Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Hát bội Bình Định ở đình, miếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.05 KB, 12 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 12 (37) - Tháng 2/2016

Hát bội Bình Định ở đình, miếu
Lasciviousness’s Binh Dinh in village communal houses, temples
ThS. Đào Thị Nhu Mì,
Nhạc viện TP.HCM
M.A. Dao Thi Nhu Mi,
Ho Chi Minh City Conservatoire
Tóm tắt
Bài viết này trình bày sinh hoạt hát bội Bình Định ở đình, miếu, là hai khơng gian diễn xướng tiêu biểu
thuộc khơng gian thiêng của Hát bội Bình Định. Hát bội Bình Định phổ biến trong những sinh hoạt tế lễ
tại đình, miếu; vừa để dâng cúng thần thánh, vừa để phục vụ nhu cầu giải trí của người dân trong và
ngồi tỉnh Bình Định.
Từ khóa: đình, miếu, khơng gian diễn xướng, khơng gian thiêng, hát bội Bình Định…
Abstract
This article provides information about the lasciviousness’s Binh Dinh in village communal houses,
temples, two of the typical performing spaces in the sacred space of lasciviousness’s Binh Dinh. The
lasciviousness’s Binh Dinh is popular among ceremonial activities in village communal houses temples;
offering worship to the gods, satisfying the entertainment needs of the people in and outside the
province of Binh Dinh.
Keywords: village communal houses, temples, performing space, scared space, lasciviousness’s Binh Dinh…

1. Đặt vấn đề
Hát bội Bình Định (còn gọi là hát bội
Đào Tấn) là một trong những phong cách
của nghệ thuật sân khấu hát bội truyền
thống Việt Nam. Hát bội Bình Định hình
thành từ thế kỷ XVII nhờ cơng lao của Đào
Duy Từ, phát triển rực rỡ ở thế kỷ XIX nhờ


vai trò to lớn của Đào Tấn. Trải qua bao
thăng trầm của lịch sử, hát bội Bình Định
vẫn tồn tại trong đời sống của người dân
Bình Định.
Hát bội Bình Định rất có giá trị trong
đời sống người Bình Định. Thế kỷ XIX,
hát bội Bình Định đã đạt đến cực thịnh,
phổ biến, lan rộng, ảnh hưởng khắp cả

miền Trung và Việt Nam. Việc nghiên cứu
khơng gian đình, miếu – khơng gian diễn
xướng Hát bội Bình Định để thấy được đặc
điểm và giá trị của khơng gian đình, miếu
đối với sự tồn tại của hát bội Bình Định
trong đời sống tinh thần của người dân
Bình Định nói riêng và người dân vùng
dun hải Nam trung bộ nói chung và để
góp cơng lưu truyền, gìn giữ Hát bội Bình
Định đến mai sau.
Bài viết này tập trung vào đối tượng
nghiên cứu là khơng gian đình, khơng gian
miếu (thuộc khơng gian diễn xướng của hát
bội Bình Định). Nghiên cứu khơng gian
diễn xướng (đình, miếu) của hát bội Bình
66


Định ở Bình Định và ở những nơi hát bội
Bình Định diễn ra (không giới hạn về mặt
địa lý) trong thời gian khoảng 10 năm gần

đây (2006-2015).
Bài viết sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chính như sau:
Phương pháp so sánh: So sánh không
gian diễn xướng (đình, miếu) của hát bội
Bình Định và của hát bội ở nơi khác, như
Bắc bộ, Nam bộ, Trung bộ (Bắc trung bộ
và các tỉnh Nam trung bộ khác).
Phương pháp khảo sát thực địa: Tìm
hiểu không gian diễn xướng hát bội Bình
Định thông qua việc tham dự các buổi biểu
diễn hát bội; khảo sát các hoạt động tổ
chức và biểu diễn của các đoàn hát bội
Bình Định...
2. Một số khái niệm cơ bản

Không gian diễn xướng của hát bội
Bình Định gồm hai loại: không gian thiêng
(không gian thờ cúng) và không gian đời
thường. Không gian thiêng là không gian
gắn với các hoạt động sinh hoạt hát bội ở
các cơ sở thờ tự như đình, miếu, đền, chùa,
lăng... Không gian đời thường là không
gian tách khỏi các hoạt động ở các cơ sở
thờ tự. Hát bội Bình Định gắn bó với hai
không gian diễn xướng này.
Qua kết quả khảo sát của chúng tôi từ
các tờ hợp đồng diễn của các đoàn hát bội
Bình Định (từ 2006 đến 2015), không gian
diễn xướng hát bội Bình Định gồm có 350

địa điểm phổ biến khắp trong và ngoài tỉnh
Bình Định. Trong đó, không gian thiêng
gồm 308 địa điểm (chiếm 88%) và không
gian đời thường gồm 42 địa điểm (chiếm
12%). Xem Hình 1. Sơ đồ không gian diễn
xướng hát bội Bình Định.
Trong 308 địa điểm không gian
thiêng, đình (27 cái) chiếm 9%, miếu (181
cái) chiếm 59%, lăng (75 cái) chiếm 24%,
đền (8 cái) chiếm 2%), chùa (5 cái) chiếm
2%, từ đường (12 cái) chiếm 4%. Xem
Hình 2. Sơ đồ không gian thiêng của hát
bội Bình Định.

