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm xuống còn 5,97%.
Và tính đến hết năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo của nước ta còn dưới 5%. Đây là một
con số ấn tượng, cho thấy tỷ lệ nghèo ở nước ta thuyên giảm đáng kể qua các
năm. Tuy nhiên, tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững, khoảng cách
giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn; nhiều vùng còn nhiều khó
khăn, có vùng còn trên 50% hộ nghèo, cá biệt có vùng còn 60% -70% hộ nghèo.
Tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm gần 50% tổng số hộ nghèo trong cả
nước, thu nhập bình quân của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập
bình quân cả nước.

Nhằm khắc phục những hạn chế đó, những năm qua Đảng và Nhà nước ta
đã luôn quan tâm đến vấn đề XĐGN và coi đó là một chủ trương lớn cần triển
khai. Với mục tiêu XĐGN trong thời gian tới là giảm tỷ lệ nghèo cả nước bình
quân 1,0%- 1,5%/năm, riêng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm
4%/năm theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2016- 2020, Đảng và nhà nước đã
luôn chú trọng và thực hiện xuyên suốt theo quan điểm tập trung phát triển kinh
tế gắn với XĐGN bằng nhiều chương trình, mục tiêu quốc gia. Đến nay, công
tác giảm nghèo ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, được thế
giới công nhận và đánh giá cao. Những kết quả đó có được, một phần cũng là
nhờ việc tuyên truyền của các cơ quan báo chí của Trung ương và địa phương.
Báo chí là lực lượng hết sức quan trọng, là kênh tuyên truyền, là cầu nối
kịp thời giữa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về
XĐGN đối với người dân. Ngoài ra, báo chí còn có nhiều phản biện, phát hiện
1


vấn đề và giúp các cơ quan quản lý Nhà nước xây dựng, soạn thảo chính sách
cho phù hợp với thực tiễn; phát hiện nhiều vụ việc tiêu cực, những địa chỉ người
nghèo, có hoàn cảnh khó khăn trên cả nước; xây dựng nhiều chương trình truyền
hình, chuyên trang, chuyên mục về XĐGN để bà con học hỏi cách làm hay và cả
xã hội cùng chung tay góp sức giúp đỡ…
Tỉnh Yên Bái và tỉnh Bắc Kạn là tỉnh miền núi phía Bắc có tình trạng đói
nghèo còn cao, trong những năm gần đây, việc tuyên truyền các chính sách, chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về XĐGN qua các phương tiện truyền
thông đại chúng, nhất là qua báo chí cũng được quan tâm, chú trọng và phát huy
có hiệu quả. Truyền thông trên báo chí có sức ảnh hưởng lớn, tác động một cách
trực tiếp vào nhận thức của người dân, giúp người dân tiếp cận với những chính
sách hỗ trợ của nhà nước, học tập những gương điển hình trong sản xuất, đời
sống để vận dụng và dần thoát khỏi cái nghèo.
Tuy nhiên, hiện nay công tác truyền thông về XĐGN tại báo Bắc Kạn và

Yên Bái còn một số hạn chế nhất định về chất lượng tác phẩm, nội dung thông
tin phản ánh chưa sinh động, nhiều chiều, chưa thật sự phát huy sức mạnh và lợi
thế của báo Đảng địa phương trong việc tuyên truyền chính sách, pháp luật về
XĐGN. Trước thực trạng đó, tôi đã lựa chọn Đề tài nghiên cứu:“Truyền thông
về vấn đề xóa đói giảm nghèo trên báo Bắc Kạn và Yên Bái” làm Luận văn
thạc sỹ để khảo sát, đánh giá thực tiễn hoạt động truyền thông về công tác
XĐGN của báo Bắc Kạn và Yên Bái, góp phần tạo cơ sở khoa học cho các đơn
vị báo chí hoạch định nên những chính sách thông tin, truyền thông về công tác
XĐGN, góp phần đảm bảo phát triển kinh tế xã hội.
2. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề
Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm giải
quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế trong nước. Các nội dung truyền
thông về XĐGN như: Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói; đạt phổ cập giáo
dục tiểu học; tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ; giảm tỷ lệ tử
2


vong trẻ sơ sinh; tăng cường sức khỏe bà mẹ… đã được nhiều công trình, cuốn
sách, bài viết của các tác giả khác nhau bàn luận ở những góc độ khác nhau như:
Nghiên cứu truyền thông trên một số lĩnh vực giáo dục, sức khỏe, nông nghiệp,
nông thôn, phổ biến pháp luật; nghiên cứu về thực trạng, giải pháp truyền thông
dân tộc;… Tiêu biểu là một số cuốn sách, bài viết, công trình nghiên cứu đã
được công bố của một số tác giả trên thế giới và trong nước, cụ thể:
2.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có những nghiên cứu về chính sách truyền thông dân tộc
có tác động đến công tác xóa đói giảm nghèo, như: Trong cuốn sách
"Understanding Ethnic Media: Producers, Consumers, and Societies" (năm
2011) của Matthew Matsaganis, Vikki Katz & Sandra Ball-Rokeach đã cung
cấp một cái nhìn toàn diện về các phương tiện truyền thông được sản xuất bởi
cộng đồng dân tộc và dành cho cộng đồng dân tộc. Các tác giả đề cập đến đối

