Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn tập
đọc - học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết sẽ giúp
trẻ viết thạo. Trẻ đọc thông, viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh
hơn, học tốt hơn. Kết quả việc rèn chữ viết cho học sinh không
phải ngày một, ngày hai mà có được. Mà đó là kết quả của một quá
trình dày công khổ luyện của cả thầy và trò, dưới sự dìu dắt, chăm
sóc tận tình của các thầy giáo, cô giáo
Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn
tập đọc - học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết
sẽ giúp trẻ viết thạo. Trẻ đọc thông, viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp
thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. Kết quả việc rèn chữ viết cho
học sinh không phải ngày một, ngày hai mà có được. Mà đó là
kết quả của một quá trình dày công khổ luyện của cả thầy và
trò, dưới sự dìu dắt, chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cô
giáo
Chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi
người thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo
một văn bản thay vì cầm bút viết trên giấy. Việc rèn chữ viết
của mọi người bị chìm vào quên lãng.
Ở trong trường tiểu học cũng vậy, trong những năm học gần
đây, học sinh viết chữ xấu là một tình trạng đáng báo động.
Hiện nay học sinh lựa chọn đủ các loại bút để viết, đặc biệt là
học sinh rất yêu thích với chiếc bút bi của mình hơn là những
loại bút chấm mực như ngày xưa. Mặt khác, chữ viết của khá
nhiều giáo viên chưa đúng quy định cũng ảnh hưởng rất nhiều
đến việc rèn chữ viết của học sinh. Mỗi thầy, cô giáo được xem
như là một tấm gương phản chiếu để học sinh soi rọi vào đó.
Lứa tuổi của học sinh tiểu học là lứa tuổi hay “bắt chước”, giáo
viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế đó; đặc biệt là ở
lứa tuổi học sinh lớp 1.
Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn
tập đọc - học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết
sẽ giúp trẻ viết thạo. Trẻ đọc thông, viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp
thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là
một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết
cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn
thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn
đọc bài của mình”.
Thật vậy, nhìn trang vở của học sinh với những dòng chữ đều
tăm tắp, sạch sẽ thì cả cha mẹ và thầy cô đều dấy lên một
niềm vui. Chúng ta như đặt niềm tin vào tương lai con trẻ.
Việc rèn chữ viết cho học sinh còn là môi trường quan trọng bồi
dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh
thần kỷ luật và óc thẩm mỹ. Nhưng muốn viết thạo trẻ phải
gắng công khổ luyện dưới sự dìu dắt tận tình của các thầy giáo,
cô giáo.
Trong trường tiểu học, việc dạy tập viết được phối hợp nhịp
nhàng với dạy học vần, chính tả, tập làm văn, việc ghi bài vào
vở các môn học, vở luyện viết chữ đẹp của học sinh.
Dạy tập viết không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức
cơ bản về chữ viết mà còn rèn kỹ thuật viết chữ. Trong các tiết
tập viết, học sinh nắm bắt được các tri thức cơ bản về cấu tạo
các chữ cái tiếng Việt được thể hiện trên bảng cài, bảng lớp,
bảng con, trong vở tập viết và vở ghi bài các môn học khác…
Đồng thời, học sinh được giáo viên hướng dẫn các yêu cầu kỹ
thuật viết từng nét chữ để hình thành nên một chữ cái rồi đến
tiếng, từ, cụm từ và cả câu.
Ở giai đoạn đầu, trọng tâm của việc dạy tập viết là dạy viết chữ
cái và kết nối các chữ cái lại để ghi tiếng.
Ở giai đoạn cuối, song song với việc rèn viết chữ hoa, học sinh
còn được rèn viết văn bản, có thể là: nhìn một đoạn văn, đoạn
thơ chép lại cho đúng (tập chép) hoặc nghe giáo viên đọc mẫu,
học sinh viết bài vào vở (nghe viết) hoặc nhớ để viết lại (nhớ
viết).
Cụ thể:
* Về tri thức: giáo viên cần dạy cho học sinh những khái niệm
về dòng kẻ (đường kẻ) tương ứng với bao nhiêu ô li? Đặt bút ở
đường kẻ nào? Dừng bút ở đường kẻ nào? Chữ cái đó có mấy
nét? Tên gọi của các nét? Vị trí của dấu phụ, dấu thanh đặt ở
đâu? Cách nối nét như thế nào?… Từ đó hình thành cho học
sinh những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính
thẩm mỹ của chữ viết.
Ví dụ: Học sinh viết chữ O có hình dáng như hạt gạo, giáo viên
cho học sinh xem chữ O mẫu rồi hỏi: Chữ O giống hình gì? -
học sinh trả lời: Chữ O giống quả trứng gà, giống số 0… Từ đó,
giáo viên cho học sinh so sánh và hướng dẫn học sinh viết
đúng.
* Về kỹ năng: Trước khi cho học sinh viết bài vào vở, giáo viên
cần hướng dẫn học sinh về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để
vở.
a/ Tư thế ngồi viết: Ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tỳ ngực
vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở từ 25 - 30cm. Cánh tay
trái đặt trên mặt bàn bên trái lề vở, bàn tay trái tỳ vào mép vở,
giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải cùng ở trên mặt
bàn; khi viết bàn tay và cánh tay phải có thể dịch chuyển từ
trái sang phải và từ phải sang trái dễ dàng.
b/ Cách cầm bút: Cầm bút bằng 3 ngón tay của bàn tay phải:
ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa. Đầu ngón trỏ đặt trên thân
bút, đầu ngón cái giữ bên trái thân bút; đầu ngón giữa tựa vào
bên phải thân bút. Khi viết 3 ngón tay này giữ bút, điều khiển
bút dịch chuyển. Ngoài ra cần sự phối hợp của cổ tay, cánh tay,
khuỷu tay khi viết.