2.1. Khái niệm “không gian
diễn xướng”, “không gian thiêng”:
Không gian diễn xướng của Hát bội
Bình Định chính là nơi (không gian cụ thể:
đình, miếu, lăng, đền, sân khấu, nhà...), các
điều kiện hình thức (lễ hội, tập tục...) cùng
với thời gian (ngày giờ, tháng...) diễn ra
quá trình sinh hoạt Hát bội Bình Định (ở
trong và ngoài tỉnh Bình Định).

Không gian thiêng

Không gian diễn xướng
hát bội Bình Định
không
gian đời

thường
12% không
gian
thiêng
88%

chùa
từ đường
đền2% 4%
2%
đình
9%

lăng
24%

miếu
59%

ình 1. Sơ đồ Không gian diễn xướng hát
bội Bình Định.
67

ình 2. Sơ đồ không gian thiêng của hát
bội Bình Định


đình” (tên của nhà dạy hát bội của Đào
Tấn) mà ra [Đoàn Nồng 1942: 9].
Trong nhiều tài liệu, các nhà nghiên

cứu cho rằng, tên gọi “hát bộ” chỉ xuất hiện
sau “hát bội”, khi cải lương mới hình
thành, nhằm phân biệt với cải lương (thời
kỳ đầu chỉ có hát mà ít làm điệu bộ) [Vũ
Ngọc Liễn 2001: tr.75-80]. Tuy nhiên, cải
lương hoặc chèo cũng vừa hát vừa làm điệu
bộ. Vì thế tên gọi này cũng chưa hợp lý.
Còn tên gọi “tuồng” xuất hiện những năm
đầu thế kỷ XX ở miền Bắc, chỉ cách biểu
diễn có tuồng tích, cốt truyện, được xem là
cách gọi không hợp lý vì cải lương hay
chèo cũng có tuồng tích. Tên gọi “tuồng”
xuất hiện sau cùng, chỉ lối biểu diễn có
tuồng có tích của loại hình nghệ thuật sân
khấu này.
Như vậy, chúng tôi cho rằng, “hát bội”
là tên gọi hợp lý nhất vì nó chỉ sự cách
điệu cao về điệu bộ - đây là nét đặc trưng
loại hình nghệ thuật này. Tên gọi này cũng
là tên gọi xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam
và cũng phổ biến ở Bình Định (phát âm
theo tiếng địa phương Bình Định là “hát
bậu”). Vì thế, trong bài viết này, chúng tôi
sử dụng tên gọi “hát bội” thay cho “hát
bộ”/ “tuồng” vì xét trên ý nghĩa của tên gọi
gắn với đặc trưng của nghệ thuật sân khấu
hát bội.
Hiện nay, ở Việt Nam, có ba phong cách
hát bội chính: phong cách hát bội (tuồng)
miền Bắc, phong cách hát bội miền Nam và

phong cách hát bội (hát bộ) miền Trung.
Hát bội Bình Định/ Hát bội Đào Tấn
là thuật ngữ chỉ tên gọi của một trong
những phong cách hát bội của miền Trung,
tiêu biểu cho dòng hát bội Trung bộ ở Việt
Nam. Hát bội Bình Định là tên gọi của
phong cách hát bội được hình thành và tồn
tại ở Bình Định. Đào Tấn là người có công
lớn trong việc hình thành dòng Hát bội này

2.2. Khái niệm “hát bội”, “hát bội
Bình Định”:
Hát bội là một trong ba loại hình nghệ
thuật sân khấu truyền thống Việt Nam (Hát
bội, Chèo, Cải lương). Hát bội được hình
thành vào thế kỷ XIII ở miền Bắc Việt
Nam; phát triển rực rỡ ở thế kỷ XIX ở
miền Trung nhờ sự bảo hộ của triều đình
nhà Nguyễn và suy yếu vào đầu thế kỷ XX.
Đến nay, hát bội đã được nhà nước quan
tâm và đang dần dần phục hồi.
Hát bội thể hiện tính tổng hợp cao về
hát, múa, kịch, văn học, mỹ thuật, võ
thuật… Hát bội thể hiện tính chất tượng
trưng, ước lệ, cách điệu cao nhất trong ba
loại hình nghệ thuật sân khấu. Trong nghệ
thuật biểu diễn hát bội, nhiều quy tắc, kỹ
thuật biểu diễn, trình thức, mô hình nhân
vật… đã hình thành, tạo nên đặc trưng của
hát bội Việt Nam.

Về thuật ngữ, hát bội còn gọi là hát bộ
hay tuồng. Có nhiều người giải thích khác
nhau về nguồn gốc các thuật ngữ này. Tuy
nhiên, chúng đều chỉ là tên gọi của một
loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống
Việt Nam, xuất hiện từ xa xưa và tồn tại
đến ngày nay ở Việt Nam.
Theo Trần Văn Khải, gọi là “hát bội”
vì xuất phát từ chữ “bội” trong “gia bội”,
“bội nhị” (thêm gấp hai gấp ba lần), tức chỉ
loại nghệ thuật sân khấu dùng lối ca hát,
múa may, làm điệu bộ được cách điệu lên
rất nhiều [Trần Văn Khải 1970: 2,3].
Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng cho rằng,
“bội”: là hát kịch, diễn kịch, diễn tuồng
[Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng 1970: 249].
Theo Đoàn Nồng, gọi là “hát bộ” vì
người ta cho rằng đây là loại nghệ thuật sân
khấu “vừa hát, vừa đi và làm bộ tịch để
biểu diễn cảm giác, cảm tình với câu hát”.
Và tên gọi này cũng xuất phát từ “Học bộ