tượng tiếp nhận hay người dùng trong truyền thông dân tộc và xác định đó là
dân nhập cư và đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng phân
tích những khía cạnh của bên cung trong truyền thông như: Vai trò lớn của số
lượng ấn phẩm và xếp hạng cùng những xu hướng đối với báo in và báo điện
tử; vấn đề cạnh tranh và các thách thức xã hội đối với báo in và báo điện tử;
cách thức công nghệ truyền thông mới định hình lĩnh vực truyền thông sắc
tộc; toàn cầu hóa và tác dộng đến truyền thông dân tộc, các hình thức khác
nhau của các tổ chức truyền thông dân tộc trên khắp thế giới. Xét trên khía
cạnh xã hội, các tác giả phân tích cách thức truyền thông xã hội kết nối cư
dân trong cộng đồng địa phương, góp phần cải thiện đời sống, sức khỏe cộng
đồng và XĐGN.
Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều nghiên cứu xã hội học nhằm chứng minh
ảnh hưởng của truyền thong về nhận thức người xem về thực tế xã hội, trong đó
một số nghiên cứu đã tổng hợp lại kết quả từ nhiều công trình khác nhau nhằm
chắt lọc cho người đọc những bằng chứng rõ ràng nhất ảnh hưởng của phương
3


tiện truyền thông tới nhận thức của người xem, điển hình có các bài viết
“Sociology of Mass Communications” của Charles R. Wright; “The Influence
and Effects of Mass Media” của Denis McQuail (1979) và “Milestones in Mass
Communication: Media Effects” của Lowery, Shearon A., DeFleur và Melvin L.
Ngoài ra, mỗi bài viết lại có những điểm khác biệt: bài viết của Denis McQuail
còn đề cập đến tác động truyền thông tới văn hóa xã hội một cách tổng quát hay
những tổ chức xã hội khác; bài viết của nhóm tác giả Lowery, Shearon A.,
DeFleur và Melvin L. đã tìm hiểu ảnh hưởng của nhiều loại hình truyền thông
(phát thanh, báo in…) tới đời sống của đối tượng khán giả của chúng; tác giả
Charles R. Wright ngoài việc tìm hiểu ảnh hưởng của truyền thông còn nghiên
cứu về một số đặc điểm của các thành phần trong ngành truyền thông báo chí
(trình độ học vấn, mảng hoạt động, tiêu chí làm việc,... của phóng viên; cách

thức duyệt bài;...). Các nghiên cứu này tuy có tính tổng hợp cao, tuy nhiên bối
cảnh của những nghiên cứu được đề cập bên trong đều bị giới hạn về thời gian
và không gian: thời điểm nghiên cứu rơi vào những năm thập niên 60 - 70 của
thế kỷ trước, địa điểm tiến hành của các nghiên cứu đều nằm ở những nước phát
triển. Do đó, cần có những nghiên cứu cập nhật hơn về thời gian và mở rộng
không gian nghiên cứu để có thể thấy được ảnh hưởng toàn diện của truyền
thông tới các khía cạnh xã hội của các quốc gia.
Năm 1996, các tác giả Jong G. Kang, Stephen S. Andersen, Michael Pfau
đã có nghiên cứu “Television Viewing and Perception of Social Reality Among
Native American Adolescents”. Nghiên cứu được tiến hành vào thời điểm năm
1992, với đối tượng là khối học sinh trung học (gồm cả phổ thông và cơ sở)
trong khu vực bảo tồn ở bang South Dakota. Một bảng hỏi được đưa ra cho các
đối tượng nhằm tìm hiểu về ảnh hưởng của việc xem TV tới giới trẻ người bản
địa về quan niệm đời thực, trong đó chú ý đặc biệt tới lĩnh vực giới, vai trò từng
giới, các mặt trái xã hội và độ thực tế của truyền thông. Việc đánh giá dựa trên
nhiều tiêu chí: lượng thời gian dành ra để xem TV (ít - trung bình - nhiều), giới
4


tính, tuổi, trình độ giáo dục của cha/mẹ, thu nhập gia đình, khả năng học tập.
Sau khi tổng hợp kết quả, nghiên cứu đã cho thấy có những dấu hiệu giới trẻ bị
ảnh hưởng bởi những quan niệm được đẽo gọt TV về những lĩnh vực nói trên,
đặc biệt sự dấu hiệu thể hiện rõ hơn khi thời gian xem TV tăng lên; tuy nhiên
nghiên cứu chỉ diễn ra trong một phạm vi hẹp, do đó yếu tố khu vực địa lý còn
chưa được xem xét; đồng thời, kết quả nghiên cứu chỉ mang tính thức thời, còn
ảnh hưởng về mặt dài hạn thì không thể được thể hiện ở đây. Dù vậy, thông qua
đây ta cũng thấy được ảnh hưởng không nhỏ của TV cũng như truyền thông hiện
đại tới dân tộc thiểu số ở vùng nông thôn với trình độ hiểu biết còn có hạn chế.
2.2.Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Trong nghiên cứu truyền thông giáo dục sức khỏe sinh sản: Tác giả Nguyễn

