Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.69 KB, 40 trang )

Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp
I. Chi phí sản xuất
1. Khái niệm
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có đầy đủ các yếu
tố: lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Sự tham gia của các yếu
tố vào quá trình sản xuất (các yếu tố đầu vào) hình thành các khoản chi phí
tương ứng.
Giá trị sản phẩm, lao vụ, dịch vụ gồm 3 bộ phận C, V, m.
C: là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, như : khấu hao tài sản cố định, chi
phí nguyên vật liệu... Bộ phận này gọi là lao động quá khứ (lao động vật
hoá).
V: là chi phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động tham gia
vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Bộ phận
này gọi là lao động sống.
m: là giá trị lao động sống tạo ra trong quá trình sản xuất các sản phẩm,
lao vụ, dịch vụ.
Ở góc độ doanh nghiệp, để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp phải
bỏ ra 2 bộ phận chi phí là C và V.
Như vậy, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các
khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra
để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ kinh doanh nhất
định (tháng, quý, năm…).
Về bản chất chi phí sản xuất dưới từng góc độ nghiên cứu như sau:
♦ Đối với các nhà kinh tế học: Chi phí sản xuất là các phí tổn phải chịu khi sản
xuất sản phẩm trong kì.
♦ Đối với các nhà quản lý tài chính, thuế, ngân hàng: Chi phí sản xuất là các
khoản chi liên quan tới quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
♦ Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Chi phí sản xuất là khoản phải bỏ ra để
mua các yếu tố cần thiết phục vụ quá trình sản xuất và mang lại lợi nhuận


cao nhất cho doanh nghiệp trong giới hạn đầu tư không đổi.
♦ Đối với các nhà kế toán: Chi phí sản xuất là khoản phải hy sinh hay trừ ra để
đạt được mục đích nhất định, nó được xem xét như một lượng tiền phải trả
cho các hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra sản phẩm.
Theo quan điểm của kế toán Pháp, chi phí sản xuất là tất cả tiền mà
doanh nghiệp đã bỏ ra để mua các yếu tố của quá trình sản xuất trong một
thời gian nhất định, gồm: tiền mua vật tư, dịch vụ phục vụ quá trình sản xuất,
thù lao cho người lao động và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình sản
xuất.
Khái niệm chi phí sản xuất hẹp hơn khái niệm chi phí. Chi phí tính cho tất cả
các yếu tố đầu vào trong kỳ kinh doanh gồm cả chi phí sản xuất và chi phí
ngoài sản xuất.
Mặt khác, chi phí khác với chi tiêu: chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán
những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm
sản xuất trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán.
Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại tài sản, vật tư, tiền vốn của
doanh nghiệp, bất kể nó dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của
doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua vật tư, hàng
hoá … ), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất sản phẩm,
công tác quản lí…) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi phí vận chuyển, bốc
dỡ, quảng cáo …).
Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí.
Tổng chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí
hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này.
Chi phí và chi tiêu khác nhau cả về mặt lượng và thời gian:
♦ Chi phí được cấu thành từ khoản chi tiêu trong kỳ (thường phát huy tác
dụng một lần).
♦ Chi phí được cấu thành từ các khoản chi tiêu của kỳ trước phân bổ chi phí
của kỳ này.
♦ Chi phí được cấu thành từ các khoản chi tiêu của kỳ sau nhưng liên quan

đến sản xuất kinh doanh của kỳ này (chi phí phải trả).
Sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm,
tính chất vận động và phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại tài sản
vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán của chúng.
2.Phân loại chi phí sản xuất
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng
nhóm theo những đặc điểm đặc trưng nhất định. Người ta thường sử dụng
một số tiêu thức sau:
2.1. Căn cứ vào nội dung kinh tế của chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí được chia thành các yếu tố khác nhau mà
mỗi yếu tố chỉ bao gồm những chi phí có cùng một nội dung kinh tế, không
phân biệt chi phí đó phát sinh ở đâu và mục đích, công dụng của chi phí đó
như thế nào. Toàn bộ các chi phí được chia thành các yếu tố sau:
♦ Chi phí nguyên vật liệu gồm các chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu
phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, cộng cụ, dụng cụ … mà doanh nghiệp đã
sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ (loại trừ giá trị
dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động
lực).
♦ Chi phí nhân công bao gồm toàn bộ số tiền công phải trả, tiền trích bảo
hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ) mà
doanh nghiệp phải chịu.
♦ Chi phí về khấu hao tài sản cố định gồm toàn bộ số khấu hao tài sản cố
định phải trích của tất cả các tài sản sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trong kỳ.
♦ Chi phí dịch vụ mua ngoài gồm toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp đã chi
trả cho các loại dịch vụ mua ngoài như tiền điện, nước, bưu phí … phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
♦ Chi phí khác bằng tiền là những khoản chi phí khác dùng vào sản xuất,
ngoài bốn yếu tố trên.
Cách phân loại này cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi phí để phân