68


ở Bình Định mà đến nay nó được lưu
truyền qua các thế hệ học trò của Đào Tấn
ở Bình Định. Vì vậy, để chỉ một phong
cách hát bội được hình thành nhờ góp công
to lớn của Đào Tấn mà hát bội Bình Định

cũng được gọi tên là hát bội Đào Tấn.
3. Phân bố và tổ chức biểu diễn hát bội
Bình Định ở đình làng
Đình là một tòa nhà năm gian hai chái.
Mái đình lợp ngói âm dương. Nóc đình đắp
lưỡng long chầu nguyệt. Mặt tiền của đình
sau một lần cửa võng là lớp cửa bàn khoa.
Nội thất đình gồm hoành phi, liễn đối, long
ngai, thần chủ rực rỡ vàng son. Nhiều hoa
văn, họa tiết chạm khắc trên mái, trên rui,
trên kèo, trên trính… Bên cạnh đình là
những nhà tả gian, hữu gian và những hành
lang. Đình có sân rộng ở trước, có bình
phong, trụ biểu với nhiều nghè đá, sư tử đá
ở trong sân và ngoài cùng là cửa Tam
quan. Làng lớn như làng An Ngãi, làng
Biểu Chánh, đình làng 7 gian 2 chái, có ao
sen trước đình rộng tới mấy mẫu đất. Đa số
các ngôi đình ở Bình Định đều hướng mặt
vào Nam, chỉ có một ít đình do thuật phong
thủy mới quay mặt hướng khác, như đình
Thái Thuận quay mặt ra hướng Bắc…(1)
Đình làng là nơi được người dân lập ra
là để thờ vị Thành hoàng. Tượng Thành
hoàng ngồi trên long ngai đặt trên bàn thờ

giữa, các bàn hai bên thờ các bộ hạ của
Thành hoàng. Nếu không có tượng Thành
hoàng thì có thần chủ, bài vị thay thế. Khác
với đình làng Bắc bộ chỉ thờ vọng Thành

hoàng. Ở Bình Định, mỗi làng có vị Thành
hoàng riêng, thường xuất thân từ dân gian,
rất gần gũi với dân. Mỗi làng nghề thờ mỗi
vị. Làng nghề dệt thờ người có công dạy
dân nghề canh cửi. Làng đúc đồng thờ
người đem nghề đúc đồng về làng. Tuy
nhiên, cũng có làng như làng Háo Đức,
đình làng thờ ông Quan Vân Trường và các
ông Quan Bình, Châu Xương (thời Tam
quốc). Làng An Định thờ thầy đồ Trần Văn
Huấn, quê ở đâu không rõ, đến đây mở
trường ngồi dạy học, bên cạnh đình có lập
nhà thờ “Ông Lớn” (là Lê Đình Xuân,
người ở trong làng, nhờ đỗ khoa thi võ mà
được ra làm quan võ triều Nguyễn). Dân
coi vị Thành hoàng nào cũng là Phúc thần,
luôn phù hộ độ trì cho những dân làng
lương thiện.(2)
Các nơi khác mỗi làng là một dòng họ
và lập nên một đình làng. Riêng ở Bình
Định, một làng thường có nhiều dòng họ
sinh sống nên 9 thôn (hoặc 5 thôn) sẽ lập
nên một đình làng(3). Ngày nay, số đình
làng hiện còn không nhiều. Tuy nhiên, nơi
nào ở Bình Định còn đình làng thì nơi ấy
vẫn còn giữ tục hát bội cúng đình.

Đình Vinh Thạnh nhìn từ bên ngoài,
ngày 06/4/2014
ình


Đình Vinh Thạnh và Thanh Minh Tự,
ngày 06/4/2014

Đình Vinh Thạnh và Thanh Minh Tự (x Phước Lộc, h Tuy Phước, Bình Định)(4)
69


Từ xưa đến nay, Bình Định có lệ cúng
đình “Xuân Thu nhị kỳ” - mỗi năm 2 lần
vào mùa Xuân (lễ kỳ yên / cầu an) và mùa
Thu (lễ tạ ơn) vào khoảng tháng 1 và tháng
8 ÂL. Ở Nam bộ thì thường 3 năm cúng
một lần. Vào những dịp này, dân làng Bình
Định thường mời gánh hát bội về diễn
nhiều đêm liền. Giờ khởi ca (hát thứ lễ) là
để cúng thần thánh. Những đêm hát tiếp
sau mới để cho dân xem.
Theo kết quả khảo sát địa điểm diễn
hát bội Bình Định của chúng tôi từ các tờ
hợp đồng diễn của các đoàn hát bội Bình
Định ở đình làng (từ 2006 đến 2015), có 27
đình làng diễn ra hát bội Bình Định hàng
năm, trong đó, 23 đình ở Bình Định (chiếm
85%) và 4 đình (chiếm 15%) ở ngoài tỉnh
Bình Định. (Xem Hình 4. Tỉ lệ phân bố
đình làng diễn ra hát bội Bình Định ở trong
và ngoài tỉnh Bình Định).