Văn Hiến với công trình nghiên cứu "Nghiên cứu thực trạng truyền thông giáo
dục sức khỏe tuyến huyện và xây dựng mô hình thí điểm phòng truyền thông
giáo dục sức khỏe ở trung tâm y tế dự phòng huyện" (2010) và công trình“Khảo
sát, đánh giá công tác truyền thông-giáo dục về dân số, sức khỏe sinh sản và kế
hoạch hóa gia đình đặc thù vùng biển, đảo và ven biển” của Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế (2012) đã xác định các yếu tố đặc thù ảnh hưởng đến công tác
truyền thông - giáo dục, những nhu cầu trong công tác truyền thông - giáo dục
về dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình từ đó nghiên cứu đề xuất
các kiến nghị về các giải pháp tuyên truyền - giáo dục về dân số, sức khỏe sinh
sản, kế hoạch hóa gia đình phù hợp và hiệu quả cho các đối tượng nghiên cứu để
nâng cao sức khỏe sinh sản, XĐGN.
Trong nghiên cứu truyền thông nông nghiệp nông thôn nông dân: Cuốn
sách “Truyền thông nông nghiệp nông thôn nông dân” của các tác giả Phạm
Hoàng Ngân, Nguyễn Kha Thoa, Phạm Quang Diệu, Hoàng Sơn đã cung cấp
những thông tin cơ bản về công tác truyền thông nông nghiệp nông thôn nông
dân của Việt Nam như các loại kênh truyền thông (Kênh truyền thông Trung
ương và Kênh truyền thông địa phương), cách tiếp cận, sử dụng cũng như các
5


nhu cầu tiếp cận thông tin truyền thông nông thôn. Qua tìm hiểu, nghiên cứu tiến
hành khảo sát nhu cầu thông tin nông nghiệp nông thôn tại thời điểm năm 2009
trên các khía cạnh nhất định như: Kênh thông tin nào được sử dụng nhiều nhất;
Chuyên mục nào được quan tâm nhất; Khung "giờ vàng" của phát thanh và
truyền hình; Kênh thông tin người dân lựa chọn tốt nhất; Nhu cầu và nguồn
thông tin của người dân đồng thời đưa ra những cái nhìn rộng mở về công tác
truyền thông nông thôn của một số nước trên thế giới với những cái nhìn toàn
cảnh về những dự án đầu tư và sáng kiến phát triển truyền thông nông thôn của
Việt Nam trong thời gian tới.
Trong nghiên cứu truyền thông về tuyên truyền, phổ biến pháp luật:

Trong bài viết "Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên:
Xóa "đói nghèo" pháp luật" của Huy Long (2008); "Tuyên truyền, phổ biến
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La" của Văn Giang (2016);
"Ưu tiên tuyên truyền pháp luật về đất đai cho đồng bào dân tộc " của Ngọc
Yến; "Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu
số" của Phạm Thị Thu Hưởng (2017)… đã khẳng định vai trò của công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến với đồng bào dân tộc thiểu số. Các bài
viết cơ bản đã đề cập đến những đặc trưng của vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, chỉ ra thực trạng những kết quả đạt được cũng như những khó khăn trong
quá trình triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và
đưa ra các giải pháp như: tài liệu, nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ
hiểu; hình thức tuyên truyền phải mang tính đặc thù riêng cho đối tượng đặc
thù là người dân tộc thiểu số; năng lực của đội ngũ cán bộ tuyên truyền…
nhằm nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu
số, góp phần thực hiện hiệu quả công tác XĐGN.
Bài viết "Điều kiện, tâm lý tiếp nhận báo chí của đồng bào Tây Bắc và
những vấn đề đặt ra với người làm báo hiện nay” của PGS.TS Đặng Thị Thu
Hương, đăng trên Tạp chí Người Làm Báo số tháng 12/2015 đã phân tích vấn đề
6


tiếp nhận báo chí của đồng bào Tây Bắc hiện vẫn còn nhiều bất cập, mức độ
hiểu biết các chủ trương, chính sách pháp luật của đồng bào dân tộc còn khá hạn
chế. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng báo chí
viết cho đồng bào dân tộc ở Tây Bắc, chú trọng các chương trình chuyên đề,
tăng cường thời lượng phát thanh ở các khu vực vùng cao...
Bài viết “Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền đến vùng dân tộc thiểu số” của
Trọng Thủy đã nhấn mạnh những khó khăn trong công tác tuyên truyền đến
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời khẳng định việc xây dựng, ban hành
Đề án “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động vùng đồng bào dân tộc thiểu

số, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2016-2020” là hết sức cần thiết. Bài
viết cũng đồng thời nhấn mạnh Đề án cần chỉ ra những mục tiêu, nội dung,
phương thức tuyên truyền phù hợp với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, trong
đó nhấn mạnh tầm quan trọng của các cấp, các ngành trong công tác tuyên
truyền vận động vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thúc đẩy phát triển mọi
mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đảm bảo cho sự phát triển bền vững vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn cả nước.
Ở một góc độ khác, vấn đề truyền thông về XĐGN trên các phương tiện
thông tin đại chúng và báo chí cũng đã được đề cập đến trong các nhóm giải
pháp của một số công trình nghiên cứu về đói nghèo, nhưng chiếm vị trí còn rất
nhỏ, như: Đề tài “Vấn đề đói nghèo trong quan hệ quốc tế hiện nay”, Luận văn
thạc sỹ ngành Quốc tế học năm 2011 của tác giả Khúc Diệu Huyền, Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia Hà Nội), hay đề tài “Vấn
đề đói nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Luận văn thạc sỹ
ngành Quốc tế học năm 2011 của tác giả Vũ Thanh Thủy, Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia Hà Nội), … các công trình này đã tập
trung nghiên cứu về các vấn đề đói nghèo, XĐGN như một vấn nạn của thế giới
và của Việt Nam.