tích đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất. Ngoài ra, nó còn
giúp cho việc lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố ở Bảng thuyết minh báo
cáo tài chính, cung cấp tài liệu tham khảo để lập dự toán chi phí sản xuất, kế
hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương và tính toán nhu cầu vốn lưu động
cho kỳ sau đồng thời cung cấp tài liệu để tính toán thu nhập quốc dân.
2.2. Căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí
Theo cách phân loại này, ý nghĩa các bộ phận chi phí trong giá thành sản
phẩm khác nhau thì được xếp riêng theo ba khoản mục sau:
 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Phần này bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên
liệu… tiêu hao trực tiếp cho quá trình sản xuất sản phẩm.
 Chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công trực tiếp gồm chi phí về tiền công, phụ cấp và các khoản
trích theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ.
 Chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là chi phí phát sinh ở các bộ phận sản xuất có chức
năng phục vụ chung cho quá trình sản xuất sản phẩm.
Cách phân loại căn cứ vào mục đích và công dụng phục vụ tốt cho công tác
quản lý chi phí sản xuất: cung cấp số liệu cho kế toán tính giá thành sản phẩm,
phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, làm tài liệu tham khảo để lập
định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành sản phẩm cho kỳ sau đồng
thời còn giúp cho việc xây dựng kế hoạch tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm.
Nhược điểm của phương pháp này là mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm
những chi phí có cùng mục đích, công dụng mà không phân biệt chi phí đó có
nội dung như thế nào.
2.3 . Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng công
việc, sản phẩm hoàn thành
Theo cách này, chi phí sản xuất được phân thành các loại:
 Chi phí khả biến (biến phí):

Biến phí là những chi phí mà tổng số hoặc tỷ lệ so với khối lượng công việc
hoàn thành thay đổi (khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành tăng thì tổng
chi phí tăng và ngược lại) nhưng nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì không
đổi. Chẳng hạn, như: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp.
 Chi phí bất biến (định phí):
Định phí là những chi phí không thay đổi về tổng số so với khối lượng, công
việc hoàn thành nhưng nếu tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc hoàn
thành thì lại thay đổi. Chẳng hạn: chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí
thuê mặt bằng…Trong chi phí sản xuất chung phần lớn là định phí.
Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong quản trị doanh nghiệp, giúp cho
việc xem xét cách ứng xử từng loại chi phí, phân tích điểm hoà vốn, phục vụ
việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu
quả kinh doanh. Mặt khác, giúp việc xác định kết quả trong các báo cáo bộ
phận để ra các quyết định quản lý.
2.4. Căn cứ vào phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và mối quan hệ
với đối tượng chịu chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia ra làm hai loại:
 Chi phí trực tiếp: Là những chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp với việc
sản xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định. Những chi phí này
kế toán có thể căn cứ vào chứng từ kế toán để ghi trực tiếp cho đối tượng
chịu chi phí.
 Chi phí gián tiếp: Là những chi phí sản xuất có liên quan đến sản xuất
nhiều loại sản phẩm, nhiều công việc. Những chi phí này kế toán phải tiến
hành phân bổ cho các đối tượng có liên quan theo một tiêu chuẩn thích hợp
Cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế toán tập
hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn, hợp lý.
Ngoài các cách phân loại trên, còn một số cách khác như : phân loại theo
cách thức kết chuyển chi phí…
Ở Pháp coi chi phí là giá phí phải trả khi sử dụng đồ vật và dịch vụ nhằm
mục đích kiếm lời, chi phí là khoản chi làm giảm vốn của Công ty nhưng vẫn