Theo số liệu thống kê gần đây nhất

vào năm 2012 của tỉnh Bình Định, tổng số
đình làng được nhà nước công nhận là di
sản văn hóa còn tồn tại ở Bình Định gồm
có 9 đình. Tuy nhiên, qua khảo sát của
chúng tôi, hiện nay, Bình Định có khoảng
23 đình làng (kể cả các đình làng chưa lập
hồ sơ công nhận di sản) trong cả tỉnh. Hát
bội Bình Định gắn liền với nghi lễ cúng tế
ở các đình này. Các đình làng Bình Định
tập trung ở các nơi như: Tuy Phước, An
Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Quy Nhơn… Ví
dụ: Đình An Quang (x. Cát Khánh, h. Phù
Cát), Đình An Thường (x. Ân Thạnh, h.
Hoài Ân), Đình Hưng Lương (x. Nhơn Lý,
TP. Quy Nhơn), Đình Lạch (KV8, Nhơn
Bình, TP. Quy Nhơn); Đình làng An Phú
(th. Phú Mỹ 2, x. Phước Lộc, h. Tuy
Phước)… Tổng số 23 đình làng trên được
phân bố ở: Tuy Phước (7 đình), Quy Nhơn
(5 đình), An Nhơn (4 đình), Hoài Nhơn (2
đình), Tây Sơn (2 đình), Phù Mỹ (1 đình),
Phù Cát (1 đình), Hoài Ân (1 đình). Như
vậy, đình làng tập trung nhiều nhất là ở
Tuy Phước, Quy Nhơn và An Nhơn. An
Nhơn và Tuy Phước đều là những làng hát
bội nổi tiếng của tỉnh Bình Định. (Xem
Hình 5 và Hình 6).

ình . ỉ lệ phân bố đình làng diễn ra
hát bội Bình Định ở trong và ngoài tỉnh

Bình Định.

ình 5. ỉ lệ phân bố đình làng diễn ra hát
bội Bình Định ở trong tỉnh Bình Định.
70

ình 6. Tỉ lệ phân bố đình làng diễn ra
hát bội Bình Định ở ngoài tỉnh Bình Định


Thời gian diễn ra hát bội cúng đình là
từ tháng 1 đến tháng 8 âm lịch (tập trung
vào tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 7,
tháng 8 âm lịch). Ngoài ra, hiện nay, các
đoàn hát bội Bình Định còn lưu diễn ở một
số đình làng ngoài tỉnh như: Quảng Ngãi (1
đình), Ninh Thuận (1 đình), Bình Thuận (2
đình); vào tháng 3, tháng 7, tháng 8, tháng
11 âm lịch. Các buổi diễn trong dịp cúng
đình ở Bình Định thường kéo dài 2, 3 đêm
liền. Riêng ở ngoài tỉnh, hát bội Bình Định
diễn ra ít nhất là 3 đêm liền.
Buổi hát thứ lễ cúng đình ở Bình Định
sẽ diễn ở nhà võ ca, mục đích cho thần
thánh xem. Trong các buổi hát tiếp sau
trong dịp cúng đình, người ta dựng rạp hát
ở sân đình, mặt sân khấu cũng phải hướng
vào đình để có không rộng rãi hơn cho
người dân thưởng thức.
Khán giả và diễn viên hát bội Bình

Định trong lễ cúng đình đều với lòng tạ ơn
và cầu mong sự bình an, may mắn, thành
công cho năm mới. Các vở diễn cúng đình
thường là: “Cổ thành”, “Huê Dung Lộ”,
“Tam chiến Lữ Bố”, “Trương Phi thủ cổ
thành”, “Quan Công phò Nhị Tẩu”... nhằm
ca ngợi tâm đức của những vị thần thánh
trong đình làng. Ở Nam bộ thường diễn vở
“Sơn Hậu” (hồi 3) khi cúng đình. Và cuối
buổi diễn hát bội cúng đình luôn phải có
phần “Tôn Vương” với lời lẽ chúc tụng sự
bình an, thịnh vượng cho làng xóm, mọi
người. Có đoàn hát bội Nam bộ còn kết
thúc màn tôn vương bằng cách giơ cao tấm
liễn với các chữ “cầu chúc an khang thịnh
vượng”...
Ngày xưa, tục hát bội cúng đình phổ
biến khắp Trung bộ cho đến Nam bộ. Ngày
nay, tục này đã giảm đi rất nhiều vì số
lượng đình làng hoặc gánh Hát bội ngày
nay đã giảm nhiều. Một số tỉnh ở Bắc trung
bộ tuy còn đình làng nhưng lại không có

hát bội dịp tế lễ, như: Thừa Thiên Huế:
đình làng Thai Dương Hạ (lễ: “trò bủa
lưới”, hội: ngày trước có Hát bội, nay
không có)... Còn các tỉnh Nam trung bộ thì
nơi nào còn đình làng thì thường có hát bội
tế lễ, trong đó, tiêu biểu là tỉnh Bình Định.
Các tỉnh khác, hiện nay, trong tế lễ cúng