7


Qua quá trình khảo sát và với những tài liệu có được, tôi nhận thấy rằng
những nghiên cứu về truyền thông hiện nay mặc dù đã được nghiên cứu ở nhiều
góc cạnh, có tác động trực tiếp đến việc phát triển kinh tế xã, hội và XĐGN. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu, cuốn sách, bài viết còn đề cập trong phạm vi
hẹp, nghiên cứu dừng lại ở những khía cạnh, lĩnh vực cụ thể trên những nội
dung thông tin nhất định. Chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chính
thức và hệ thống đầy đủ về vấn đề truyền thông XĐGN. Do đó, việc lựa chọn đề
tài :“Truyền thông về vấn đề xóa đói giảm nghèo trên báo Bắc Kạn và Yên Bái”

sẽ là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho các nhà báo đang hoạt động trên lĩnh
vực thông tin nói chung và thông tin xã hội nói riêng thông qua những thông tin
XĐGN trên báo chí như báo Bắc Kạn và báo Yên Bái. Đồng thời cũng là nguồn
tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức xã hội trong hoạt động truyền thông
XĐGN ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, luận văn đánh giá
thực trạng công tác truyền thông về XĐGN trên báo in và báo điện tử của tỉnh
Bắc Kạn và tỉnh Yên Bái trong năm 2015 và 2016, từ đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả truyền thông về XĐGN tại hai cơ quan báo chí khảo sát.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các khái niệm công cụ, xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề
nghiên cứu.
- Khảo sát thực trạng hoạt động truyền thông về XĐGN trên báo in và báo điện
tử tại cơ quan báo chí của tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Yên Bái trong năm 2015 và 2016.
- Đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị khoa học góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động truyền thông về công tác XĐGN của cơ quan báo chí trên địa bàn
tỉnh Bắc Kạn và Yên Bái.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động truyền thông về vấn đề XĐGN tại báo
Bắc Kạn và báoYên Bái.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động truyền thông về XĐGN trên các chuyên
mục "Tin tức sự kiện", "Chính trị", "Kinh tế", “Nông thôn mới”, “Xã hội”, "Văn
bản mới", "Nhân đạo", "Vấn đề hôm nay" và một số chuyên mục liên quan phản

ánh các chính sách, chế độ, pháp luật về XĐGN, tập thể, gương điển hình phát
triển kinh tế, các vấn đề xoay quanh công tác XĐGN trên báo in và báo điện tử
tỉnh Bắc Kạn và Yên Bái.
Thời gian khảo sát: Từ năm 2015 đến 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1.

Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên đường lối chính sách và quan điểm của Đảng, Nhà
nước về chức năng, nhiệm vụ của báo chí; dựa trên những lý thuyết về truyền
thông báo chí, lý thuyết về truyền thông phát triển.
5.2 Phương pháp nghiên cứu công cụ
Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Tiến hành thu thập những thông
tin liên quan trực tiếp và gián tiếp đến vấn đề nghiên cứu từ các tài liệu, công
trình nghiên cứu khoa học, được công bố chính thức trên sách, báo, tạp chí,
Website, các báo cáo của cơ quan báo chí, các báo cáo phát triển kinh tế xã hội,
XĐGN tại địa phương khảo sát.
Phương pháp khảo sát: Khảo sát về nội dung, hình thức của các tác phẩm
tuyên truyền về công tác XĐGN trên báo in và báo điện tử của tỉnh Bắc Kạn và
Yên Bái trong năm 2015 và 2016. Số lượng khảo sát là 2.172 tác phẩm (tin,
bài, phóng sự, hình ảnh); từ khóa chính sử dụng để tìm kiếm, khảo sát trên báo
điện tử là “xóa đói giảm nghèo”, “giảm nghèo bền vững”, “phát triển nông

9


thôn”, “phát triển kinh tế”, “hỗ trợ hộ nghèo”; trên báo in là chuyên mục “Kinh
tế”, “ Xã hội”, “Nông thôn mới”, “Tin tức - sự kiện”.

Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi anket: Đề tài sử dụng 200
dung lượng mẫu, khảo sát 200 đối tượng khác nhau (những người trực tiếp và
gián tiếp liên quan đến công tác XĐGN gồm: Cơ quan quản lý nhà nước, chính
quyền địa phương, cơ quan báo chí và các đối tượng công chúng mà các tờ báo
tác động tới). Trong đó: Tỉnh Bắc Kạn 100 phiếu/100 người; tỉnh Yên Bái 100
phiếu/100 người, đảm bảo tỷ lệ nam chiếm 50% và nữ chiếm 50% giúp phản ánh
phản hồi của công chúng một cách khách quan nhất về 02 tờ báo khảo sát.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Hệ thống các bảng hỏi sơ thảo với những nội
dung chính làm công cụ và trực tiếp phỏng vấn 10 đối tượng là các đồng chí
lãnh đạo, quản lý; lãnh đạo ban biên tập và nhà báo phụ trách về công tác
XĐGN tại địa bàn khảo sát, trong quá trình phỏng vấn có thể đưa thêm các câu
hỏi phụ để hỗ trợ thêm trong quá trình phỏng vấn...
Phương pháp phân tích nội dung: Dựa trên kết quả tổng hợp đã thống kê
được về kết quả khảo sát, tiến hành phân tích nội dung để đánh giá thực trạng
truyền thông, những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động truyền
thông về XĐGN trên báo chí tại hai địa bàn khảo sát, từ đó đưa ra những giải pháp
giúp nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông về XĐGN trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn là tài liệu tham khảo góp phần cung cấp những luận cứ khoa học
về các lý thuyết truyền thông, XĐGN và vấn đề lý luận về tầm quan trọng, nội
dung của truyền thông XĐGN. Thông qua đó, góp phần giúp cơ quan báo chí,
các nhà lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo phối hợp thực hiện các giải pháp nâng cao
chất lượng và hiệu quả truyền thông XĐGN ở địa phương.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn

10


Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tư liệu tham khảo chính xác, hữu

ích, có hệ thống cho các nhà báo đang hoạt động trên lĩnh vực thông tin nói
chung và thông tin xã hội nói riêng thông qua những thông tin XĐGN trên báo
chí như báo in, báo Bắc Kạn điện tử và báo in, báo Yên Bái điện tử. Đồng thời là
nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức xã hội trong hoạt động truyền
thông XĐGN.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm phần Mở đầu, Ba chương và Kết luận.
Chương 1: Cơ sở lý luận truyền thông về vấn đề XĐGN trên báo chí
Chương 2: Thực trạng truyền thông về vấn đề XĐGN trên báo Bắc Kạn và
Yên Bái
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông về vấn đề
XĐGN trên báo Bắc Kạn và Yên Bái.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THÔNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
TRÊN BÁO CHÍ
1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1

Truyền thông

Trên thế giới đã có rất nhiều tác giả đưa ra những quan điểm về khái niệm
truyền thông như:
Theo John.Hober (1954), truyền thông là quá trình trao đổi tư duy và ý
tưởng bằng lời.
Theo Gerald Miler (1966), về cơ bản truyền thông quan tâm nhất đến tình
huống hành vi, trong đó nguồn thông tin truyền nội dung đến người nhận với

mục đích tác động đến hành vi của họ.
Dưới góc độ cấu trúc, Bess Sodel cho rằng truyền thông là một quá trình
chuyển đổi từ một tình huống đã có cấu trúc như một tổng thể sang tình huống
khác theo một thiết chế có chủ đích.
Định nghĩa về truyền thông cũng được rất nhiều tác phẩm, cuốn sách của
những tác giả trong nước nhận định như:
“Truyền thông là một quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin
nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người” (26, tr 289).
Theo PGS. TS Nguyễn Văn Dững, truyền thông là quá trình liên tục trao
đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai
hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến
tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của
nhóm, của cộng đồng và xã hội.
Nói một cách khác, truyền thông là quá trình truyền đạt thông tin, thông
qua lời nói, chữ viết (ngôn ngữ), cử chỉ điệu bộ, hành vi (thể hiện thái độ hoặc
cảm xúc). Có ba hình thức truyền thông cơ bản, cụ thể:

12


Thứ nhất, truyền thông liên cá nhân: Là quá trình truyền đạt thông tin giữa
người này với người khác, yếu tố cần thiết là giữa họ có sự tương tác mặt đối
mặt, cả hai đều là nguồn phát và người nhận thông tin.
Thứ hai, truyền thông tập thể: Là quá trình truyền đạt thông tin từ một hay
một nhóm người đến một tập thể nhiều người nghe, như nội bộ công ty, một hiệp
hội, hay một lớp học…
Thứ ba, tuyền thông đại chúng: Là quá trình truyền đạt thông tin một cách
rộng rãi hướng đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng như báo chí, truyền hình, phát thanh, Internet...
1.1.2


Lý thuyết truyền thông

Truyền thông có vai trò quan trọng, có sức mạnh vạn năng trong việc tác
động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của công chúng. Có thể nói truyền
thông là một thiết chế quan trọng trong xã hội, qua đó các thiết chế khác và toàn
bộ hệ thống xã hội được vận hành, khớp nối. Thông qua truyền thông các thành
tố xã hội, con người, các giá trị và mối quan hệ, cấu trúc xã hội liên tiếp được
cải biến, phân hóa và thay đổi. Trong nghiên cứu truyền thông, có rất nhiều khái
niệm, lý thuyết đã được nghiên cứu và đánh dấu như:
Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự (Agenda Setting Theory): Mô tả
khả năng ảnh hưởng của giới truyền thông đối với công chúng thông qua các
phương tiện truyền thông. Trong xã hội, nếu một tin tức nào đó được nhắc tới
thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ nhớ tới và coi nó quan trọng
hơn những thông tin khác. Điểm nổi bật của lý thuyết này là truyền thông đại
chúng có một chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho công chúng, các
bản tin và hoạt động đưa tin của cơ quan báo chí truyền thông ảnh hưởng đến sự
phán đoán của công chúng tới những “chuyện đại sự” của thế giới xung quanh
và tầm quan trọng của chúng bằng cách phú cho các “chương trình” nét nổi bật
khác nhau, từ đó có thể tác động và tạo ra sự dẫn đường trong tương lai.