phải thực hiện theo hy vọng số thu nhập mang lại sẽ làm tăng thêm vốn. Quan
niệm này chia chi phí theo các yếu tố:
 Chi phí về nhân viên: gồm tiền lương, phụ cấp, thưởng.
 Chi phí về thuế và các khoản khác nộp ngân sách.
 Chi phí về dịch vụ mua ngoài.
 Chi phí về quảng cáo, quà tặng, vận chuyển, bưu điện, ngân hàng.
 Chi phí quản lý thông thường.
 Chi phí về tài chính, vay phải trả, chiết khấu phải trả.
 Chi phí đặc biệt.
Cũng theo khái niệm trên, nếu hiểu chi phí là số tiền bỏ ra để mua các yếu tố
cần thiết cho chế tạo sản phẩm thì chi phí gồm hai bộ phận:
 Chi phí mua hàng, vật tư, các loại dự trữ sản xuất.
 Các phí tổn phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Ở Mỹ quan niệm: Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm tất cả
các chi phí và nguồn được sử dụng để mang lại doanh thu. Phân loại chi phí
sản xuất dựa vào hai căn cứ :
 Căn cứ vào mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất thì gồm có
chi phí bất biến và chi phí khả biến.
 Chi phí bất biến là phần chi phí hầu như giữ nguyên tổng số tiền với mọi
khối lượng sản phẩm được sản xuất ra.
 Chi phí khả biến là phần chi phí có xu hướng gia tăng theo sự gia tăng
của khối lượng sản phẩm sản xuất và có xu hướng giảm so với sự giảm
sút của số lượng sản phẩm.
 Căn cứ vào mối quan hệ với báo cáo kết quả kinh doanh, chi phí sản
xuất được chia thành chi phí định mức và chi phí lịch sử.
 Chi phí định mức là chi phí phải gánh chịu được xác định trước .
 Chi phí lịch sử là chi phí thực tế phải gánh chịu.
Qua cách phân loại của các nước thì kế toán pháp khó xác định chính xác
giá thành sản phẩm, mà phải xác định giá thành toàn bộ. Kế toán Mỹ và Việt
Nam phân loại rõ ràng hơn, thuận lợi cho việc xác định giá thành sản phẩm

chính xác.
II II. Giá thành sản phẩm
III1. Khái niệm
Trong sản xuất, chi phí sản xuất chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí. Để đánh
giá chất lượng kinh doanh của các tổ chức kinh tế, chi phí sản xuất phải được
xem xét trong mối quan hệ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình
sản xuất kinh doanh đó là kết quả sản xuất thu được. Quan hệ so sánh đó hình
thành nên khái niệm giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ
một khối lượng sản phẩm, dịch vụ nhất định.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá. Những chi
phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư
liệu sản xuất đã tiêu dùng và các chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp
giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh
đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các
quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không
thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Như vậy, đi chi tiết hơn ta thấy:
 Về khách quan: Giá thành là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị tư liệu sản
xuất và sức lao động kết tinh trong một đơn vị sản phẩm.
 Về chủ quan: Trên cơ sở chi phí sản xuất tính ra giá thành sản phẩm
trong kỳ, nên giá thành sản phẩm phụ thuộc vào phương pháp hạch toán
và các biện pháp đánh giá khác nhau về tư liệu sản xuất và sức lao động.
Giá thành sản phẩm được xác định cho từng loại sản phẩm cụ thể và chỉ tính
toán với số lượng sản phẩm hoàn thành, kết thúc toàn bộ quá trình sản xuất
(thành phẩm) hay hoàn thành một, hoặc một số công đoạn sản xuất (bán
thành phẩm) mà không tính cho sản phẩm đang nằm trên dây chuyền sản
xuất.
 Liên hệ với kế toán quốc tế cho thấy:

a. Kế toán Pháp coi giá thành sản phẩm bao gồm:
 Giá mua các vật liệu tiêu hao: các chi phí để mua các vật liệu chế tạo
sản phẩm.
 Chi phí trực tiếp sản xuất: các chi phí chi ra để tham gia trực tiếp vào
quá trình sản xuất sản phẩm.
 Chi phí gián tiếp: có thể phân bổ hợp lý vào đối tượng tính giá thành
sản phẩm.
Các chi phí không được tính vào giá thành sản phẩm:
 Chi phí quản lý chung: chi phí quản lý doanh nghiệp
 Chi phí tài chính: chi phí chi ra trong các nghiệp vụ tài chính
 Chi phí sưu tầm phát triển: chi phí doanh nghiệp đã đầu tư vào lĩnh
vực sưu tầm, phát triển phục vụ lợi ích cho doanh nghiệp
b. Kế toán Mỹ: Chỉ cho phép tính vào giá thành các chi phí trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất, tức là các khoản chi phí về nguyên vật liệu trực
tiếp, tiền lương nhân công trực tiếp sản xuất, chi phí quản lý phân xưởng mới
được tính vào giá thành. Các chi phí khác ngoài sản xuất, như : chi phí về tài
chính, chi phí quản lý doanh nghiệp …chỉ dùng để xác định hiệu quả, không tính
vào giá thành.
2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Như trên đã nói, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt trong
cùng một quá trình sản xuất. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp,
phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản
xuất, chế tạo sản phẩm cũng như các giải pháp mà doanh nghiệp đã thực hiện
nhằm mục đích chi phí bỏ ra ít nhất nhưng kết quả sản xuất thu được nhiều
nhất. Giá thành sản phẩm còn là cơ sở tính toán, xác định kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Chi phí và giá thành sản phẩm giống nhau về chất vì đều là các chi phí
nhưng khác nhau về mặt lượng và kỳ hạch toán, thể hiện:
 Chi phí luôn gắn với một thời kỳ nhất định còn giá thành gắn với khối
lượng sản phẩm hoàn thành.

 Chi phí liên quan tới tất cả các hoạt động khác nhau của doanh nghiệp,
nhưng giá thành sản phẩm chỉ liên quan đến hoạt động sản xuất sản
phẩm.
 Chi phí trong kỳ bao gồm chi phí đã trả cho kỳ trước nhưng chưa phân
bổ cho kỳ này và chi phí phải trả kỳ trước nhưng kỳ này mới thực tế
phát sinh, nhưng không gồm phần chi phí phải trả kỳ trước phân bổ
cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này nhưng chưa thực tế phát
sinh. Giá thành sản phẩm chỉ liên quan đến chi phí phải trả kỳ này và
chi phí phải trả trước được phân bổ trong kỳ.
 Chi phí không chỉ liên quan đến sản phẩm hoàn thành mà còn liên
quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá
thành sản phẩm không liên quan đến 2 vấn đề đó nhưng liên quan đến
chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thể hiện qua sơ đồ
sau:
Chi phí sản xuất dở dang đầu
kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
3. Các loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng
như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc
độ, phạm vi tính toán khác nhau.
3.1. Theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành
Theo cách này, giá thành gồm các loại:
 Giá thành kế hoạch
Giá thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản
xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch.
Việc tính giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực
hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản

phẩm.
Giá thành kế hoạch của sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là
căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành
và kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp.
 Giá thành định mức
Giá thành định mức là giá thành sản phẩm được tính toán trên cơ sở định
mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm.
Việc tính giá thành định mức thực hiện trước khi chế tạo sản phẩm. Giá
thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo để
xác định chính xác kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất,
giúp cho doanh nghiệp đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế, kĩ thuật đã
thực hiện, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
 Giá thành thực tế
Giá thành thực tế là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí
sản xuất thực tế đã phát sinh, tập hợp được trong kì và sản lượng sản phẩm
thực tế đã sản xuất ra trong kì.
Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản
xuất, chế tạo sản phẩm.
Giá thành sản phẩm thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả
phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh
tế-tổ chức-kĩ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác
định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. Theo phạm vi phát sinh chi phí
Trên góc độ này, giá thành sản phẩm gồm hai loại: giá thành sản xuất và giá
thành toàn bộ.
 Giá thành sản xuất
Giá thành sản xuất là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên
quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm gắn với qui trình công nghệ sản xuất
sản phẩm.
Giá thành sản