đình ít khi có hát bội (như TP. Đà Nẵng đình làng Hòa Mỹ, đình làng An Hải),
thường là Bả trạo... Hoặc không tổ chức
hát bội (như ở Ninh Thuận). Do tập tục, tín
ngưỡng và thói quen thưởng thức hát bội
của người dân Bình Định cùng với sự
phong phú các đoàn hát bội trong tỉnh nên
tất cả cuộc tế lễ ở đình làng Bình Định đều
gắn với hát bội . Một số tỉnh khác như
Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Ngãi... đã
mời các đoàn Hát bội Bình Định diễn cúng
đình làng.
Phổ biến trong dịp cúng đình làng ở
Bắc trung bộ hoặc Trung trung bộ ngày
nay thường hiếm khi có hát bội mà phổ
biến với những loại hình nghệ thuật khác
như: Hát nhà trò, Hát Kiều... ở Quảng
Bình.(5); Chèo bả trạo ở Quảng Nam; Hát
xoan ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc; Hát quan họ ở
Bắc Ninh... Ở Nam bộ, hát bội (cùng với
cải lương) vẫn phổ biến trong nghi lễ cúng
đình với các đoàn như: đoàn hát bội TP.
Hồ Chí Minh, đoàn hát bội Ngọc Khanh...
nhưng không để cúng thần ở phần lễ (là lễ
“xây chầu, đại bội”) mà chỉ có ở phần hội.
Còn hát bội ở Bình Định đều có cả ở lễ
(cúng 1 buổi hát) và hội (nhiều đêm hát).
Một số đình làng Nam bộ tiêu biểu có
tổ chức hát bội cúng đình là: TP. Hồ Chí
Minh: đình Phú Nhuận (ở q. Phú Nhuận;
16-18/1 ÂL), đình Bình Đông (q. 8; 1213/2 ÂL). Đồng Nai: đình Tân Lân (p. Hòa

Bình, TP. Biên Hòa; 12-14/2 ÂL). Bà Rịa –
Vũng Tàu: đình Thắng Tam (17-20/2 ÂL).
Tiền Giang: đình Kiểng Phước (x. Vàm
71


Láng, h. Gò Công Đông; 9/3 ÂL), đình
Vĩnh Lợi (Vĩnh Bình, Gò Công Tây; 1416/12 ÂL). TP. Cần Thơ: đình Bình Thủy
(14-15/4 ÂL và 15/12 ÂL). Bạc Liêu: một
số đình vào dịp lễ kỳ yên vào mùa xuân. An
Giang: đình Châu Phú (h. Châu Phú; 1012/5 ÂL). Một số đình làng ở các tỉnh Nam
bộ khác không có hát bội mà thường là Hát
bóng rỗi, Chặp địa nàng, Đờn ca tài tử...
Ở Bắc bộ, hiếm khi thấy diễn hát bội
dịp cúng đình, trừ ở hội đình Dư Hàng
(18/2 ÂL, ở Hải Phòng), lễ hội đình làng
Đình Bảng (12-15/2 ÂL; tx. Từ Sơn, t. Bắc
Ninh), lễ hội đình làng Từ Phong (9/3 ÂL;
th. Từ Phong, x. Cách Bi, h. Quế Võ, t. Bắc
Ninh) có diễn hát bội cùng với chèo...(6)
4. Phân bố và tổ chức biểu diễn hát bội
Bình Định ở miếu
Miếu có kiến trúc nhỏ hơn đình. Xung
quanh miếu có bờ thành (cắm miểng chai),
cổng vào có nhà ngõ, trụ biểu, bình
phong… Mặt tiền miếu thường xây trấn
thủy, sẵn đó đắp tên miếu bằng chữ Hán
(cũng có miếu đề chữ Quốc ngữ). Nếu đình
là nhà chung của cả làng thì miếu là nhà
chung của xóm để thờ các bộ hạ của các vị

thần linh. Hầu hết các làng đều có miếu
thanh minh, nhiều làng có miếu Hà bá,
miếu Mục Đồng (miếu Thần Nông) ở bên
bến sông, giữa đồng.(7)
Ở miền Bắc, người dân cũng có tục
cúng thanh minh nhưng không cúng trong
miếu. Ngược lại, ở miền Trung, tục cúng
thanh minh trở nên phổ biến ở miếu. Ở
Bình Định cũng vậy, hàng năm đều có
cúng thanh minh. Đình miếu ở Bình Định
thường thờ cúng những người có công khai
lập làng (Thành hoàng làng), khi qua đời,
họ được gọi là những “tiền hiền khai
khẩn”, “hậu hiền khai cơ”. Trong dịp cúng
thanh minh, ngoài việc tảo mộ gia tiên,
người dân còn tảo mộ cho các ngôi mộ vô

chủ. Nhiều miếu ở thôn xóm Bình Định đã
thờ những vong hồn này. Thời gian cúng
thanh minh vào khoảng 3 giờ, 4 giờ sáng
hoặc buổi trưa (sau khi tảo mộ xong).
Hát bội Bình Định cũng gắn liền với
tục cúng miếu, đặc biệt là vào dịp thanh
minh cuối tháng hai và hết tháng ba âm
lịch hàng năm. Người dân đồng lòng góp
công, góp của để cúng miếu, mời đoàn hát
bội về diễn dịp cúng thanh minh với quan
niệm rằng, ở đâu cũng có Thành hoàng,
Thổ địa, cô hồn nên “có thờ có thiêng, có
kiêng có lành”.