13


Lý thuyết về truyền thông phát triển được thừa hưởng từ những lý thuyết,
mô hình, phương pháp tư duy của lĩnh vực truyền thông và phát triển trên diện
rộng, có tác động trực tiếp hơn vào việc làm thế nào để các chương trình truyền
thông đạt hiệu quả, tác động đến sự thay đổi xã hội và phát triển của một quốc
gia, cộng đồng và cá nhân. Thuật ngữ truyền thông phát triển (development
communication) ra đời, ghi dấu ấn của nhà nghiên cứu người philippines, Nora

C.Quebral, với tác phẩm truyền thông phát triển trong lĩnh vực nông lâm nghiệp,
năm 1971. Công trình nghiên cứu tỉ mỉ, thầm lặng về vai trò của phát thanh
(radio) đối với người dân, từ việc rỉ tai họ, hướng dẫn cách làm, kinh nghiệm
mới, cho tới việc phổ biến những kiến thức khoa học trong sản xuất nông
nghiệp. Bà Quebral định nghĩa: “Truyền thông phát triển là ngành khoa học và
nghệ thuật truyền thông nghiên cứu sự chuyển dịch của một quốc gia và người
dân từ nghèo đói đến một trình độ phát triển cao hơn, tạo dựng công bằng xã hội
tốt hơn và đáp ứng sâu rộng hơn khả năng của con người”. Truyền thông phát
triển dù chia sẻ nhiều cách thức truyền thông, tư duy chiến lược với các lĩnh vực
truyền thông gần như quan hệ công chúng, truyền thông tổ chức, nhưng đặc
trưng phân biệt của nó là tập trung vào sự phát triển bền vững trong dài hạn, chứ
không phải là những dự án ngắn hạn vì mục đích quảng bá hoặc lợi ích khác.
Truyền thông phát triển đẩy mạnh sự phát triển của xã hội để tạo ra các thay đổi
tích cực, nhấn mạnh cam kết của những bên tham gia và những tổ chức liên đới.
Ngành tâm lý học đã giải thích rằng, người ta hành động theo cách người
ta suy nghĩ, mà người ta suy nghĩ trên cơ sở thông tin tiếp nhận được trong quá
trình truyền thông, không có hoạt động truyền thông hoặc truyền thông không
đầy đủ thì không thể có suy nghĩ đúng và do đó không có hành động đúng. Vì
thế trong mọi hoạt động phát triển luôn cần gắn liền với hoạt động truyền
thông, hoạt động truyền thông có mục đích sẽ tạo ra sự thay đổi, từ đó dẫn đến
sự phát triển.

14


1.1.3

Đói nghèo

Trong Hội nghị bàn về xóa đói, giảm nghèo ở khu vực châu Á Thái Bình

Dương do ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra
khái niệm về định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được
xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và các phong tục tập
quán của các địa phương.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen ở Đan Mạch năm 1995 cũng đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn về
nghèo đói như sau: Người nghèo là tất cả những ai có mức thu nhập thấp hơn
dưới 1 USD mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những
sản phẩm thiết yếu để tồn tại.
Tại Việt Nam, khái niệm đói nghèo được tách ra thành hai khái niệm riêng
biệt là nghèo và đói, trong đó:
Nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện [25, những khái
niệm đói nghèo, thư viện Học liệu Mở Việt Nam].
Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống.
Đó là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay
mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không
đáng kể, nhà ở dốt nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg
gạo/người/tháng (tương đương 45.000VND) [25, những khái niệm đói nghèo,
thư viện Học liệu Mở Việt Nam].
Qua các định nghĩa trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo đói:
Là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều kiện về cuộc sống như

15


ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các quyết

định của cộng đồng.
Người nghèo đói thường có những đặc trưng như: Có mức thu nhập thấp,
thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực
nhọc, nhiều rủi ro nhưng thu nhập chẳng được là bao. Việc chi tiêu cho cuộc
sống của những người nghèo là rất hạn chế, các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của
con người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp,
thậm chí còn không đủ, nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên, do đó giảm
năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập... cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn
quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra được. Người nghèo thường không quan
tâm hoặc không có khả năng tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội, điều
này đã làm cho người nghèo dần bị cô lập và do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ
các nhóm, hội khi gặp khó khăn
Người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao như ốm
đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt do ăn
uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những
vùng có điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, thêm vào đó có thể do
đối xử bất bình đẳng trong xã hội, người nghèo không được quan tâm chữa trị
bằng người giàu nên tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo là rất thấp.
Bên cạnh đó, tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất
vọng, hầu hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn, tỷ
lệ thất học, mù chữ ở hộ nghèo, đói cao. Nhiều kết quả khảo sát cho thấy: Y tế giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ cũng đã hiểu rõ tầm
quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như tương lai của họ và gia
đình nhưng do thu nhập thấp, không đủ trang trải, học phí, viện phí, họ đành
phải để con cái thôi học, người bệnh không được khám và chữa chạy đúng mức,
kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp cận với các dịch vụ y tế. Điều

16


này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ, giảm sức khoẻ cũng như hạn chế cơ

hội phát triển của các thế hệ sau.
Những người nghèo do tài sản ít, thu nhập thấp, họ chỉ có thể trang trải hạn
chế, tối thiểu các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì vậy, khi rủi ro xảy ra
họ rất dễ bị tổn thương và rất khó vượt qua được các cú sốc có hại, những cú sốc
mang tính tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ dàng vượt qua được.
Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo là sợ
phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang tính rủi ro
cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành công (ví dụ
đầu tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...) chính điều này đã
làm họ sống tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng quay của thị trường và
do vậy cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn.
Những người nghèo thường bị đối xử không công bằng, họ thường không
có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của cộng đồng cũng như các
công việc liên quan đến chính bản thân họ. Người nghèo luôn cảm thấy bị sống
phụ thuộc, luôn nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, không kiểm soát được cuộc
sống của mình. Đó chính là kết quả mà nguyên nhân không có tiếng nói và
quyền lực đem lại.
1.1.4