xuất
=
Chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp
+
Chi phí nhân
công trực tiếp
+
Chi phí sản
xuất chung
 Giá thành toàn bộ
Giá thành toàn bộ là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh
liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Về mặt kế toán không bao giờ
thể hiện giá thành toàn bộ.
Giá thành toàn bộ = Giá thành sản xuất + Chi phí ngoài sản xuất
III. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm
Kế toán làm nhiệm vụ cung cấp thông tin cho các cấp quản trị doanh nghiệp,
cho nhà nước (cơ quan thuế), cho ngân hàng, chủ đầu tư … để đánh giá tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm phải đáp ứng được yêu cầu tính đúng, đủ, hợp lí các khoản chi phí để
phục vụ cho việc tính giá thành được chính xác. Yêu cầu đó được cụ thể hoá
thành các nhiệm vụ sau:
 Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và phương pháp tính giá
thành thích hợp.
 Tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng chịu chi
phí sản xuất.
 Xác định đúng đắn giá trị của sản phẩm dở dang cuối kì.
 Cuối kì, phân tích tình hình thực hiện giá thành và kế hoạch hạ giá thành
sản phẩm, phát hiện kịp thời khả năng tiềm tàng để đề xuất biện pháp thích

hợp cho lãnh đạo doanh nghiệp.
IV. Hạch toán chi phí sản xuất - tính giá thành sản phẩm
với công tác quản trị doanh nghiệp
Chịu tác động của qui luật giá trị trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp
coi lợi nhuận là mục tiêu cơ bản nhất. Để lợi nhuận đạt tối đa thì hoặc phải
tăng doanh thu, hoặc giảm chi phí, hoặc cả hai. Trong tổng chi phí thì chi phí
sản xuất là phần cơ bản ở những doanh nghiệp công nghiệp.
Tiết kiệm chi phí để hạ giá thành sản phẩm, kết hợp với việc không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, bao bì … sẽ tạo vị thế tốt
trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Để làm được như vậy, doanh nghiệp phải
sử dụng hàng loạt các biện pháp: đổi mới qui trình công nghệ, tìm nguồn
nguyên liệu tốt, rẻ, đào tạo công nhân tay nghề cao …
Các nhà quản trị cần theo dõi thường xuyên, kịp thời mọi sự biến động của
chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm; đề xuất các biện pháp để tiêu thụ sản
phẩm nhanh, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Các báo cáo sản xuất cần được lập đầy đủ, tuân theo các thủ tục đã qui định.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nhà nước trong tình trạng lãi giả, lỗ thật do
không hạch toán đúng, đủ chi phí sản xuất. Chẳng hạn, chi phí về quyền sử
dụng đất hầu như không tính đủ ở tất cả các doanh nghiệp nhà nước: không
tính hoặc tính với mức rất thấp.
V. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên, quan
trọng của việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình
sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau.
Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất và giai đoạn tính giá thành.
Việc phân chia này do sự khác nhau về đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và
đối tượng tính giá thành.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là một giới hạn nhất định về địa điểm
phát sinh hoặc đối tượng gánh chịu chi phí mà các chi phí được tập hợp theo

đó.
Chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có
thể phát sinh ở nhiều địa điểm (phân xưởng, tổ, đội) khác nhau và có thể liên
quan đến nhiều loại sản phẩm hay thực hiện các loại dịch vụ khác nhau. Xác
định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với tình hình hoạt động,
đặc điểm qui trình sản xuất sản phẩm và đáp ứng yêu cầu quản lí chi phí của
doanh nghiệp mới tạo điều kiện để tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí
sản xuất.
1.1. Căn cứ vào đặc điểm qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm
Đặc điểm qui trình công nghệ được xem xét ở hai mức độ: giản đơn hay
phức tạp.
Với công nghệ sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có
thể là sản phẩm hoặc toàn bộ qui trình sản xuất sản phẩm.
Với công nghệ sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có
thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, qui trình công nghệ,
đơn vị sản xuất …
1.2. Căn cứ vào loại hình sản xuất
Với loại hình sản xuất đơn chiếc, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất theo
từng bộ phận, từng sản phẩm.
Với loại hình sản xuất hàng loạt cỡ nhỏ, đối tượng hạch toán chi phí sản
xuất là các đơn đặt hàng riêng biệt.
Với loại hình sản xuất hàng loạt có khối lượng lớn, đối tượng hạch toán chi
phí sản xuất theo toàn bộ khối lượng sản phẩm.
1.3. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất
Tuỳ theo cách thức tổ chức sản xuất và quản lý của doanh nghiệp, có phân
xưởng thì có thể coi phân xưởng là đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Sẽ có
những quyết định đúng đắn để đối chiếu và kiểm tra, phân tích quyết định
chính xác đến từng phân xưởng trong quản lí hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.4. Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có hạch toán kinh tế nội bộ một cách rộng rãi đòi hỏi phải