Ở Bình Định ngày xưa, mỗi thôn có
nhiều miếu, mỗi xóm có ít nhất một miếu.
Ngày nay, số lượng miếu cũng đã giảm đi
rất nhiều nhưng tục cúng miếu vẫn diễn ra
như thường lệ. Hiện nay (2015), sở thống
kê của tỉnh Bình Định chưa thống kê số
lượng miếu còn tồn tại ở Bình Định (chỉ
thống kê số đình miếu được công nhận là
di sản văn hóa). Theo khảo sát của chúng
tôi (căn cứ trên các tờ hợp đồng diễn),
Bình Định hiện còn rất nhiều miếu. Có
khoảng 181 miếu ở Bình Định vẫn còn diễn
ra Hát bội thường niên vào dịp tế lễ như:
miếu/“chùa” Thanh Minh (“Thanh Minh
Tự”; thờ thành hoàng làng...), miếu
Bà/“chùa Bà” (thờ bà Thiên Hậu…), miếu
Ông/“chùa Ông” (thờ Quan Công thánh đế),
miếu Mục Đồng (thờ Thần Nông), miếu âm
hồn (miếu Cô bác/nghĩa tự)… Ngoài ra, các
đoàn hát bội Bình Định còn lưu diễn ngoài
tỉnh, ở các miếu thờ (bà Thủy, bà Thiên
Hậu...), gồm 18 miếu, tập trung ở các tỉnh:
Quảng Ngãi, Gia Lai, Phú Yên…
Theo thống kê của chúng tôi (từ 2006
đến 2015), tổng số miếu có diễn hát bội Bình
Định là 181 miếu, phân bố ở các nơi như:
Trong tỉnh Bình Định (161 miếu,
chiếm 89%): h. Tuy Phước (51miếu), tx.
An Nhơn (46), TP. Quy Nhơn (27), h. Phù
72



Cát (17), h. Tây Sơn (16), h. Phù Mỹ (3), h.
Hoài Nhơn (2).
Ngoài tỉnh Bình Định (19 miếu, chiếm

11%): t. Phú Yên (8), t. Khánh Hòa (5),
Quảng Ngãi (2), t. Vũng Tàu (2), t. Gia Lai
(1), t. Bình Phước (1).

ình . ỉ lệ phân bố số lượng miếu diễn ra hát bội Bình Định ở trong và ngoài tỉnh
Bình Định.
ỉ lệ phân bố số lượng miếu
diễn ra hát bội Bình Định
ở ngoài tỉnh Bình Định

ỉ lệ phân bố số lượng miếu diễn ra
hát bội Bình Định
ở trong tỉnh Bình Định
Tây
Phù Mỹ
Sơn
2%
10%
Phù Cát
10%
Quy
Nhơn
17%


Bình
Gia Lai Phước
5%
Vũng 5%
Tàu
11%
Quảng
Phú Yên
Ngãi
42%
11%
Khánh
Hòa
26%

Tuy
Phước
32%
An
Nhơn
29%

ình 8. ỉ lệ phân bố số lượng miếu diễn ra
hát bội Bình Định ở trong tỉnh Bình Định.

ình 9. ỉ lệ phân bố số lượng miếu diễn ra
hát bội Bình Định ở ngoài tỉnh Bình Định.

Miếu thường nằm ở khoảng đất trống
trong mỗi xóm. Trong buổi hát đầu tiên để

dâng cúng thần thánh, diễn viên hát ngay
trước cửa miếu. Trong không gian diễn
xướng này, cả diễn viên và khán giả đều ấp
ủ lời cầu xin, lòng tạ ơn, chúc tụng các vị
thần thánh, các cô bác... trong miếu để
được các vị phù hộ, ban ơn. Các buổi hát
tiếp theo, người ta thường dựng rạp hát bội
cách mặt đất khoảng 2m, mặt sân khấu

hướng đối diện miếu để cho thần thánh
cùng người dân xem.
Giờ khởi ca trong buổi hát bội cúng
miếu hiện nay thường là 0 giờ, hoặc 3 hay
4 giờ sáng, hoặc 14 giờ chiều. Giờ hát khởi
ca sẽ thay đổi tùy từng năm, từng miếu và
tùy vào giờ tốt. Thời gian diễn ra hát bội
Bình Định trong lễ hội cúng miếu thường
kéo dài từ 3 đến 4 đêm (trong tỉnh) hoặc từ
5 đến 7 đêm (ngoài tỉnh).
73


Những vở hát thứ lễ (khởi ca) thường
là các vở truyền thống, được ban tổ chức
của miếu yêu cầu để phù hợp với các vị
thần thánh thờ trong miếu. Chẳng hạn, ở
miếu Ông - thường hát “Quan Công phò
Nhị Tẩu”, “Cổ thành”...; ở miếu Bà – hát
“Huê Thần Nữ dâng ngũ linh kỳ”... Các vở
diễn của những đêm hát tiếp sau sẽ do

người dân địa phương chọn, thường là các
tuồng tiểu thuyết: “Bóng đen nghĩa hiệp”,
“Tái sanh kỳ ngộ”...

Thanh Minh Tự (cạnh đình
Vinh Thạnh) (x. Phước Lộc, h.
Tuy Phước, t. Bình Định,
11g16 ngày 06/4/2014)(8)

Các miếu ở các tỉnh lân cận như Gia
Lai, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Phú Yên,
Ninh Thuận, Bình Thuận... thường mời các
đoàn hát bội Bình Định đến diễn khi tế lễ.
Riêng các miếu ở Nam bộ thường không
diễn hát bội mà diễn Bóng rỗi, Chặp địa
nàng... Còn các tỉnh Bắc bộ thì thường là
Hát xoan, Hát quan họ, Ca trù, Chầu văn,
Xẩm... Trừ vài miếu ở Bắc bộ thì có hát
bội như ở: hội đền bà Chúa Kho (miếu
Giảng Võ) ở Hà Nội...