Xóa đói giảm nghèo

Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam, là tổng thể
các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác
động lên các chủ thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo đối với đối
tượng là đồng bào các dân tộc thiểu số, những vùng sâu vùng xa nơi mà cuộc
sống còn nhiều khó khăn và có cuộc sống cách biệt với đời sống kinh tế xã hội
của cả nước. Với mục tiêu giảm bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, xây
dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Ở nước ta hiện nay, việc XĐGN đang hướng mạnh tới thu hẹp khoảng cách
giàu nghèo. Đây là vấn đề có liên quan tới công bằng, bình đẳng xã hội, ảnh

17


hưởng tới sự ổn định chính trị. Vấn đề này được nhấn mạnh trong nhiều văn
kiện của Đảng, trở thành hệ thống quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định, thực hiện kinh tế thị trường phải
“thừa nhận trên thực tế... sự phân hoá giàu nghèo nhất định trong xã hội” coi đó
là một hiện tượng xã hội đang hiện hữu, chi phối đời sống xã hội. Đại hội chỉ rõ,
khuyến khích các tầng lớp nhân dân vươn lên làm giàu, đẩy mạnh XĐGN, hạn
chế phân hoá giàu nghèo gắn với mục tiêu “phải luôn luôn quan tâm bảo vệ lợi
ích người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi
pháp, coi trọng XĐGN, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho
mọi người, mọi nhà đều khá giả”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng, đã có bước phát triển mới: “Khuyến khích
làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức XĐGN, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và
năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới
thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”.
Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục chỉ rõ và đề ra mục tiêu cụ thể:
“Khuyến khích mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các
chính sách XĐGN”, “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong
phạm vi cả nước ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước phát triển”.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đại hội lần thứ XI
của Đảng đã đề ra định hướng cơ bản: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và
hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn
chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và
phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất
và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng

nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp
18


phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch về mức sống giữa
nông thôn với đô thị”. Chỉ tiêu phấn đấu cụ thể: “Tỉ lệ hộ nghèo giảm 2%/năm”;
dựa trên cơ sở sự định hướng chiến lược “Tạo môi trường và điều kiện để mọi
người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế
độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình
trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư”.
Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1722/QĐ-TTg
phê duyệt Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020.
Mục tiêu cụ thể là phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước bình quân 1% 1,5%/năm (riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm; hộ nghèo dân tộc
thiểu số giảm 3% - 4%/năm) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho
giai đoạn 2016 - 2020; Cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của
người nghèo, bảo đảm thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cả nước cuối
năm 2020 tăng lên 1,5 lần so với cuối năm 2015 (riêng hộ nghèo ở các huyện
nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo dân tộc thiểu số tăng
gấp 2 lần); Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả cơ chế, chính sách giảm nghèo để
cải thiện điều kiện sống và tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của
người nghèo… Đến năm 2020, có 50% số huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc
biệt khó khăn theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP; 30% số xã đặc biệt khó
khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn;
20 - 30% số xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi thoát khỏi
tình trạng đặc biệt khó khăn.
Đặc biệt, Chương trình MTQG giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 hướng tới
một số điểm mới như: Tập trung vào địa bàn khó khăn nhất, vùng sâu, vùng xa,
dân tộc, miền núi; Tích hợp các chương trình, dự án trước đây như: CT30a, 135,
xuất khẩu lao động, thông tin truyền thông; Thực hiện giảm nghèo theo tiêu chí

đa chiều, lấy chỉ tiêu thu nhập là chính, bên cạnh đó cũng xác định mức độ thiếu
hụt các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh,
19


thông tin; gắn kết với thực hiện CTMTQG XDNTM và 21 Chương trình có mục
tiêu; Thực hiện phân bổ vốn trung hạn, bảo đảm công khai, minh bạch, đẩy
mạnh phân cấp cho địa phương, cơ sở; Chương trình lấy đối tượng người nghèo
làm trung tâm để thực hiện hỗ trợ, mở rộng thêm đối tượng hộ cận nghèo, hộ
mới thoát nghèo, tạo điều kiện để người lao động là người sau cai nghiện ma
túy, nhiễm HIV/AIDS, phụ nữ bị buôn bán trở về.
Chương trình cũng chuyển mạnh từ việc cấp phát, cho không sang hỗ trợ
có điều kiện để nâng cao ý thức, trách nhiệm của người nghèo. Nhà nước chỉ hỗ
trợ những gì người dân không làm được, nhà nước không làm thay mà chỉ ban
hành cơ chế hướng dẫn thực hiện. Tăng cường trao quyền cho người dân, cộng
đồng để phát huy sáng kiến, cách làm hay phù hợp đặc điểm địa bàn, đặc điểm
nhóm dân cư, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đi đôi với trách
nhiệm giải trình. Nguồn lực thực hiện Chương trình chủ yếu là từ ngân sách nhà
nước, đồng thời huy động sự đóng góp của doanh nghiệp, cá nhân, cộng đồng,
điều này được thể hiện rõ trong cách thức triển khai thực hiện các dự án, tiểu dự
án của Chương trình. Về cơ chế, tổ chức bộ máy chỉ đạo điều hành thực hiện
được thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
Thực tiễn những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã có
những chính sách, giải pháp tương đối đồng bộ, hiệu quả tập trung giải quyết
vấn đề XĐGN và hạn chế phân hoá giàu nghèo mang tầm quốc gia được quốc tế
ủng hộ và đánh giá cao. Thông qua các chương trình XĐGN, hàng triệu hộ gia
đình, hàng chục triệu người thoát khỏi đói nghèo, vươn lên làm giàu; góp phần
hạn chế phân hoá giàu nghèo, thực hiện công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Một số chương trình XĐGN đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước
ta hiện nay, như: Chương trình phát triển thủy lợi, giao thông; Chương trình