kiểm tra, phân tích và xác định kết quả từng phân xưởng, từng công đoạn sản
xuất thì đối tượng hạch toán có thể là phân xưởng, công đoạn sản xuất.
Ngoài bốn căn cứ trên, thực tế còn một số căn cứ khác như căn cứ vào tính
chất sản phẩm … tuỳ theo điều kiện mà doanh nghiệp áp dụng cho thích hợp.
2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là hệ thống các cách thức, biện
pháp sử dụng để tập hợp và phân loại chi phí sản xuất theo đối tượng hạch
toán chi phí.
2.1. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công việc
Theo phương pháp này, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất được xác định
theo loại sản phẩm, từng loại công việc, từng đơn đặt hàng. Trên cơ sở đó, kế
toán mở sổ hoặc thẻ kế toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng. Chi phí sản
xuất phát sinh không kể ở đâu, bộ phận nào đều được phân loại theo sản
phẩm, công việc, đơn đặt hàng. Trường hợp chi phí phát sinh liên quan đến
nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thì kế toán dựa vào một tiêu chuẩn
phân bổ thích hợp cho từng đối tượng và ghi vào sổ tương ứng.
Phương pháp này được áp dụng khi doanh nghiệp có điều kiện sau:
 Sản phẩm có tính đơn chiếc, giá trị lớn, kết cấu phức tạp.
 Sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng.
 Chu kì sản xuất sản phẩm kéo dài.
Tài khoản sử dụng được chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất.
Phương pháp này có ưu điểm là tạo điều kiện để tính toán chính xác, kịp
thời giá thành sản phẩm, từ đó giúp kiểm tra, đánh giá thường xuyên tình hình
thực hiện kế hoạch giá thành. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là khi
doanh nghiệp có nhiều đối tượng tính giá thành thì công tác hạch toán ban
đầu trở nên phức tạp.
2.2.Phương pháp hạch toán theo quá trình sản xuất
Theo phương pháp này, chi phí sản xuất được tập hợp theo từng công đoạn
hoặc từng bộ phận, từng phân xưởng khác nhau của doanh nghiệp. Các tài

khoản được chi tiết theo từng giai đoạn sản xuất.
Phương pháp này được áp dụng khi doanh nghiệp có các điều kiện sau:
 Sản phẩm có tính đồng nhất, sản xuất đại trà.
 Sản phẩm có giá trị nhỏ.
 Sản phẩm được đặt mua sau quá trình sản xuất .
2.3.Phương pháp liên hợp hạch toán chi phí sản xuất
Với doanh nghiệp có qui trình công nghệ sản xuất phức tạp mà vừa có điều
kiện vận dụng phương pháp hạch toán theo sản phẩm, vừa có điều kiện vận
dụng phương pháp hạch toán theo quá trình sản xuất thì có thể sử dụng cả hai
phương pháp này. Chẳng hạn, doanh nghiệp vừa sản xuất đại trà, vừa sản xuất
theo đơn đặt hàng thì chi phí sản xuất được tập hợp theo quá trình sản xuất
với sản phẩm sản xuất đại trà và tập hợp theo công việc với các đơn đặt hàng.
Trong thực tế, những doanh nghiệp có qui trình sản xuất giản đơn thì hai
phương pháp trên trùng nhau.
2.4. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo định mức
Đối với doanh nghiệp đã xây dựng được hệ thống định mức tiêu hao của
từng yếu tố chi phí cho một đơn vị sản phẩm thì có thể tập hợp chi phí theo
từng yếu tố đã được định mức. Thực chất của phương pháp này là việc xác
định mức hao phí thực tế của từng yếu tố chi phí trong một đơn vị sản phẩm
nên tập hợp chi phí theo định mức là một dạng đặc biệt của phương pháp hạch
toán chi phí theo công việc.
3.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Để tính chính xác giá thành sản phẩm, chi phí sản xuất phải được tập hợp
theo một trình tự hợp lí, khoa học. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản
xuất từng doanh nghiệp, trình độ quản lí và hạch toán … nhưng trình tự chung
qua các bước:
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản, trực tiếp liên quan đến từng đối tượng
tập hợp chi phí.
Bước 2: Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, lao vụ của
ngành sản xuất kinh doanh phục vụ cho các đối tượng trong doanh nghiệp.

Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính
giá thành.
Bước 4: Kiểm kê xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Bước 5: Tính ra tổng giá thành đơn vị sản phẩm, dịch vụ.
VI. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm
1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất được tập hợp là cơ sở để tính giá thành. Đối tượng tính
giá thành là sản phẩm, định vụ đòi hỏi kế toán phải tính được giá thành và
giá thành đơn vị. Xác định đối tượng tính giá thành căn cứ vào đặc điểm
hoạt động sản xuất kinh doanh, quy trình sản xuất của doanh nghiệp. Đồng
thời, phải xác định đơn vị tính của sản phẩm, dịch vụ đã được xã hội thừa
nhận, phù hợp với đơn vị tính sản lượng ghi trong kế hoạch sản xuất kinh
doanh của đơn vị.
Nếu quy trình sản xuất giản đơn thì sản phẩm hoàn thành ở cuối quy
trình sản xuất là đối tượng tính giá thành.
Nếu quy trình sản xuất phức tạp, kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành
là thành phẩm ở giai đoạn chế biến cuối cùng hoặc bán thành phẩm ở từng
giai đoạn sản xuất.
Nếu quy trình công nghệ phức tạp kiểu song song (lắp ráp) thì sản phẩm
được lắp ráp hoàn chỉnh, từng bộ phận, chi tiết sản phẩm là đối tượng tính
giá thành.
Nếu tổ chức sản xuất đơn chiếc thì từng sản phẩm, từng công việc sản
xuất là đối tượng tính giá thành.
Kỳ tính giá thành là thời kỳ mà bộ phận kế toán giá thành cần thiết tiến
hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành.
Xác định kỳ tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành thích hợp sẽ
giúp cho tổ chức công việc tính giá thành sản phẩm khoa học, hợp lý, đảm
bảo cung cấp số liệu thông tin về giá thành thực tế được kịp thời, đầy đủ,
phát huy được vai trò kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, đáp
ứng yêu cầu quản lý nội bộ của doanh nghiệp.

Kỳ tính giá thành có thể là tháng, chu kỳ sản xuất hay năm tuỳ thuộc đặc
điểm tổ chức sản xuất và chu kỳ sản xuất để xác định cho thích hợp.
2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là hệ thống các cách thức, biện pháp
sử dụng để tính giá thành đơn vị của sản phẩm. Nó mang thuần túy tính kỹ
thuật sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã được tập hợp trong kỳ để tính tổng
giá thành và giá thành đơn vị.
Sau đây là một số phương pháp tính giá thành:
2.1. Phương pháp trực tiếp
Phương pháp này thích hợp ở những doanh nghiệp mà một số đối tượng
tính giá thành thích ứng với một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đó là
các doanh nghiệp điện, nước... có quy trình công nghệ khép kín, chỉ sản xuất
một loại sản phẩm hoặc doanh nghiệp in, may mặc... sản xuất nhiều loại sản
phẩm nhưng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất được xác định cho từng loại
sản phẩm. Chi phí sản xuất tập hợp theo phương pháp này là trực tiếp hoặc
gián tiếp.
Tổng giá Giá trị sản Chi phí sản Các phát sinh Giá trị sản
thành
sản
= phẩm dở dang + xuất thực tế - giảm chi phí - phẩm dở dang
phẩm đầu kỳ phát sinh
trong kỳ
sản xuất cuối kỳ
Đồng thời, dựa vào sản lượng thực tế do bộ phận thống kê cung cấp, xác
định giá thành đơn vị:
Giá thành đơn
=
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành
vị sản phẩm Số lượng sản phẩm hoàn thành
2.2 Phương pháp tổng cộng chi phí