Hát bội (đoàn Sao Mai) trong
lễ cúng Thanh minh ở KV1,
ph. Quang Trung, TP. Quy
Nhơn(9)

Hát bội thứ lễ tại lễ hội Vía Bà
năm Nhâm Thìn (2012)(10)

ình 1 . Miếu và hát bội trong dịp tế lễ ở miếu


ình 11. Hát bội cúng miếu rung An (đoàn rần Quang Diệu) ở xóm Nam, thôn
rung ín 1, h. uy Phước, t.t. uy Phước, Bình Định;
Ảnh: Châu Tuấn, ngày 4/3 ÂL (2015).
nôi của dòng hát bội miền Trung, là đất hát
bội có lượng khán giả say mê, am hiểu hát
bội nhiều hơn nên cũng là không gian diễn
xướng thuận lợi để hát bội tồn tại lâu bền
hơn các tỉnh khác.

5. Kết luận
Nếu như ở miền Bắc, hát Chèo, hát
Quan họ... phổ biến khắp vùng nông thôn;
miền Nam có Cải lương, thì miền Trung,
đặc biệt là Bình Định, hát bội rộn rã khắp
nơi vào dịp tế lễ, hội hè. Bình Định là cái
74


Trong không gian thiêng (308 địa
điểm biểu diễn hát bội Bình Định), không
gian miếu là chiếm tỉ lệ cao nhất (59%),
tiếp theo là lăng (24%), sau đó đến đình
(9%) và thấp nhất là đền và chùa (2%).
Không gian diễn xướng đình, miếu của hát
bội Bình Định không chỉ giới hạn về mặt
địa lý (trong tỉnh Bình Định) mà còn mở
rộng ra các tỉnh khu vực duyên hải Nam
trung bộ đến Bà Rịa, Vũng Tàu. Nhờ sự di
dân từ miền Trung vào Nam trong nhiều

giai đoạn lịch sử nên tục hát bội phục vụ ở
các cơ sở thờ tự trở nên phổ biến. Ngoài ra,
ở Bình Định, lực lượng các đoàn hát bội
vẫn còn nhiều và mạnh hơn các tỉnh khác.
Hiện nay, tuy số lượng đoàn hát bội ở Bình
Định đã giảm hơn nhiều so với trước
nhưng với hơn 6 đoàn hát bội dân gian và 1
đoàn chuyên nghiệp (được nhà nước đầu
tư) hoạt động mạnh nhất trong và ngoài
tỉnh, như các đoàn hát bội: Phước An, An
Nhơn, Tuy Phước, Ánh Dương, Trần
Quang Diệu, Sông Côn, Nhơn Hưng, Nhà
hát tuồng Đào Tấn. Theo thông tin từ các
trưởng đoàn hát bội Bình Định, mỗi đoàn
biểu diễn ít nhất là 100 suất hát trong một
năm. Riêng các đoàn hát bội dân gian, mỗi
đoàn diễn trung bình khoảng 150 suất/ năm
(mỗi suất là 3 tiếng đồng hồ; giá hiện nay
(2015) khoảng 5 – 7 triệu/suất)(11). Trong
suốt mùa lễ hội, nhất là từ tháng 1 đến
tháng 8 âm lịch hàng năm, các đoàn hát bội
Bình Định biểu diễn khắp nơi trong tỉnh và
mở rộng không gian diễn xướng ra ngoài
tỉnh. Các đoàn hát bội ở các tỉnh khác cũng
có nhiều suất diễn hàng năm nhưng không
nhiều bằng các đoàn Hát bội Bình Định.
Chẳng hạn, Đoàn hát bội TP. Hồ Chí Minh
hằng năm diễn khoảng 150 suất theo chỉ
tiêu của nhà nước nhưng họ chỉ diễn nhiều
vào dịp cúng đình làng Nam bộ (gần 30

suất diễn). Đoàn hát bội Ngọc Khanh (đoàn

dân gian) cũng chỉ diễn nhiều vào dịp cúng
đình miếu, khoảng vài chục suất.(12) Gánh
hát bội Đồng Thinh (ở Vĩnh Long) diễn
gần 70 suất.(13) Còn với hơn 7 đoàn hát bội
Bình Định, mỗi đoàn thường diễn trung
bình khoảng 100 đến 150 suất mỗi năm.
Như vậy, qua các hoạt động của các đoàn
hát bội Bình Định cho thấy, không gian
diễn xướng hát bội Bình Định là rất rộng
(cả trong và ngoài tỉnh) và phong phú nhất.
Hát bội Bình Định là một trong những
phong cách tiêu biểu của loại hình nghệ
thuật sân khấu hát bội truyền thống Việt
Nam. Không gian diễn xướng là một trong
những yếu tố quan trọng góp phần quyết
định sự tồn tại của hát bội Bình Định.
Đình, miếu là nơi thường xuyên tổ chức
các tế lễ thờ cúng các vị: Thành hoàng
làng, bà Thiên Hậu, bà Mụ (bà Chúa thai
sanh)... Hát bội luôn có mặt trong các dịp
cúng tế này. Thời gian tổ chức hát bội Bình
Định ở đình miếu diễn ra hằng năm (từ
tháng 1 đến tháng 8 âm lịch) và tập trung
nhất là từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch; biểu
diễn từ 3 đến 7 đêm liền.
Hát bội Bình Định không chỉ diễn ra
giới hạn trong tỉnh Bình Định mà còn mở
rộng ra các tỉnh ven biển khác như Quảng

Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận,
Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình
Phước, TP. Hồ Chí Minh... Nhờ các phong
tục, tập quán cúng tế... ở đình miếu của
người dân Bình Định nói riêng và ngư dân
vùng duyên hải Nam trung bộ nói chung,
hát bội Bình Định có thêm điều kiện tốt để
được lưu truyền, tồn tại phổ biến đến ngày
nay. Trong không gian diễn xướng này, hát
bội Bình Định có thêm điều kiện để tồn tại
và phổ biến trong đời sống của người dân
Bình Định nói chung và người dân vùng
duyên hải Nam trung bộ nói riêng. Từ đó,
góp phần hình thành phong cách hát bội
75


12) Theo Thanh Hiệp, 8/8/2015, “Sân khấu hát
bội sẽ đi về đâu”: />news/san-khau-hat-boi-se-di-ve-dau.aspx

Bình Định. Như vậy, việc duy trì và phát
huy không gian diễn xướng đình, miếu của
hát bội Bình Định là một trong những việc
làm quan trọng, cấp bách, để hát bội Bình
Định luôn trường tồn.

13) Theo Phạm Thị Bình, 22/2/2013, “Bầu Răng,
người tâm huyết với gánh hát bội Đồng
Thinh”: />bau-rang-nguoi-tam-huyet-voi-ganh- hat-boidong-thinh-20130222082249803.htm


Chú thích
1)

Theo Huỳnh Kim Bửu (2-9-2009), “Đình làng”:
/>882/51/

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Phạm Thị Bình (22/02/2013), Bầu Răng,
người tâm huyết với gánh hát bội Đồng
Thinh: />bau-rang-nguoi-tam-huyet-voi-ganh-hat-boidong-thinh-20130222082249803.htm

Theo Đinh Bá Hòa (2012): Văn hóa – Xã
hội Bình Định. – Nxb Văn hóa Thông tin Hà
Nội, tr.257, 258.

2.

Huỳnh Kim Bửu (02/9/2009), Đình làng:
/>/882/51/

4)

Ảnh: Huỳnh Chương Hưng, 04/7/2014, “Đình
Vinh Thạnh”: nhchuong hung.
com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuocloc-huyen.html

3.


Huỳnh Kim Bửu, Kiến trúc ở làng quê Bình
Định: />
4.

5)

Theo Lưu Đức Hải (19-1-2014), “Phong tục
thờ cúng cộng đồng ở Cao Lao Hạ”:
/>&op=thong-cao-bao-chi/Phong-tuc-tho-cungcong-dong-o-Cao-Lao-Ha-147

Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng (1970), Hát
Bội, Kim Lai ấn quán, Sài Gòn, tr. 249.

5.

Theo Phạm Trình – Trần Minh (biên soạn)
(2012), Hành Trình lễ hội Việt Nam, NXB.
Đồng Nai; tr.149, 153, 191.

Lưu Đức Hải (19/1/2014), Phong tục thờ cúng
cộng đồng ở Cao Lao Hạ: http://caolaoha.
com/?language=vi&nv=news&op=thongcao-bao-chi/Phong-tuc-tho-cung- cong-dongo-Cao-Lao-Ha-147

6.

Theo Huỳnh Kim Bửu: “Kiến trúc ở làng quê
Bình Định”: />nghien-cuu/kien-truc-o-lang-que-binh-dinh.
html

Văn Hiến (17/01/2012), Đình làng An Định

(An Nhơn, Bình Định): .
vn/danh-lam/dinh-chua/883-dinh-lang-andinh-an-nhon-binh-dinh.html

7.

Thanh Hiệp (08/8/2015), Sân khấu hát bội
sẽ đi về đâu: />san-khau-hat-boi-se-di-ve-dau.aspx

8.

Đinh Bá Hòa (2012), Văn hóa – Xã hội Bình
Định, Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội, tr.
257-258.

9.

Huỳnh Chương Hưng (04/7/2014), Đình
Vinh Thạnh: nhchuonghung.
com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuocloc-huyen.html

2)

Theo Văn Hiến (17-01-2012), “Đình làng
An Định (An Nhơn, Bình Định)”:
/>883-dinh-lang-an-dinh-an-nhon-binh-dinh.
html

3)

6)


7)

8)

9)

Ảnh: Huỳnh Chương Hưng, 04/7/2014, “Đình
Vinh Thạnh”: nhchuonghung.
com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuocloc-huyen.html
Ảnh sưu tầm: />viewer.aspx?macm=18&macmp=18&mabb=2113

10) Ảnh: H. Khá: />listdetail.php?listid=84&id=90
11) Thông tin từ các trưởng đoàn Hát bội dân
gian Bình Định (năm 2014, 2015).

10. H. Khá, Lễ hội vía Bà: hdinh.
gov.vn/listdetail.php?listid=84&id=90

76


11. Trần Văn Khải (1970), Nghệ thuật Sân khấu
Việt Nam – Hát Bội, Cải lương, Thoại kịch,
Thanh Trung Tư Xã, Sài Gòn, tr. 2-3.

13. Trần Minh – Phạm Trình (biên soạn) (2012),
Hành trình lễ hội Việt Nam, Nxb Đồng Nai,
tr.149-153-191.


12. Sao Ly (13/4/2013), Vào mùa thanh minh:
/>x?macm=18&macmp=18&mabb=2113

14. Đoàn Nồng (1942), Sự tích và Nghệ thuật
Hát Bội, Mai Linh xuất bản, tr. 9.

Ngày nhận bài: 07/12/2015

Biên tập xong: 15/02/2016

77

Duyệt đăng: 20/02/2016



×