Tiếp theo, giáo viên dạy cho học sinh các thao tác viết chữ từ
đơn giản đến phức tạp, dạy cho học sinh kỹ năng viết các nét,
cách lia bút và cách nối nét. Đồng thời giúp học sinh xác định
được khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ
năng viết đúng mẫu, rõ ràng và tiến tới là viết đẹp, viết nhanh.
5.2.3. Giáo viên viết mẫu:
Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng
lớp giúp học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng
chữ cái. Do vậy, giáo viên phải viết chậm, đúng theo quy tắc
viết chữ vừa giảng giải, phân tích cho học sinh. Khi viết mẫu,
giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay của giáo
viên viết từng nét chữ.
Khi viết, giáo viên vừa kết hợp giảng giải, phân tích: đưa bút
như thế nào? Thứ tự các nét viết ra sao? Giáo viên cũng cần
chú ý phân tích cả cách viết dấu phụ và dấu thanh.
5.2.4. Hướng dẫn học sinh luyện tập viết:
a. Luyện viết trên không
Việc học sinh luyện viết trên không là bước giúp học sinh rèn
luyện đôi tay và rèn luyện quy trình viết các nét để học sinh
khỏi ngỡ ngàng khi viết. Giáo viên cũng có thể cho học sinh tì
đầu ngón tay trên mặt bàn để hình thành dần kỹ năng viết các
nét cho đều đặn. Bước này có thể lặp lại từ 2 - 3 lần.
b. Luyện viết trên bảng con, bảng lớp
- Giáo viên cho vài em luyện viết trên bảng lớp, cả lớp viết
bảng con chữ cái và cụm từ mà giáo viên yêu cầu hoặc giáo
viên có thể chọn cho học sinh viết những chữ khó viết mà học
sinh hay viết sai.
- Khi nhận xét chữ viết của học sinh, giáo viên cần cho học sinh
quan sát lại chữ mẫu; giáo viên gợi ý để học sinh tự nhận xét
chữ viết của mình và của bạn, biết tự tham gia chữa lại những
chỗ đã viết sai.
- Giáo viên chữa lỗi sai chung bằng cách viết lại chữ đúng ngay
bên cạnh chữ viết của học sinh, tránh viết đè lên chữ viết sai
của học sinh.
c. Luyện viết bài vào vở
- Giáo viên yêu cầu học sinh viết chữ gì? Từ gì? Câu gì? Cỡ chữ
nào? Viết mấy dòng?
- Trước khi cho học sinh viết bài; giáo viên nên hướng dẫn lại tư
thế ngồi viết, cách cầm bút, nhắc nhở học sinh trước khi viết:
đặt bút ngay điểm bắt đầu viết, viết chữ đúng nét, đúng độ cao
của các nét, các chữ, khoảng cách giữa các chữ, các cụm từ.
- Học sinh thực hành viết bài vào vở. Giáo viên theo đõi, uốn
nắn cho một số em có chữ viết còn xấu. Có thể, giáo viên cầm
tay hướng dẫn cho học sinh viết 1 đến 2 chữ đầu tiên.
5.2.5. Chấm, chữa bài:
- Giáo viên chấm điểm từ 5 - 7 bài tại lớp. Giáo viên kết hợp
chấm điểm những học sinh có chữ viết xấu và những học sinh
rèn viết chữ đẹp. Số bài viết của các học sinh còn lại, giáo viên
thu về nhà chấm để kịp thời chữa cách viết của học sinh ở tiết
sau.
- Giáo viên chữa những lỗi học sinh sai phổ biến, hướng dẫn kỹ
lại cách viết của chữ cái đó để học sinh khắc sâu cách viết một
lần nữa.
- Cho cả lớp xem bài viết đẹp. Kịp thời động viên, khích lệ
những học sinh có chữ viết tiến bộ. Tuyên dương những học
sinh có bài viết đẹp.
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm nhỏ, cho học sinh thi đua
giữa các nhóm, nhóm nào có nhiều bài viết đẹp, nhóm đó nhận
được cờ thi đua.
- Hàng tháng, giáo viên chấm điểm vở sạch, chữ đẹp cho từng
học sinh sơ kết thi đua.
5.2.6. Củng cố bài
Giáo viên có thể củng cố bằng nhiều hình thức sau:
- Giáo viên yêu cầu học sinh viết lại những chữ cái đã viết trên
bảng lớp.
- Cho học sinh thi viết chữ cái giữa các nhóm.
- Hoặc có thể dùng các nét rời rồi cho học sinh thi ghép các nét
chữ với nhau để tạo thành chữ cái đã học.
- Phối hợp viết chữ với các môn học khác.
Trên đây là một số bước cơ bản cần thực hiện trong một tiết
tập viết ở tiểu học. Giáo viên nên căn cứ vào tình hình của từng
lớp để tổ chức giờ dạy theo một trình tự hợp lý. Điều quan
trọng, mỗi bản thân thầy, cô giáo phải ra sức rèn luyện chữ viết
của mình để làm tấm gương cho học sinh noi theo qua việc rèn
chữ viết ở vở luyện viết chữ đẹp, qua những trang giáo án…