Phương pháp này được sử dụng khi một đối tượng tính giá thành ứng với
nhiều đối tuợng tập hợp chi phí sản xuất: một loại sản phẩm phải trải qua
nhiều giai đoạn chế biến, mỗi giai đoạn là một phân xưởng, tổ đội. Chẳng hạn,
như: doanh nghiệp sản xuất giầy, dệt, giấy...
Tổng giá thành

Chi phí phân xưởng 1 Chi phí phân xưởng n
sản phẩm = phân bổ cho sản phẩm + ... + phân bổ cho sản phẩm
hoàn thành hoàn thành
2.3. Phương pháp hệ số
Phương pháp hệ số được áp dụng khi một đối tượng hạch toán chi phí
sản xuất ứng với nhiều đối tượng tính giá thành và doanh nghiệp đã xác
định được hệ số của từng loại sản phẩm dựa trên một tiêu thức thích hợp:
trọng lượng, kích thước sản phẩm ...Đó là các doanh nghiệp ngành hoá chất,
hoá dầu...
Đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm và đối tượng tập hợp chi phí
sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ.
Tổng giá
thành các
loại sản
phẩm hoàn
thành
=
Giá trị sản
phẩm dở dang
đầu kì
+
Chi phí sản
xuất thực tế
phát sinh

trong kì
-
Các phát sinh
giảm chi phí
sản xuất
-
Giá trị sản
phẩm dở
dang cuối kì
Việc tính giá thành thực tế của từng đối tượng phải căn cứ vào hệ số chi
phí của từng loại sản phẩm. Dựa vào hệ số chi phí, kế toán quy đối tất cả các
loại sản phẩm khác nhau về một loại sản phẩm chuẩn, sau đó tính giá thành
thực tế của sản phẩm chuẩn và xác định giá thành thực tế của các loại sản
phẩm.
Sản lượng qui đổi
của từng loại sản
phẩm
=
Σ (
Sản lượng thực
tế từng loại sản
phẩm
×
Hệ số chi phí
từng loại
sản phẩm
)
Giá thành đơn vị của
=
Tổng giá thành các loại sản phẩm

sản phẩm tiêu chuẩn Số lượng sản phẩm tiêu chuẩn
Giá thành đơn vị thực tế
từng loại sản phẩm
=
Giá thành đơn vị của
sản phẩm tiêu chuẩn
×
Hệ số chi phí từng
loại sản phẩm

2.4.Phương pháp tỷ lệ
Điều kiện vận dụng phương pháp tỷ lệ : là doanh nghiệp đã xây dựng được
chỉ tiêu giá thành kế hoạch cho từng đối tượng.
Căn cứ vào tổng giá thành thực tế và tổng giá thành kế hoạch của các loại
sản phẩm tính theo sản lượng thực tế, kế toán tính tỷ lệ điều chỉnh giá thành.
Tỷ lệ điều chỉnh Tổng giá thành thực tế các loại sản phẩm × 100
=
giá thành sản phẩm (%) Tổng giá thành kế hoạch các loại sản phẩm
Giá thành sản
xuất thực tế của
loại sản phẩm i
=
Giá thành kế
hoạch đơn vị
của loại sản
phẩm i

×
Sản lượng thực
tế sản phẩm i


×
Tỷ lệ điều chỉnh
giá sản phẩm
2.5.Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ
Áp dụng phương pháp này trong các doanh nghiệp có quy trình sản xuất
mà ngoài việc tạo ra sản phẩm chính còn có sản phẩm phụ. Đó là các doanh
nghiệp sản xuất đường, xay xát gạo, rượu, bia...
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ,
nhưng đối tượng tính giá thành là sản phẩm chính. Do vậy, phải loại trừ giá
trị sản phẩm phụ khi tính giá thành.
Tổng giá Tổng chi phí Giá trị sản Giá trị sản Giá trị
thành sản = sản xuất thực + phẩm dở dang - phẩm dở dang - Sản phẩm
phẩm chính tế phát sinh đầu kỳ cuối kỳ phụ
Giá trị sản phẩm phụ tính theo giá bán của nó trên thị trường hoặc theo giá
kế hoạch của doanh nghiệp.
2.6. Phương pháp liên hợp
Phương pháp liên hợp áp dụng trong các doanh nghiệp có tổ chức sản
xuất mà tính chất quy trình công nghệ và sản phẩm đòi hỏi việc tính giá
thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau: kết hợp tổng cộng chi

×