nông thôn mới; Chương trình định canh định cư; Chương trình tư vấn dịch vụ,
chuyển giao khoa học công nghệ; Chương trình giải quyết việc làm, đào tạo
nghề cho lao động nông thôn; Chương trình hỗ trợ tín dụng; Chương trình giáo
20


dục y tế với mục tiêu xóa đói giảm nghèo; Chương trình chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe cộng đồng,…
1.2.Vấn đề xóa đói giảm nghèo tại tỉnh Bắc Kạn và Yên Bái
1.1.5

Tỉnh Bắc Kạn

Tỉnh Bắc Kạn được tái lập ngày 01 tháng 01 năm 1997, là tỉnh miền núi
nằm ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ, hiện có 8 đơn vị hành chính (7 huyện, 1 thành
phố) với 122 xã, phường, thị trấn, trong đó có 2 huyện nghèo thuộc diện hỗ trợ
Chương trình 30a và 58 xã đặc biệt khó khăn thụ hưởng Chương trình 135. Diện
tích đất tự nhiên của tỉnh là 4.859 km2, dân số 308.300 người, gồm 7 dân tộc anh
em (Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông, Hoa và Sán Chay) sinh sống, trong đó dân
tộc thiểu số chiếm hơn 80%.
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Kạn dần
dần được ổn định, và có nhiều biến chuyển tích cực. Trong giai đoạn 2011-2015,
tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của tỉnh đạt 13,5%/năm. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp, giảm tỷ trọng
ngành công nghiệp, xây dựng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện cơ
bản và rõ rệt. Mạng lưới giao thông được kết nối với các tỉnh, nối trung tâm tỉnh
lỵ với các huyện, tới các xã. Hệ thống truyền thông thông tin như báo Bắc Kạn,
đài phát thanh - truyền hình tại các huyện, các trạm tiếp sóng truyền hình khu
vực đáp ứng tốt hơn nhu cầu nghe - nhìn của đồng bào các dân tộc.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn được tỉnh quan tâm đầu tư và chú trọng.

Thực hiện Chương trình giảm nghèo của cả nước, tỉnh Bắc Kạn đã quan tâm hỗ
trợ vốn, tư liệu sản xuất để phát triển kinh tế gia đình, dự án để đồng bào thoát
nghèo như Chương trình 30a của Chính phủ, chương trình 3PAD và vận động các
doanh nghiệp tài trợ, xã hội hoá công tác giảm nghèo đến các xã vùng sâu, vùng
xa trên địa bàn… giúp người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Bắc Kạn
từng bước được tiếp cận với các dịch vụ xã hội và đem lại bộ mặt mới cho nông
thôn miền núi, tạo điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất
21


và tinh thần cho nhân dân các địa phương. Công tác giảm nghèo giai đoạn 20112015, tỉnh Bắc Kạn đã đạt kết quả tích cực, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 32,13% năm
2010 xuống 29,4% (giảm nghèo đa chiều) năm 2015, đời sống của nhân dân từng
bước được cải thiện. Điển hình như kết quả giảm nghèo của huyện Pác Nặm, một
trong 62 huyện nghèo (30a), đất nông nghiệp chỉ chiếm 7,85% (với 3.734,11ha);
địa hình phức tạp; hạ tầng chưa phát triển, dân trí không đồng đều, quy mô sản
xuất nhỏ lẻ. Huyện có 6.357 hộ, qua thực hiện các chính sách, các hộ nghèo, xã
nghèo đã được thụ hưởng trực tiếp, có ý thức vươn lên thoát nghèo. Hộ nghèo
giảm từ 53,80% năm 2010 xuống còn 28,70% năm 2015.
Hiện nay, sự thiếu hụt các chỉ số cơ bản của hộ nghèo tại tỉnh chủ yếu là do
thiếu hụt về tiếp cận dịch vụ y tế, bảo hiểm y tế, trình độ giáo dục của người lớn,
đi học của trẻ em, diện tích nhà ở, nguồn nước sinh hoạt.
Với mục tiêu chung về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 của cả
nước là: Giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo; góp phần thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện đời sống, tăng thu nhập
của người dân, đặc biệt là ở các địa bàn nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo,
hộ nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở,
nước sinh hoạt và vệ sinh, tiếp cận thông tin), góp phần hoàn thành mục tiêu
giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2016 - 2020 theo Nghị quyết Quốc hội đề ra.
Tỉnh ủy Bắc Kạn đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về thực hiện
Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Nghị quyết đã đề cập

sâu sắc toàn diện vấn đề giảm nghèo của tỉnh những năm qua; đồng thời xác
định quan điểm mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hơn
công tác trên trong cả giai đoạn, đó là: Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân
từ 2-2,5%/năm theo chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020, trong đó tỷ lệ hộ nghèo
trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn giảm bình quân từ 3,5 4%/năm; Có 96% hộ dân nông thôn được sử dụng điện lưới quốc gia và sử dụng
nước sinh hoạt hợp vệ sinh, 100% xã, phường có trạm Truyền thanh cơ sở hoạt
động tốt; 100% số người nghèo, người dân tộc thiểu số được cấp thẻ bảo hiểm y
22


×